Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Giải quyết tranh chấp thương mại trong lĩnh vực mua bán hàng hóa theo pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.05 MB, 90 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƢƠNG MẠI
TRONG LĨNH VỰC MUA BÁN HÀNG HÓA
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

BÙI TRUNG TOÀN

HÀ NỘI - NĂM 2020


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƢƠNG MẠI
TRONG LĨNH VỰC MUA BÁN HÀNG HÓA
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
BÙI TRUNG TOÀN
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 8380107

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. VŨ PHƢƠNG ĐÔNG

HÀ NỘI - NĂM 2020



LỜI CAM ĐOAN
Tơi là Bùi Trung Tồn học viên lớp 18M-LKT72 khóa 4 xin cam đoan
đây là cơng trình độc lập của riêng tôi mà không sao chép từ bất kỳ nguồn tài
liệu nào đã được công bố. Các tài liệu, số liệu sử dụng phân tích trong luận
văn đều có nguồn gốc rõ ràng, được trích dẫn đầy đủ, có xác nhận của cơ
quan cung cấp số liệu. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn là kết quả
nghiên cứu của tôi được thực hiện một cách khoa học, trung thực, khách quan.
Tơi xin chịu trách nhiệm về tính trung thực, chính xác của các nguồn số liệu
cũng như các thơng tin sử dụng trong cơng trình nghiên cứu của mình.
Tơi xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày

tháng

năm 2020

Ngƣời cam đoan

Bùi Trung Toàn


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT

Chữ viết tắt

Diễn giải


1

AL

Án lệ

2

BLDS

Bộ luật dân sự

3

BLTTDS

Bộ luật tố tụng dân sự

4

LTM

Luật thương mại

5

LTTTM

Luật trọng tài thương mại


6

TTTT

Thỏa thuận trọng tài

7

TAND

Tòa án nhân dân

8

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

9

TTLT

Thông tư liên tịch

10

BTP

Bộ tư pháp


11

EU

Liên minh Châu Âu

12

VSNDTC

Viện kiểm sát nhân dân tối cao


MỤC LỤC
Trang
Trang bìa phụ
Lời cam đoan
Danh mục các từ viết tắt
LỜI NÓI ĐẦU
Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ TRANH CHẤP THƢƠNG MẠI VÀ
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƢƠNG MẠI TRONG LĨNH VỰC
MUA BÁN HÀNG HÓA
1.1. Những vấn đề lý luận về tranh chấp thương mại trong lĩnh vực mua
bán hàng hóa
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm tranh chấp thương mại trong lĩnh vực mua
bán hàng hóa
1.1.2. Phân loại tranh chấp thương mại trong lĩnh vực mua bán hàng hóa
1.1.3. Nguyên nhân xảy ra tranh chấp thương mại phát sinh trong lĩnh
vực mua bán hàng hóa
1.1.4. Hậu quả tranh chấp thương mại trong lĩnh vực mua bán hàng hóa

1.2. Một số vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp thương mại trong lĩnh
vực mua bán hàng hóa
1.2.1. Khái niệm giải quyết tranh chấp thương mại trong lĩnh vực mua
bán hàng hóa
1.2.2. Đặc điểm của giải tranh chấp thương mại trong lĩnh vực mua bán
hàng hóa
1.2.3. Những yếu tố tác động đến thực thi pháp luật về giải quyết tranh
chấp thương mại trong lĩnh vực mua bán hàng hóa
Kết luận chƣơng 1
Chƣơng 2: QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP THƢƠNG MẠI TRONG LĨNH VỰC MUA BÁN
HÀNG HÓA
2.1. Phương thức giải quyết tranh chấp bằng thương lượng

1
6

6
6
13
14
18
18
18
21
21
23

24
24



2.1.1. Khái quát chung
2.1.2. Quy định pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại trong lĩnh
vực mua bán hàng hóa bằng thương lượng
2.2. Phương thức giải quyết tranh chấp bằng hòa giải
2.2.1. Khái quát chung
2.2.2. Quy định pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại trong lĩnh
vực mua bán hàng hóa bằng hịa giải
2.3. Phương thức giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài thương mại
2.3.1. Khái quát chung
2.3.2. Quy định pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại trong lĩnh
vực mua bán hàng hóa bằng Trọng tài thương mại
2.4. Phương thức giải quyết tranh chấp bằng Tòa án
2.4.1. Khái quát chung
2.4.2. Quy định pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại trong lĩnh
vực mua bán hàng hóa bằng Tịa án
Kết luận chƣơng 2
Chƣơng 3: KIẾN NGHỊ CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƢƠNG MẠI TRONG
LĨNH VỰC MUA BÁN HÀNG HÓA
3.1. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp thương
mại trong lĩnh vực mua bán hàng hóa bằng thương lượng và hòa giải
3.2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp thương
mại trong lĩnh vực mua bán hàng hóa bằng Trọng tài thương mại
3.3. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp
thương mại trong lĩnh vực mua bán hàng hóa tại Tịa án
3.3.1. Khắc phục vấn đề thời hạn giải quyết vụ án tranh chấp thương mại
trong lĩnh vực mua bán hàng hóa
3.3.2. Biện pháp đảm bảo cho việc bị đơn phải có mặt tại Tịa án

3.3.3. Xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật và thống kê thành tập
án lệ riêng trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp thương mại
3.3.4. Việc tiếp nhận, xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ của Tòa án
3.3.5. Xem xét về thẩm quyền của Viện kiểm sát với tư cách là người
tiến hành tố tụng đối với vụ án tranh chấp thương mại trong lĩnh vực mua

24
25
27
27
28
32
32
34
48
48
49
68
69
69
69

70
72
72
74
75
76



bán hàng hóa
3.3.6. Thống nhất cách hiểu và vận dụng các quy định của pháp luật có
liên quan trong ngành Tòa án
Kết luận chƣơng 3
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

77
78
80
81


LỜI NĨI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Mua bán hàng hóa là một trong những hoạt động phổ biến nhất trong
hoạt động kinh doanh, thương mại, là thỏa thuận của hai bên gồm bên mua và
bên bán nhằm đạt được lợi ích mà các bên mong đợi. Theo thời gian, hoạt
động mua bán hàng hóa ngày càng phát triển đa dạng, nhiều sắc màu với sự
tăng lên về số lượng hàng hóa, số lượng người tham gia kinh doanh. Ngày
nay, mua bán hàng hóa khơng chỉ diễn ra giữa bên mua và bên bán trong nước
mà phạm vi kinh doanh lan rộng ra phạm vi thế giới. Cùng với đó, các tranh
chấp thương mại nói chung và tranh chấp thương mại trong lĩnh vực mua bán
hàng hóa nói riêng ngày càng gia tăng về số lượng cũng như sự phức tạp của
từng vụ việc địi hỏi phải có một hệ thống pháp luật điều chỉnh toàn diện cũng
như cơ chế giải quyết nhanh gọn. Việc giải quyết các tranh chấp trong lĩnh
vực này cần kịp thời và nhanh chóng, làm sao để khơng ảnh hưởng đến uy tín
của doanh nghiệp và hoạt động kinh doanh của các bên, nhằm đảm bảo cho sự
ổn định và phát triển môi trường kinh doanh một cách lành mạnh, quyền và
lợi ích hợp pháp của các bên đều được bảo đảm.

