Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

Thương vợ - Tế Xương - Để học tốt Ngữ Văn 11 - Hoc360.net

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.47 KB, 6 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

4.ĐHVBNV11-A 1
hoc360.net


<b>THƯƠNG VỢ</b>


<b>Tế Xương</b>


<b>I- GỢI DẪN</b>


1. Trần Tế Xương (1870 - 1907) thường gọi là Tú Xương, quê ở làng Vị Xuyên, huyện Mĩ Lộc,
tỉnh Nam Định. Tú Xương có cá tính sắc sảo, phóng túng, khó gị vào khn sáo trường quy, nên
dù có tài nhưng tám lần thi vẫn chỉ đỗ tú tài. Tú Xương sinh vào giai đoạn giao thời, xã hội có
nhiều thay đổi. Xã hội phong kiến già nua chuyển mình trở thành xã hội thực dân phong kiến. Quê
hương ông thể hiện rất rõ sự chuyển mình ấy. Hằng ngày, những điều ngang tai trái mắt cứ đập vào
mắt ông, gây phản ứng trong tâm trạng, và thể hiện thành hai nội dung lớn trong thơ ơng : trữ tình
và trào phúng.


2. Thơ Tế Xương dù là trữ tình hay trào phúng đểu thể hiện một cái nhìn sắc sảo của một nhà
nho có tâm và có tài. Trong thơ ơng bao giờ cũng xuất hiện một nhân vật trữ tình với đủ cả dáng vẻ
và tâm hồn. Và thơ ông thể hiện thái độ phản kháng đối với thời cuộc. Ông luôn phê phán sâu cay
những mặt trái của xã hội. Vì thế giọnp; thơ thường chua cay và đanh đá.


<i>3. Thương vợ</i> là bài thơ tiêu biểu cho mảng thơ trữ tình của Tú Xương. Bài thơ thể hiện tấm


lòng của nhà thơ đối với vợ, đồng thời thể hiện nhân cách Tú Xương. Đây cũng lại là tâm sự chua
cay của người chồng - nạn nhân của xã hội lố lăng, đảo điên, biến con người trở thành vơ tích sự
với chính mình và gia đình.


Bài thơ được cấu tạo làm bốn phần theo kết cấu đề, thực, luận, kết. Bài thơ ngợi ca đức hi sinh
của những người phụ nữ và sự cảm thông, thấu hiểu của người chồng. Ngôn ngữ dung dị, đời
thường nhưng với tài năng và tấm lòng, Tú Xương đã tạo nên một bài thơ sâu sắc, chứa đựng


những giá trị nhân văn bền vững.


<i>4. Đọc chậm, chú ý nhấn giọng ở mom sơng, năm con, một chồng, lặn lội thân cị, eo sèo mặt</i>


<i>nước, năm nắng mười mưa. Hai câu cuối đọc lên giọng cao hơn.</i>


<b>II - KIẾN THỨC CƠ BẢN</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

4.ĐHVBNV11-A 2
hoc360.net


là lẽ đương nhiên. Vì thế, họ ít viết thơ về vợ như các nhà thơ hiện đại. Riêng Tú Xương viết rất
nhiều thơ về vợ, trong đó tiêu biểu có bài Thương vợ. Đây là bài thơ thể hiện cả tài thơ lẫn nhân
cách Tú Xương.


Sinh ra vào thời buổi "Tây Tàu lố lăng", đạo đức xã hội suy đồi nghiêm trọng, Tú Xương ln
mang trong mình tâm sự cay đắng của một người có nhân cách nhưng bất lực. Bao nhiêu điều
ngang tai trái mắt đã được Tú Xương đưa vào thơ. Mỗi bài thơ trào phúng của ông là một tiếng chửi
chua chát và cay độc ném vào lũ người sẵn sàng bán rẻ lương tâm, giẫm đạp lên quyền lợi và danh
dự dân tộc, chà đạp lên đạo lí để hịng hưởng cuộc sống no nê. Đó chính là mảng thơ trào phúng.


Bên cạnh đó, những bài thơ trữ tình sâu lắng của Tú Xương lại thể hiện những nỗi niềm ẩn
khuất đằng sau cái vẻ chanh chua, cay nghiệt với cuộc đời. Tâm sự của một con người đau đời, đau
cho mình được ông dồn nén ở đây. Thương vợ là một trong số những bài thơ như thế. Hình thức thơ
Đường luật đã được cách tân bởi những ngôn từ đời thường giản dị, gần gũi với dân gian và tâm sự
rất thật của một người chồng khi viết về người vợ tảo tần của mình. Tú Xương có một người vợ rất
thảo hiền. Cả cuộc đời bà Tú đã hi sinh cho chồng con, điều này được thể hiện qua những bài thơ
nhà thơ viết về vợ. Là một nhà nho sống vào thời buổi người ta đang sẵn sàng "Vứt bút lơng đi viết
bút chì" để được hưởng cuộc sống "Sáng rượu sâm banh.tối sữa bò", với tâm hồn thanh sạch của
một con người, ông Tú đã chẳng thể giúp gì được cho vợ. Gánh nặng gia đình dồn lên vai bà Tú,


nhưng với tấm lòng tần tảo và đức hi sinh của người phụ nữ phương Đông, bà Tú đã luôn cố gắng
để đảm bảo cuộc sống cho chồng con, để ông Tú vẫn được rảnh rang thực hiện vai trị "người thư kí
thời đại". Chính vì lẽ đó mà ông Tú luôn tôn trọng vợ.


Bài thơ xuất hiện hai nhân vật : người vợ và người chồng. Hình ảnh người vợ hiện lên qua cảm
nhận của nhân vật trữ tình - người chồng :


<i>Quanh năm bn bán ở mom sông,</i>
<i>Nuôi đủ năm con với một chồng.</i>
<i>Lặn lội thân cị khi qng vắng,</i>
<i>Eo sèo mặt nước buổi đị đơng.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

4.ĐHVBNV11-A 3
hoc360.net


gánh nặng lo toan ấy. Dường như đó là lời tự trách chua cay. Vì gia đình, vì người chồng có q
nhiều nhu cầu ấy mà người vợ vất vả hơn. Ở hai câu thơ sau, nỗi vất vả như càng tăng tiến. Những
từ ngữ như lặn lội — qng vắng, eo sèo - đị đơng có sức gợi. Hình ảnh người vợ vất vả như hiện
rõ hơn, day dứt hơn trong cảm nhận của nhà thơ. Ông rất thấu hiểu nỗi cực nhọc của vợ, thấu hiểu
để cảm thông, để trân trọng người vợ thảo hiền. Nhân cách của người chồng thể hiện ở sự thấu hiểu
ấy. Khơng phải ơng vơ trách nhiệm với gia đình và vợ con mà bởi ông bế tắc. Giữa lúc cuộc sống
xã hội đầy rẫy những chuyện đảo điên :


<i>Nhà kia lỗi phép con khinh bố,</i>


<i>Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng.</i>


mà người vợ vẫn nhẫn nại miệt mài, vẫn một lịng một dạ với chồng con. Chính điểu đó đã khiến
người chồng cảm phục. Ơng nói lên sự cảm thơng của mình :



<i>Một dun hai nợ âu đành phận,</i>


<i>Năm nắng mười mưa dám quản công.</i>


Hai thành ngữ xuất hiện trong hai câu thơ đều có nghĩa diễn tả sự vất vả của người phụ nữ phải
nuôi chồng nuôi con. Và cũng ở đây, một lần nữa, người chồng thể hiện sự trân trọng đối với người
vợ. "Âu đành phận", "dám quản công" không phải là sự cam chịu của người vợ mà đó là lời của
nhân vật trữ tình - người chồng. Hình ảnh người vợ cứ lặng lẽ làm việc nuôi chồng nuôi con với
một đức hi sinh vơ cùng lớn lao đã là hình tượng nổi bật trong bài thơ. Chỉ đến hai câu thơ cuối,
người chồng mói bày tỏ thái độ của mình với chính mình. Câu thơ có vẻ như một sự thay đổi mạch
cảm xúc khá đột ngột :


<i>Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,</i>


<i>Có chồng hờ hững cũng như khơng.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

4.ĐHVBNV11-A 4
hoc360.net


Như tự chửi mình nhưng là chửi đời. Chửi những ông chồng vô tích sự nhưng lại thích hưởng thụ,
chửi cuộc đời đen bạc để những người phụ nữ vốn đã vất vả, thiệt thòi lại càng vất vả, thiệt thịi
hơn. Chửi “thói địi ăn ở bạc” đã biến những ông chồng không thành kẻ hư hỏng thì cũng thành
người vơ tích sự.