Pháp luật Việt Nam hiện nay quy định các hình thức giải quyết tranh
chấp thương mại nói chung và tranh chấp thương mại trong lĩnh vực mua bán
hàng hóa nói riêng gồm thương lượng, hòa giải, Trọng tài và Tòa án. Các bên
được tự do thỏa thuận hình thức này hay hình thức khác để giải quyết tranh
chấp theo quy định của pháp luật. Mặc dù pháp luật Việt Nam quy định về
giải quyết tranh chấp thương mại nói chung và tranh chấp thương mại trong
lĩnh vực mua bán hàng hóa đã có những bước tiến bộ nhất định, song cũng có
những mặt hạn chế, bất cập khi vận dụng trong thực tiễn. Từ đó, thực tiễn địi
hỏi phải có sự hồn thiện về nhiều mặt, trong đó có việc hồn thiện các quy
định của pháp luật.
Với các nội dung nêu trên, đề tài của học viên lựa chọn: “Giải quyết
tranh chấp thương mại trong lĩnh vực mua bán hàng hóa theo pháp luật Việt
Nam” là cần thiết nghiên cứu, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu
1


Giải quyết tranh chấp thương mại nói chung và giải quyết tranh chấp
thương mại trong lĩnh vực mua bán hàng hóa là một đề tài nghiên cứu được
nhiều nhà khoa học lựa chọn và nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau. Các
cơng trình nghiên cứu đó đã góp phần tạo nên một cơ sở lý luận và thực tiễn
nhằm giúp pháp luật của nước ta ngày càng hoàn thiện hơn. Mặc khác, mỗi
nhà nghiên cứu hầu hết đều nghiên cứu theo một lĩnh vực riêng của hoạt động
thương mại; cụ thể như: Th.s Trần Thị Thùy Trang với đề tài: “Pháp luật về
giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng bằng con đường Tịa án
ở Việt Nam”; GS.TSKH Đào Trí Úc nghiên cứu: “Hồn thiện hệ thống pháp
luật về giải quyết tranh chấp kinh tế bằng Tòa án và Trọng tài”; PGS.TS
Nguyễn Như Phát, TS Lê Thị Thu Thủy nghiên cứu về đề tài: “ Một số lý luận
và thực tiễn về pháp luật hợp đồng ở Việt Nam hiện nay”; đề tài: “Tranh
chấp hợp đồng và phương thức giải quyết tranh chấp hợp đồng” và đề tài

“Tăng cường vai trò của Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp kinh tế” của
TS. Phan Chí Hiếu; Th.s Trần Thị Như Mơ có nghiên cứu về đề tài: “Giải
quyết tranh chấp thương mại theo pháp luật tố tụng dân sự từ thực tiễn tỉnh
Quảng Nam”; Th.s Nguyễn Văn Hợp với đề tài:“Lý luận và thực tiễn giải
quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án”; đề tài cấp Bộ “Tính
đặc thù trong thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế, lao động. Những vấn đề lý
luận và thực tiễn” Chủ nhiệm đề tài PGS.TS Nguyễn Văn Dũng; Luận văn
thạc sĩ “Hiệu lực của thỏa thuận trọng tài theo Luật Trọng tài thương mại
năm 2010” của tác giả Nguyễn Anh Tuấn…
Và rất nhiều đề tài của các nhà khoa học đã nghiên cứu về giải quyết
tranh chấp thương mại nói chung và tranh chấp thương mại trong lĩnh vực
mua bán hàng hóa nói riêng. Đồng thời, các đề tài nghiên cứu trên hầu hết đều
nghiên cứu chung về lĩnh vực tranh chấp thương mại, tuy nhiên các bài viết
chủ yếu dừng lại trên phương diện lý thuyết chưa thật sự áp dụng trong thực
tế công tác giải quyết. Ngoài ra, việc nghiên cứu chủ yếu về giải quyết tranh
chấp thương mại chứ chưa có một cơng trình nghiên cứu cụ thể về giải quyết
tranh chấp thương mại trong lĩnh vực mua bán hàng hóa nói riêng.
Dựa trên cơ sở tiếp thu từ những đề tài đã nghiên cứu nêu trên, học viên
muốn mô tả rõ hơn quy định của pháp luật Việt Nam về giải quyết tranh chấp
2


thương mại phát sinh trong lĩnh vực mua bán hàng hóa cũng như việc áp dụng
pháp luật trong giải quyết tranh chấp này. Và cùng với tình hình thực tiễn, các
hiểu biết trong học tập đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải
quyết tranh chấp thương mại trong lĩnh vực mua bán hàng hóa.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Khi nghiên cứu đề tài về giải quyết tranh chấp thương mại trong lĩnh
vực mua bán hàng hóa theo quy định của pháp luật Việt Nam thì sẽ làm sáng

tỏ một số vấn đề lý luận pháp luật về phương thức giải quyết tranh chấp
thương mại; đánh giá thực trạng quy định pháp luật về vấn đề này, từ đó đưa
ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật cũng như giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả áp dụng pháp luật về các phương thức giải quyết tranh chấp
thương mại trong lĩnh vực mua bán hàng hóa.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được nội dung trên, đề tài có những nhiệm vụ sau đây:
- Phân tích làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp
thương mại trong lĩnh vực mua bán hàng hóa như: khái niệm, đặc điểm, vai trò
của giải quyết tranh chấp thương mại; nguyên nhân xảy ra tranh chấp và các
hình thức giải quyết tranh chấp thương mại trong lĩnh vực mua bán hàng hóa.
- Phân tích làm rõ lý luận pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại
trong lĩnh vực mua bán hàng hóa như khái niệm, nội dung pháp luật về các
hình thức giải quyết tranh chấp thương mại trong lĩnh vực mua bán hàng hóa.
- Đánh giá thực trạng các quy định pháp luật về pháp luật giải quyết
tranh chấp thương mại trong lĩnh vực mua bán hàng hóa ở Việt Nam hiện nay.
- Đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về
giải quyết tranh chấp thương mại trong lĩnh vực mua bán hàng hóa.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những quy phạm pháp luật về phương
thức giải quyết tranh chấp thương mại trong lĩnh vực mua bán hàng hóa.
3


4.2. Phạm vi nghiên cứu
Tranh chấp thương mại trong lĩnh vực mua bán hàng hóa và việc giải
quyết tranh chấp này là vấn đề rất rộng lớn, có thể nhìn nhận đánh giá ở nhiều
góc độ khác nhau. Trong phạm vi nghiên cứu đề tài luận văn, học viên chỉ
nghiên cứu chủ yếu về mặt lý luận, đồng thời đưa ra thực trạng của pháp luật

căn cứ Bộ luật tố tụng dân sự 2015, Bộ luật dân sự năm 2015, Luật thương
mại năm 2005, Luật Trọng tài thương mại năm 2010 và có một số ví dụ thể
hiện những vướng mắc đồng thời đưa ra giải pháp để hoàn thiện.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp lý luận duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin; quan điểm của Đảng và
Nhà nước.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong phạm vi nghiên cứu nêu trên chủ yếu vận dụng nghiên cứu theo
phương pháp truyền thống và phổ biến là phương pháp duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử, đó là:
- Phương pháp khai thác tài liệu sẵn có như Bộ luật dân sự 2015, Bộ
luật tố tụng dân sự 2015, Luật thương mại 2005, Luật Trọng tài thương mại
và các văn bản pháp luật khác có liên quan đến nội dung cần nghiên cứu tại
Chương 2 của luận văn.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Nhằm làm sáng tỏ cơ sở lý luận về
tranh chấp thương mại trong lĩnh vực mua bán hàng hóa và các hình thức giải
quyết tranh chấp thương mại.
- Phương pháp thu thập, bình luận: Đưa ra một số ví dụ trên thực tế để
phân tích, bình luận... nhằm đánh giá việc thực hiện pháp luật trong thực tế.
- Phương pháp phân tích, đánh giá: Nhằm đưa ra những vướng mắc
chưa rõ ràng mà pháp luật hiện hành khơng thể hiện được nhằm góp phần
hồn thiện hơn cho pháp luật nước ta hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
4


Việc nghiên cứu về giải quyết tranh chấp thương mại trong lĩnh vực
mua bán hàng hóa theo quy định của pháp luật Việt Nam giúp các chủ thể

kinh tế hiểu rõ, tiếp cận sâu rộng hơn về kiến thức pháp luật lẫn thực tiễn giải
quyết. Mặt khác, khi phân tích, tìm hiểu rõ về lý thuyết, dẫn chứng bằng thực
tiễn sẽ giúp chúng ta có cái nhìn sâu sắc hơn về các phương thức giải quyết
tranh chấp, từ đó đưa ra các giải pháp hiệu quả hơn để hoàn thiện hệ thống
pháp luật, nâng cao đội ngũ cán bộ tốt hơn, giải đáp những vướng mắc của
các chủ thể khi tham gia trong hoạt động mua bán hàng hóa.
7. Kết cấu của luận văn
Kết cấu của luận văn được trình bày theo 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về tranh chấp thương mại và
giải quyết tranh chấp thương mại trong lĩnh vực mua bán hàng hóa.
Chương 2: Quy định pháp luật Việt Nam về giải quyết tranh chấp
thương mại trong lĩnh vực mua bán hàng hóa.
Chương 3: Kiến nghị các giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyết
tranh chấp thương mại trong lĩnh vực mua bán hàng hóa.

5


Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRANH CHẤP THƢƠNG MẠI VÀ
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƢƠNG MẠI
TRONG LĨNH VỰC MUA BÁN HÀNG HÓA
1.1. Những vấn đề lý luận về tranh chấp thƣơng mại trong lĩnh vực
mua bán hàng hóa
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm tranh chấp thương mại trong lĩnh vực mua
bán hàng hóa
1.1.1.1. Khái niệm
Cho đến nay vẫn chưa có cách hiểu thống nhất về khái niệm tranh chấp
thương mại. Luật pháp các nước khác nhau quy định khác nhau về khái niệm
này. Vì vậy để có cách hiểu đúng về tranh chấp thương mại trong hoạt động

mua bán hàng hóa, trước tiên, cần làm rõ các khái niệm về tranh chấp, tranh
chấp thương mại.
- Khái niệm về tranh chấp
Theo từ điển Tiếng Việt phổ thông “tranh chấp là sự giành nhau một
cách giằng co cái không rõ về bên nào” hoặc “đấu tranh giằng co khi có ý
kiến bất đồng, thường là vấn đề quyền lợi của hai bên” [2, tr.942].
Theo Black’ Law Dictionary do West Pub Co xuất bản năm 1999 thì
“tranh chấp là mâu thuẫn, bất đồng; sự mâu thuẫn về các yêu cầu hay quyền;
sự đòi hỏi về quyền, yêu cầu hay đòi hỏi từ một bên được đáp lại bởi một yêu
cầu hay lập luận trái ngược của bên kia” [23, tr.16].
Một số tác giả Việt Nam đã đưa ra quan điểm khác nhau về khái niệm
về tranh chấp. Ví dụ như theo tác giả Nguyễn Ngọc Lâm thì “tranh chấp được
hiểu là những tranh cãi, bất đồng giữa các bên về việc không thực hiện, hoặc
thực hiện không đầy đủ một (hoặc nhiều) nghĩa vụ mà mình đã cam kết” [14,
tr.16]. Tác giả Trần Thị Thúy thì đưa ra định nghĩa “tranh chấp là sự mâu
thuẫn, bất đồng về quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm giữa các chủ thể có liên
quan khi tham gia vào các quan hệ pháp luật” [23, tr.16].
Tác giả khác cho rằng nếu nói tranh chấp là những bất đồng, những
mâu thuẫn, những xung đột về thẩm quyền và lợi ích khi tham gia vào một
6


quan hệ xã hội nhất định thì khơng sai nhưng chưa đủ. Theo tác giả này, các
mâu thuẫn, bất đồng chỉ trở thành tranh chấp khi những mâu thuẫn, bất đồng
đó trở nên khơng thể dung hịa được, buộc các bên phải tìm đến một biện
pháp giải quyết tranh chấp. Vì vậy, theo tác giả này, “Tranh chấp là khái
niệm dùng để chỉ những bất đồng, những mâu thuẫn hay những xung đột về
một lợi ích nhất định mang tính đối kháng mà khi phát sinh các bên có liên
quan khơng thể dung hịa được, địi hỏi phải có phương cách giải quyết thỏa
đáng để bảo vệ lợi ích của mình” [14, tr.3]. Tác giả tán thành quan điểm này.