Là một nhà nho sinh ra vào thời kì Hán học đã thất thế nên một ơng Tú chẳng thể giúp gì được
cho vợ con. Tâm trạng thương vợ được trở lại nhiều lần trong thơ Tú Xương. Thấu hiểu và trân
trọng sự vất vả của vợ, tình cảm đối với người vợ hiền thảo tảo tần đã khiến Tú Xương đóng góp
cho văn học Việt Nam một hình tượng đẹp về người phụ nữ phương Đơng. Ngôn ngữ dung dị, đời
thường, sử dụng nhiều chất liệu dân gian, với tài năng và tấm lòng, Tú Xương đã tạo nên một bài
thơ hay có giá trị nhân văn sâu sắc.



<b>III- LIÊN HỆ</b>


1. Ngẫm ngợi về Tú Xương, thi sĩ - nhà giáo Trần Trung viết bài thơ <i>vẫn một</i>


<i>Tú Xương :</i>


<i>Khi Tú Xương "Đi hát mất ô"</i>


<i>Lửng lửng lơ lơ ỡm ờ câu hát Khi Tú Xương "Thương vợ"</i>
<i>Bước tâm linh</i>


<i>thập thộm thân cò...</i>


<i>Dẫu đã quen phong vận thị thành</i>


vẫn <i>se lịng tiếng giày khua chí chát</i>
<i>Mịt mờ bụi vẩn Thành Nam</i>


<i><b>Phố Hàng Song</b></i>


<i>Xồng xộc bước chân người</i>


<i>Xáp mặt cười vết nhơ Thành, Đốc</i>
<i>Rồi đêm về lặn ngợp cái buồn tênh </i>
<i>Tiếng ai gọi - thót đau tâm tưởng</i>
<i> Giật mình Sơng Lấp</i>


<i>Đị ơi...</i>



<i>Giữa thời thác loạn</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

4.ĐHVBNV11-A 5
hoc360.net


<i>Vật vã khóc cười - vẫn một Tú Xương</i>
<i>Tú Xương đi</i>


<i>Hun hút Hàng Nâu</i>
<i>Ngất ngưởng độc hành</i>


<i>Bước cao thấp dặm sầu trăm mối</i>
<i>Cõi vô cùng vướng nợ thi nhân.</i>


Nam Định, 11-1990


2. Cảm kích trước nhân vật trữ tình trong bài Thương vợ, tác giả Trần Trung Phụng Gửi bả Tú
<i>Xương :</i>


<i>"Quanh năm lặn lội ở mom sông",</i>
<i>Thương bà gánh kiếp lấy chồng làm thơ.</i>


<i>Õng nhà ra ngẩn vào ngơ,</i>
<i>Áo bơng giữa hạ, mất ơ đầu ngày.</i>


<i>Nặng tình muối mặn gừng cay,</i>


<i>Bà cười nịnh mát : - Chịu ngài giỏi giang.</i>
<i>Đèn xanh soi tỏ quyển vàng,</i>



<i>Trăm năm còn thắm đôi hàng răng đen.</i>
<i>Tôi : con cháu đất Vị Xuyên,</i>


<i>Yêu tin, bà gửi một em mở dòng.</i>
<i>Giống bà cái dáng vẹo hơng,</i>
<i>Khác bà cái tính ghét chồng làm thơ.</i>


<i>Tơi thương biết mấy cho vừa,</i>


<i>Ước ao học được ông xưa tế bà.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

4.ĐHVBNV11-A 6
hoc360.net


chừng.


Cho nên ai muốn nói gì đến Tú Xương thì cứ nói ra, tơi đều coi trọng [...] nhưng tôi vẫn cho
rằng thơ Tú Xương đi bằng cả hai chân hiện thực và trữ tình, mà cái chân hiện thực ở người Tú
Xương chỉ là một cẳng chân trái. Tú Xương lấy cái chân phải trữ tình mà khiến cái chân trái tả
thực. Chủ đạo cho đà thơ là ở chân phải và Tú Xương đã băng được mình thơ tói chúng ta bằng
nước bước lãng mạn trữ tình.


</div>

<!--links-->

×