Nghiên cứu pháp luật Liên minh Châu Âu (EU) và một số nước cho thấy, hầu
như không tồn tại một khái niệm mang tính pháp lý cụ thể về “tranh chấp”,
thay vào đó, EU và một số nước chỉ đưa ra khái niệm hoặc liệt kê nội hàm của
các tranh chấp trong các lĩnh vực cụ thể như tranh chấp thương mại, tranh
chấp lao động, tranh chấp tài sản...
Từ phân tích ở trên, tác giả cho rằng tranh chấp là những bất đồng,
những mâu thuẫn, những xung đột về quyền và lợi ích của các bên và những
mâu thuẫn này trở nên đối kháng, khơng thể dung hịa buộc các bên tranh chấp
phải tìm đến cơ chế để giải quyết tranh chấp nhằm bảo vệ quyền lợi của mình.
- Khái niệm về tranh chấp thương mại
Tranh chấp thương mại là hiện tượng kinh tế- xã hội tất yếu xuất hiện
trong điều kiện kinh tế thị trường. Tranh chấp thương mại có bản chất của
tranh chấp phát sinh giữa các chủ thể trong xã hội nói chung.
Kể từ khi thực hiện cơng cuộc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế đến nay,
pháp luật Việt Nam đã sử dụng nhiều khái niệm pháplý khác nhau để chỉ các
tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực thương mại. Pháp lệnh Thủ tục giải quyết
các vụ án kinh tế năm 1994 sử dụng khái niệm “tranh chấp kinh tế” và liệt kê
những tranh chấp được coi là tranh chấp kinh tế, bao gồm: tranh chấp hợp
đồng kinh tế giữa pháp nhân và pháp nhân, pháp nhân và cá nhân có đăng ký
kinh doanh; tranh chấp giữa công ty với các thành viên công ty, giữa các
thành viên công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động và giải
thể công ty; tranh chấp liên quan đến việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu và các
tranh chấp khác theo quy định của pháp luật.

7


Trước đây, Luật Thương mại năm 1997 lần đầu tiên đưa ra khái niệm
về tranh chấp thương mại tại Điều 238:“Tranh chấp thương mại là tranh
chấp phát sinh do việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng

trong hoạt động thương mại” [19, tr.43] . Theo luật này, những tranh chấp
không phát sinh từ hợp đồng thương mại không được coi là tranh chấp thương
mại. Quan niệm về hoạt động thương mại và tranh chấp thương mại theo Luật
thương mại năm 1997 đã không bao quát hết các tranh chấp phát sinh từ hoạt
động thương mại theo cách hiểu phổ biến trên thế giới, điều này đã tạo ra
những xung đột pháp luật giữa luật quốc gia với luật quốc tế, gây ra những trở
ngại, rắc rối trong thực tiễn áp dụng pháp luật và hội nhập quốc tế.
Trước những bất cập của pháp luật về hoạt động thương mại và tranh
chấp thương mại, Pháp luật trọng tài thương mại năm 2003 đã tiếp cận hoạt
động thương mại theo nghĩa rộng làm căn cứ để xác định các tranh chấp
thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài thương mại phù hợp với
chuẩn mực chung của pháp luật và thông lệ quốc tế. Theo Pháp lệnh Trọng tài
thương mại, tranh chấp thương mại là tất cả những tranh chấp phát sinh từ việc
thực hiện một hay nhiều hành vi thương mại của cá nhân, tổ chức kinh doanh
bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ; phân phối, đại diện,đại lý
thương mại, ký gửi; thuê; cho thuê; thuê mua; xây dựng; tư vấn; kỹ thuật; lixăng; đầu tư; tài chính; ngân hàng; bảo hiểm; thăm dị; khai thác; vận chuyển
hàng hóa; hành khách bằng đường hàng không; đường biển; đường sắt; đường
bộ và các hành vi thương mại khác theo quy định của pháp luật.
Sự ra đời của Luật thương mại năm 2005 đánh dấu bước phát triển mới
của pháp luật thương mại Việt Nam trong tiến trình hội nhập. Hoạt động
thương mại theo luật này được hiểu là mọi hoạt động nhằm mục đích sinh lợi,
bao gồm mua bán hàng hóa,cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và
các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác. Quan niệm về hoạt động thương
mại trong Luật Thương mại năm 2005 tương đồng với khái niệm kinh doanh
trong Luật Doanh nghiệp năm 1999 cũng như Luật Doanh nghiệp năm 2005.
Bên cạnh sự đổi mới của pháp luật nội dung, pháp luật tố tụng cũng đã có
những cải cách quan trọng trong các quy định về giải quyết tranh chấp thương
mại, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 khi quy định về thẩm quyền của Tòa
8



án trong việc giải quyết tranh chấp thương mại đã sử dụng khái niệm “tranh
chấp về kinh doanh, thương mại” và liệt kê các tranh chấp về kinh doanh,
thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Kế thừa những quy định
đó của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, Điều 30 Bộ luật tố tụng dân sự năm
2015 lại liệt kê các tranh chấp cụ thể, theo đó, tranh chấp thương mại bao
gồm 05 nhóm:
“1. Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa
cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận;
2. Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao cơng nghệ giữa cá
nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận;
3. Tranh chấp giữa người chưa phải là thành viên cơng ty nhưng có
giao dịch về chuyển nhượng phần vốn góp với cơng ty, thành viên cơng ty;
4. Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty; tranh chấp
giữa công ty với người quản lý trong công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc thành
viên Hội đồng quản trị, giám đốc, tổng giám đốc trong công ty cổ phần, giữa
các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động,
giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, bàn giao tài sản của cơng ty, chuyển
đổi hình thức tổ chức của cơng ty;
5. Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại, trừ trường hợp
thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của
pháp luật”.
Có thể nhận thấy, các tranh chấp về thương mại được quy định trong
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thực chất là các tranh chấp phát sinh từ hoạt
động thương mại theo cách hiểu về hoạt động thương mại trong Luật thương
mại năm 2005.
Từ sự phân tích trên, có thể hiểu một cách khái quát tranh chấp thương
mai là những bất đồng (xung đột) về quyền, nghĩa vụ và lợi ích giữa các chủ
thể trong quá trình tổ chức quản lý và thực hiện hoạt động thương mại.
- Tranh chấp thương mại trong lĩnh vực mua bán hàng hóa:

Tại Khoản 2 Điều 5 Luật thương mại năm 2005 quy định "hoạt động
thương mại là việc thực hiện một hay nhiều hành vi thương mại của thương
9


nhân, bao gồm việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ thương mại và các
hoạt động xúc tiến thương mại nhằm mục đích lợi nhuận hoặc nhằm thực hiện
các chính sách kinh tế xã hội". Do vậy, tranh chấp thương mại là tranh chấp
trong các hoạt động trên, trong đó có mua bán hàng hóa. Trong giới hạn của
bài viết tác giả chỉ nghiên cứu sâu nội dung tranh chấp thương mại trong lĩnh
vực mua bán hàng hóa.
Hoạt động mua bán hàng hóa được diễn ra rất phổ biến trong thời gian
hiện nay. Việc nắm rõ khái niệm, đặc điểm cũng như hình thức của hoạt động
này khiến cho chúng ta không bị nhầm lẫn với các hoạt động tương tự trong
lĩnh vực dân sự. Theo nghĩa thông thường, hàng hóa là sản phẩm lao động của
con người được tạo ra nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu của con người.
Tại khoản 2 Điều 3 Luật Thương mại 2005 hàng hóa bao gồm:
“ a) Tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai;
b) Những vật gắn liền với đất đai” [19, tr.2].
Bộ luật dân sự năm 2015 không liệt kê những trường hợp động sản mà
chỉ quy định: “Động sản là những tài sản không phải là bất động sản” [16,
tr.31]. Nếu như bất động sản là những tài sản không di dời được thì động sản
là những tài sản có thể di dời được như xe máy, máy móc, dây chuyền sản
xuất… Hơn nữa, động sản hình thành trong tương lai cũng là một thứ hàng
hóa, động sản hình thành trong tương lai được hiểu là chưa tồn tại hoặc chưa
hình thành đồng bộ vào thời điểm xem xét (thường là thời điểm xác lập nghĩa
vụ hoặc giao dịch được giao kết) nhưng chắc chắn sẽ có hoặc được hình thành
trong tương lai. Tại Khoản 2 Điều 108 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định:
“Tài sản hình thành trong tương lai bao gồm: Tài sản chưa hình thành. Tài
sản đã hình thành nhưng chủ thể xác lập quyền sở hữu tài sản sau thời điểm

xác lập giao dịch” [16, tr.32].
Tại Khoản 8 Điều 3 Luật thương mại năm 2005 đã đưa ra định nghĩa:
“Mua bán hàng hoá là hoạt động thương mại, theo đó bên bán có nghĩa vụ
giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh tốn;
bên mua có nghĩa vụ thanh tốn cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu
hàng hoá theo thỏa thuận” [16, tr.2]. Từ quy định này cho thấy, mua bán
hàng hóa là một lĩnh vực cụ thể nằm trong hoạt động thương mại, do đó khi
10


các chủ thể tham gia quan hệ mua bán hàng hóa có những mâu thuẫn thì việc
tranh chấp thường phát sinh từ những mâu thuẫn đó. Và đó cũng chính là
tranh chấp thương mại trong lĩnh vực cụ thể- mua bán hàng hóa.
Qua sự phân tích trên có thể khẳng định tranh chấp thương mại trong
lĩnh vực mua bán hàng hóa là những mâu thuẫn, bất đồng về quyền và nghĩa
vụ giữa các chủ thể tham gia trong quan hệ mua bán hàng hóa mà chủ yếu là
liên quan đến việc thực hiện hoặc không thực hiện quyền và nghĩa vụ theo
hợp đồng mua bán hàng hóa.
1.1.1.2. Đặc điểm:
Từ định nghĩa, có thể thấy tranh chấp thương mại mang những đặc điểm sau:
Thứ nhất, căn cứ phát sinh tranh chấp thương mại là hành vi vi phạm
hợp đồng hoặc vi phạm pháp luật. Trong nhiều trường hợp, tranh chấp thương
mại phát sinh do các bên có vi phạm hợp đồng và xâm hại lợi ích của nhau, tuy
nhiên cũng có thể có những vi phạm xâm hại lợi ích của các bên nhưng không
làm phát sinh tranh chấp. Nội dung của tranh chấp thương mại là những xung
đột về quyền, nghĩa vụ và lợi ích của các bên trong hoạt động thương mại. Các
quan hệ thương mại có bản chất là các quan hệ tài sản, nên nội dung tranh chấp
thương mại liên quan trực tiếp tới lợi ích kinh tế của các bên.
Thứ hai, tranh chấp này thường được giải quyết thơng qua con đường
thương lượng, hịa giải, trọng tài thương mại để đảm bảo sự nhanh gọn về thủ

tục cũng như giữ bí mật kinh doanh và quan hệ hợp tác cho các bên. Tòa án là
cơ quan tài phán ít được các bên lựa chọn hơn.
Thứ ba, tranh chấp thương mại phát sinh giữa những chủ thể rất đặc thù
(chủ yếu là các thương nhân vì mục đích lợi nhuận) nên việc giải quyết tranh
chấp này cũng phải tuân thủ những nguyên tắc nhất định như đảm bảo bí mật
kinh doanh của doanh nghiệp và hài hịa lợi ích của các chủ thể tham gia quan
hệ thương mại.
Thứ tư, tranh chấp thương mại có tính chất đa dạng, phức tạp, từ tranh
chấp này có thể dẫn đến tranh chấp khác. Đó là tính phức tạp và đa dạng của
các quan hệ kinh tế giữa các chủ thể có lợi ích khác nhau trong nền kinh tế thị
trường. Mặt khác, mua bán trao đổi là hoạt động diễn ra thường xuyên, liên
tục, các chủ thể cùng một lúc có thể thiết lập nhiều mối quan hệ kinh tế khiến
11


cho những mối quan hệ này tạo thành một chuỗi quan hệ có liên quan đến
nhau khiến cho nếu tranh chấp phát sinh ở quan hệ này sẽ rất có thể dẫn đến
tranh chấp trong mối quan hệ khác. Chẳng hạn doanh nghiệp A vay tiền của
ngân hàng để mua nguyên vật liệu của doanh nghiệp B và bán sản phẩm cho
doanh nghiệp C theo các hợp đồng đã ký. Nếu doanh nghiệp B không cung
cấp đúng nguyên vật liệu như đã thoả thuận thì doanh nghiệp A cũng sẽ
khơng giao được hàng cho bên C như trong hợp đồng và không thu hồi được
vốn đầu tư để trả cho ngân hàng. Tranh chấp phát sinh giữa doanh nghiệp A
và doanh nghiệp B; doanh nghiệp A và doanh nghiệp C; doanh nghiệp A và
ngân hàng.
Ngoài những đặc điểm chung của tranh chấp thương mại thì tranh chấp
thương mại trong lĩnh vực mua bán hàng hóa cịn có một số đặc điểm riêng sau:
Một là, căn cứ phát sinh tranh chấp thương mại là hành vi vi phạm hợp
đồng hoặc vi phạm pháp luật. Hoạt động mua bán được diễn ra dưới hình thức
là hợp đồng mua bán hàng hóa. Hợp đồng này bằng văn bản, lời nói hoặc

được xác định bằng những hành vi cụ thể. Thông thường các hợp đồng mua
bán hàng hóa được xác lập bằng văn bản để đảm bảo sự an toàn và dễ giải
quyết khi xảy ra tranh chấp, nhưng đối với những hợp đồng đơn giản, việc
mua bán cần diễn ra nhanh chóng thì các bên có thể xác lập hợp đồng bằng lời
nói hoặc bằng một hành vi cụ thể. Sự thỏa thuận của các bên thường quyết
định đến hình thức của hợp đồng. Quá trình thực hiện hành vi mua bán phải
được gắn liền với quá trình chuyển giao quyền sở hữu hàng hóa đó từ người
bán sang người mua.
Hai là, tranh chấp thương mại trong lĩnh vực mua bán hàng hóa xảy ra
khi có thiệt hại về tài sản (hay nói cách khác là hàng hóa) của bên bị vi phạm.
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005 thì đối tượng
của quan hệ mua bán hàng hóa là hàng hóa. Do đó, đối tượng của tranh chấp
thương mại trong lĩnh vực mua bán hàng hóa là hàng hóa. Đối tượng có thể
coi là hàng hóa bao gồm: máy móc, thiết bị, nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu,
hàng tiêu dùng, các động sản khác được lưu thông trên thị trường, nhà ở dùng
để kinh doanh dưới hình thức mua, bán,.... Trên thực tế, các hoạt động mua
bán có tính chất thương mại ở Việt Nam khơng chỉ dừng lại ở những loại
12


hàng hóa này mà hàng hóa cịn bao gồm tất cả các loại động sản, kể cả động
sản hình thành trong tương lai, những vật gắn liền với đất đai.
Ba là, đặc điểm của tranh chấp thương mại trong lĩnh vực hàng hóa
phải có quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại vật chất xảy ra.
Bốn là, có lỗi của một trong các chủ thể của quan hệ mua bán, có thể là
thương nhân hoặc những người có nhu cầu về hàng hóa… Thương nhân theo
quy định tại Khoản 6 Điều 1 Luật thương mại năm 2005 như sau: “Thương
nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động
thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh” [16,
tr.1]. Do đó, có thể là thương nhân Việt Nam hoặc thương nhân nước ngoài.

Chủ thể của quan hệ mua bán hàng hóa cũng được ghi nhận đối với tổ chức,
cá nhân không phải là thương nhân khi các chủ thể này lựa chọn áp dụng Luật
thương mại năm 2005, khi đó quan hệ mua bán hàng hóa đó sẽ tuân theo các
quy định của Luật thương mại năm 2005.
1.1.2. Phân loại tranh chấp thương mại trong lĩnh vực mua bán hàng hóa:
Có thể phân loại tranh chấp thương mại trong lĩnh vực mua bán hàng
hóa như sau:
- Theo phạm vi lãnh thổ: Tranh chấp trong nước và tranh chấp thương
mại quốc tế.
- Theo chủ thể: Tranh chấp hai bên và tranh chấp nhiều bên.
- Tranh chấp liên quan đến nghĩa vụ thực hiện hợp đồng của các bên:
tranh chấp do người mua không thực hiện hay thực hiện không đúng theo quy
định của hợp đồng; tranh chấp do người bán không thực hiện hay thực hiện
không đúng theo quy định hợp đồng.
- Theo thời gian: tranh chấp hiện tại và tranh chấp tương lai. Tranh
chấp hiện tại là tranh chấp đã xảy ra đang cần được giải quyết. Tranh chấp
tương lai được hiểu là tranh chấp có thể xảy ra và việc giải quyết được dự liệu
trong một điều khoản của hợp đồng.
- Theo nghiệp vụ giao dịch: Tranh chấp liên quan đến hoạt động mua
bán hàng hoá; tranh chấp liên quan đến việc vận chuyển hàng hoá; tranh chấp
liên quan đến việc thanh toán.
13


- Theo tính pháp lý của hợp đồng (gồm có giá trị pháp lý và hiệu lực
của hợp đồng): Tranh chấp liên quan đến việc áp dụng sai chế độ ký kết hợp
đồng vi phạm nguyên tắc ký kết căn cứ ký kết không hợp pháp chủ thể ký kết
hợp đồng không hợp pháp, hợp lệ; tranh chấp liên quan đến nội dung của hợp
đồng; tranh chấp liên quan đến cách thức ký kết hợp đồng.
- Theo tiến trình thực hiện hợp đồng: tranh chấp trong quá trình đàm

phán, ký kết hợp đồng; tranh chấp trong quá trình thực hiện hợp đồng (Do
người bán không thực hiện hoặc thực hiện khơng đầy đủ nghĩa vụ của mình
như đã thoả thuận trong hợp đồng (liên quan đến nghĩa vụ giao hàng, cung
cấp chứng từ hàng hố, thơng qua kiểm định...); do người mua không thực
hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ của mình trong hợp đồng (thanh
tốn chậm hay khơng thanh tốn, khơng hoặc trì hỗn việc nhận hàng).
1.1.3. Ngun nhân xảy ra tranh chấp thương mại phát sinh trong
lĩnh vực mua bán hàng hóa
Trong mơi trường kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, bắt nguồn từ
nguyên tắc của pháp luật “ các chủ thể được làm tất cả những gì mà pháp
luật khơng cấm”, các quốc gia có nền kinh tế thị trường đều đều xây dựng
một hệ thống “pháp luật tự hành” đối với lĩnh vực thương mại. Bản chất của
quan hệ mua bán là sự tự do thỏa thuận của các chủ thể, các thoả thuận này
phù hợp với các quy định của nhà nước về “luật chơi chung”, chứ không phải
theo sự sắp đặt ý chí của nhà nước. Tuy nhiên, có sự thỏa thuận thì cũng có
thể phát sinh sự vi phạm thỏa thuận. Sự vi phạm này có thể từ nguyên nhân
bất khả kháng khơng có sự chủ định của một bên, cũng có thể do lỗi của một
hoặc các bên nhưng có chủ định trước... Chính vì thế, việc phát sinh các tranh
chấp trong q trình mua bán hàng hóa là điều không tránh khỏi.
Tranh chấp thương mại trong hoạt động mua bán hàng hóa xuất hiện
bởi nhiều lý do khác nhau, cả nguyên nhân chủ quan lẫn những nguyên nhân
khách quan. Có thể phân tích một vài ngun nhân sau đây:
1.1.3.1. Nguyên nhân chủ quan
Một trong những nguyên nhân dẫn đến tranh chấp về mua bán hàng hóa
là do sự chủ quan của các bên trong việc thiết lập hợp đồng. Trong thực tế kinh
doanh, việc các bên gặp gỡ trực tiếp để tiến hành đàm phán và ký hợp đồng
14


không phải lúc nào cũng thực hiện được. Để ký kết một hợp đồng hoặc thực hiện

một thương vụ, có trường hợp các bên thường chỉ trao đổi rất nhanh thơng tin
dưới hình thức văn bản (đơn chào hàng, đơn đặt hàng, hợp đồng, tài liệu kỹ
thuật…) qua telex, Fax, thư tín hoặc thậm chí có trường hợp khơng có văn bản
đầy đủ. Nếu mọi việc diễn ra suôn sẻ thì khơng có vấn đề gì đáng nêu ra, tuy
nhiên nếu có bất cứ một khó khăn nào phát sinh thì những thiếu sót, sơ hở của
một trong các bên dù nhỏ cũng có thể là nguyên nhân phát sinh tranh chấp.
Tranh chấp phát sinh từ mua bán hàng hóa có thể phát sinh do ý chí chủ
quan của các chủ thể trong quan hệ mua bán, ví dụ như bên bán hàng cố tình
giao hàng khơng đúng chủng loại đã giao kết hợp đồng hoặc không giao hàng
cho bên mua như thỏa thuận trong hợp đồng; còn bên mua thì cố tình chây ì
trong việc thanh tốn khi đã nhận được hàng, đơn phương chấm dứt hợp đồng
khi gặp khó khăn nội bộ… Nói cách khác, các bên cố tình khơng muốn thực
hiện một cách đầy đủ và trọn vẹn các điều khoản của hợp đồng đã giao kết
Mục đích của hoạt động mua bán là vì lợi nhuận. Chính vì lợi nhuận mà có
bên vì xem trọng lợi nhuận đã chấp nhận phá vỡ hợp đồng, dẫn đến sự vi
phạm hợp đồng. Bên cạnh đó, nhiều hợp đồng hiện nay phát sinh tranh chấp
là do khi ký kết, người ký kết không đủ tư cách đại diện chủ thể, ký hợp đồng
với những nội dung, điều khoản không được pháp luật cho phép… nên khi
thực hiện, tất yếu sẽ dẫn đến những vướng mắc, buộc phải sửa hoặc hủy hợp
đồng dẫn đến những thiệt hại của các bên làm phát sinh tranh chấp. Nhiều
doanh nghiệp vì yếu tố lợi nhuận trước mắt mà đàm phán, soạn thảo hợp đồng
một cách vội vã, mang tính hình thức, nội dung sơ sài hoặc mập mờ tối nghĩa,
thiếu sự cân nhắc kỹ càng dẫn đến nguy cơ xảy ra tranh chấp rất cao.
Đối với quan hệ mua bán hàng hóa quốc tế, nguyên nhân chủ quan dẫn
tới việc phát sinh tranh chấp có thể do những nguyên nhân sau đây:
Một là, năng lực của doanh nghiệp trong quan hệ thương mại quốc tế
còn nhiều hạn chế. Doanh nghiệp Việt Nam hiện nay vẫn cịn “trẻ”, kinh
nghiệm thương mại quốc tế khơng nhiều trong khi các chủ thể nước ngoài
trong mối quan hệ này thường có tiềm lực và rất nhiều kinh nghiệm trên
thương trường. Những khác biệt về văn hóa, ngơn ngữ và sự hiểu biết về

thương mại quốc tế còn nhiều hạn chế. Các kỹ năng giao dịch, đàm phán, ký
15


kết và thực hiện hợp đồng cũng còn nhiều hạn chế; mặt khác, các doanh
nghiệp Việt Nam chưa ý thức được tác dụng và tầm quan trọng của tư vấn
pháp lý và chun mơn, chưa có thái độ tích cực đúng mực khi phát sinh tranh
chấp. Thực tế là có rất nhiều doanh nghiệp hiện nay còn thiếu những bộ phận
chuyên trách về việc thương thảo hợp đồng một cách có lợi cho doanh nghiệp,
do đó, khi hợp đồng được ký kết và đưa vào thực hiện thì dễ phát sinh các
tranh chấp.
Hai là, do sự thiếu hiểu biết về pháp luật và tập quán thương mại quốc tế.
Nhiều doanh nghiệp rơi vào tranh chấp do chưa tìm hiểu kỹ, thiếu các thông tin
về đối tác hoặc do ý thức tuân thủ hợp đồng, pháp luật của doanh nghiệp chưa
tốt. Vì vậy, trong quá trình thực hiện, họ cố tình thực hiện không đúng những
điều khoản đã cam kết, lý do dẫn đến việc này có thể là trong quá trình thực hiện
hợp đồng đã phát sinh những khó khăn nhưng vì yếu tố lợi nhuận mà họ thực
hiện khơng đúng hoặc không đầy đủ các điều khoản của hợp đồng dẫn đến phát
sinh tranh chấp.
1.1.3.2. Nguyên nhân khách quan
Do sự biến động của thị trường, giá cả, chính sách thuế, chính sách xuất
nhập khẩu của mỗi quốc gia có sự thay đổi. Chúng ta biết rằng, trong quan hệ
thương mại quốc tế, quá trình từ việc đàm phán, ký kết đến khi các bên thực hiện
hợp đồng, thanh lý hợp đồng thường cách nhau một khoảng thời gian nhất định,
đơi khi các bên cịn thực hiện mua bán hàng hóa trong tương lai, mua bán hàng
hóa qua Sở Giao dịch hàng hóa. Giá trị của hợp đồng phụ thuộc vào biến động
của thị trường do những quy luật cung cầu, quy luật giá trị… Bởi vậy, sự biến
động của những yếu tố như giá cả, tỷ giá, cung cầu ảnh hưởng rất lớn đến lợi ích
của các bên. Trên thực tế, chỉ cần một biến động nhỏ về tỷ giá có thể làm doanh
nghiệp bị lỗ, dẫn đến khơng chịu thanh toán hoặc mất khả năng thanh toán hoặc

từ chối mua hàng như đã ký kết trong hợp đồng và làm phát sinh tranh chấp.
Thị trường là một trong những nhân tố rất quan trọng đối với hoạt động mua
bán hàng hóa. Biến động của thị trường có thể tạo điều kiện cho doanh nghiệp
kiếm được lãi chồng chất nếu họ tận dụng được cơ hội. Tuy nhiên, chính thị trường
nhiều khi cũng đẩy doanh nghiệp đến ngõ cụt buộc phải vi phạm hợp đồng.

16


Nhiều sự kiện bất khả kháng xảy ra ngẫu nhiên trong thực tế sau khi hai
bên đã ký kết hợp đồng. Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra ngẫu nhiên
ngồi khả năng kiểm sốt của con người. Sự kiện bất khả kháng là một trong
những yếu tố được xem xét để miễn trách nhiệm. Sự kiện bất khả kháng ít khi
xảy ra nhưng khi đã xảy ra thì thường gây cho các bên sự lúng túng, bị động.
Trong khi ký kết hợp đồng, các bên thường không chú trọng đến những điều
khoản bất khả kháng dẫn đến tranh chấp giữa các bên. Ví dụ, một cuộc đình
cơng có thể ngăn cản việc giao hàng đúng thời hạn, nhưng nó khơng thể ngăn
cản việc thanh tốn đúng hạn cho các hàng hóa đã giao.
Đối với quan hệ mua bán hàng hóa quốc tế, ngồi những ngun nhân
trên, một trong các nguyên nhân khác có thể làm phát sinh tranh chấp là:
Do hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là hợp đồng liên quan đến ít
nhất hai hệ thống pháp luật của hai quốc gia, ngồi ra cịn có thể liên quan đến
tập quán quốc tế điều chỉnh các quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế,
các bên ký kết lại khơng tìm hiểu kỹ lưỡng trước khi ký kết hợp đồng dẫn đến
việc ký kết hợp đồng không đúng, không đầy đủ, dẫn đến cách hiểu không
thống nhất làm phát sinh tranh chấp giữa các bên.
Do sự thay đổi chính sách và pháp luật điều chỉnh quan hệ thương mại
quốc tế. Hệ thống chính sách, pháp luật của mỗi quốc gia có sự thay đổi theo
thời gian để phù hợp với thực tiễn xã hội, trong đó phải nói đến quan hệ mua
bán hàng hóa. Sự thay đổi chính sách pháp luật ảnh hưởng tới hoạt động

thương mại theo hướng có lợi hoặc bất lợi cho doanh nghiệp. Ví dụ, doanh
nghiệp Việt Nam ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu thép với doanh nghiệp
nước ngoài, tuy nhiên, Chính phủ nước đó nâng thuế suất xuất nhập khẩu thép
lên 20%. Như vậy, rõ ràng là quy định này có ảnh hưởng đến hợp đồng mà
hai bên đã ký kết bởi nó ảnh hưởng trực tiếp đến giá thành của sản phẩm.
Thực tế cũng cho thấy, pháp luật vẫn cịn những khoảng trống nhất
định khơng thể bao qt hết được các quan hệ có thể xảy ra.
Chính vì những lý do đa dạng này mà tranh chấp giữa các bên là tất yếu có
thể xảy ra. Tuy vậy, pháp luật luôn hướng đến mục tiêu hạn chế nó, khắc phục hậu
quả của nó có thể xảy ra. Chính vì vậy, pháp luật cho phép các bên tranh chấp có
quyền lựa chọn những biện pháp khác nhau để giải quyết tranh chấp.
17


1.1.4. Hậu quả tranh chấp thương mại trong lĩnh vực mua bán hàng hóa
Chủ thể của quan hệ tranh chấp thương mại trong lĩnh vực mua bán
hàng hóa là thương nhân và những người có nhu cầu về hàng hóa. Do đó, khi
xảy ra tranh chấp và giải quyết tranh chấp sẽ ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh
bình thường của các bên.
Trong quan hệ mua bán hàng hóa, tranh chấp phát sinh chủ yếu là do vi
phạm nghĩa vụ thanh toán của bên mua hoặc là tranh chấp do vi phạm về chất
lượng, số lượng hàng hoá của bên bán. Bởi vậy quyền và nghĩa vụ của các bên
không được bảo đảm.
Bên cạnh đó, khi xảy ra tranh chấp để giải quyết tranh chấp các bên bị tốn
kém nhiều về thời gian và tiền bạc. Từ đó, mối quan hệ kinh doanh, mức độ tín
nhiệm và lịng tin của các bên bị tổn thương.
1.2. Một số vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp thƣơng mại trong
lĩnh vực mua bán hàng hóa
1.2.1. Khái niệm giải quyết tranh chấp thương mại trong lĩnh vực mua
bán hàng hóa

Tranh chấp là một trong những hệ quả xảy ra trong hoạt động mua bán
và vì vậy, giải quyết tranh chấp phát sinh được coi như là một nhu cầu tất yếu
khách quan.
- Giải quyết tranh chấp:
Nếu như tranh chấp là những bất đồng, những mâu thuẫn, những xung
đột về quyền và lợi ích của các bên và những mâu thuẫn này trở nên đối
kháng, khơng thể dung hịa được thì giải quyết tranh chấp được hiểu là việc
lựa chọn các hình thức, biện pháp thích hợp để giải tỏa các mâu thuẫn, bất
đồng, xung đột lợi ích giữa các bên, tạo lập lại sự cân bằng về mặt lợi ích mà
các bên có thể chấp nhận được, theo đó bên vi phạm nghĩa vụ phải thực hiện
trách nhiệm của mình đối với bên bị vi phạm.
Hoặc có thể hiểu giải quyết tranh chấp là việc các bên tranh chấp thơng
qua hình thức, thủ tục thích hợp tiến hành các giải pháp nhằm loại bỏ những
mâu thuẫn, xung đột, bất đồng về lợi ích giữa các bên.
- Giải quyết tranh chấp thương mại:
18


×