Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Tải Trình bày cảm nhận của em về vẻ đẹp của nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm Người con gái Nam Xương - Bài văn mẫu lớp 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.76 KB, 18 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Trình bày cảm nhận của em về vẻ đẹp của nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm</b>
<b>Người con gái Nam Xương - Văn mẫu 9</b>


<b>Đề bài: Trình bày cảm nhận của em về vẻ đẹp của nhân vật Vũ Nương trong </b>
<b>tác phẩm Người con gái Nam Xương</b>


<b>Dàn ý cảm nhận về nhân vật Vũ Nương</b>
<b>I. Mở bài</b>


- Giới thiệu đôi nét về tác giả Nguyễn Dữ và truyện "Chuyện người con gái Nam
Xương".


- Giới thiệu về nhân vật Vũ Nương.
<b>II. Thân bài</b>


1. Tóm tắt lại diễn biến câu chuyện


- Vũ Thị Thiết, người con gái quê ở Nam Xương, khơng chỉ xinh đẹp mà cịn có tư
dung tốt đẹp.


- Điều ấy khiến cho Trương Sinh - một chàng trai trong làng yêu mến, xin mẹ đem
trăm lạng vàng cưới về. Biết chồng là một người hay ghen, nàng ln giữ gìn khn
phép nên gia đình ln hịa thuận.


- Vậy mà chồng nàng, sau khi đi lính chỉ vì một lời ngây thơ của con trẻ, chưa làm
rõ đầu đi câu chuyện đã giở thói ghen tng. Dù Vũ Nương hết lịng giải thích
nhưng vẫn vơ dụng.


- Nàng quyết định tìm đến cái chết để chứng minh sự trong sạch của mình.


- Sau này, khi đã hiểu rõ mọi chuyện, Trương Sinh cảm thấy hối hận thì cũng đã


muộn. Chàng cho người lập đàn giải oan thì thấy Vũ Nương hiện về lúc ẩn lúc hiện.
2. Cảm nhận về nhân vật Vũ Nương


- Vũ Nương là người phụ nữ truyền thống với những phẩm chất tốt đẹp:
Nàng không chỉ xinh đẹp dịu dàng mà tư dung tốt đẹp.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Trước lúc chồng lên đường: Rót chén rượu đầy, dặn dò chống bằng lời lẽ ân cần,
dịu dàng "Chàng đi chuyến này …đủ rồi"


Trong lúc chồng đi lính: Lo toan việc nhà, chăm sóc mẹ già, dạy dỗ con thơ đều chu
đáo.


- Khi bị chồng ngờ vực:


Hết mực giải thích bằng những lời nói nhẹ nhàng: “Thiếp vốn con kẻ khó … nghi
oan cho thiếp”.


Biết khơng thể giải thích được nữa, nàng chọn cái chết để chứng minh tấm lịng của
mình.


=> Vũ Nương chính là người phụ nữ điển hình của xã hội xưa.
3. Đánh giá về cuộc đời của Vũ Nương


- Không được quyền lựa chọn tình u, hơn nhân. Sự bất cơng đối với người phụ nữ
xưa khi họ phải chịu cảnh “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”.


- Không được hưởng hạnh phúc trọn vẹn vì chiến tranh. Cuộc sống gia đình chưa
được bao lâu thì phải vì chiến tranh mà chia cắt.


=> Hình ảnh Vũ Nương gợi sự cảm thơng, thương xót cho người phụ nữ trong xã


hội xưa.


<b>III. Kết bài</b>


- Khái quát lại về nhân vật Vũ Nương.


- Cảm nhận của người viết về nhân vật Vũ Nương: xót xa cho thân phận.
<b>Cảm nhận của em về nhân vật Vũ Nương mẫu 1</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Trước tiên, Vũ Nương là người phụ nữ mang nhiều phẩm chất tốt đẹp. Nàng là
người phụ nữ bình dân xuất thân từ gia đình nghèo nhưng vừa có nhan sắc, vừa có
đức hạnh. Tính đã thùy mị nết na lại thêm tư dung tốt đẹp.


Vẻ đẹp của Vũ Nương là vẻ đẹp người phụ nữ Việt Nam - của “chiếc bánh trôi”
trong thơ của Hồ Xuân Hương “vừa trắng lại vừa trịn”. Vì vậy Trương Sinh con
nhà hào phú đã xin với mẹ trăm lạng vàng cưới nàng về làm vợ, cuộc hôn nhân ấy
vốn không bình đẳng, đã vậy Trương Sinh lại có tính đa nghi, hay ghen. Nhưng
trong đạo vợ chồng, nàng tỏ ra là một phụ nữ thông minh, đôn hậu, biết chồng có
tính đa nghi hay ghen nàng đã “ln giữ gìn khn phép... thất hịa”. Điều ấy chứng
tỏ nàng rất khéo léo trong việc vun vén hạnh phúc gia đình.


Sống trong thời loạn lạc nên cuộc sum vầy chưa được bao lâu thì Trương Sinh tịng
qn đi lính nơi biên ải. Buổi tiễn chồng ra trận nàng rót chén rượu đầy chúc chồng
bình yên “chàng đi chuyến này thiếp chẳng mong... thế là đủ rồi”. Ước mong của
nàng thật giản dị chỉ vì nàng coi trọng hạnh phúc gia đình hơn mọi công danh phù
phiếm ở đời. Những năm xa cách Vũ Nương thương nhớ chồng khôn xiết kể: “Mỗi
khi bướm lượn đầy vườn mây che kín núi thì nỗi buồn chân trời góc bể lại khơng
thể nào ngăn được”.


Tâm trạng thương nhớ ấy của Vũ Nương cũng là tâm trạng chung của nhiều người


chinh phụ trong thời loạn lạc ngày xưa:


<i>Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời</i>


<i>Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu</i>


<i>Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong</i>


(Chinh phụ ngâm khúc, Đoàn Thị Điểm)
Thể hiện tâm trạng ấy, Nguyễn Dữ vừa cảm thông với nỗi đau xa cách chồng của
Vũ Nương vừa ca ngợi tấm lòng chung thủy của nàng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

chồng nàng dâu dường như chưa bao giờ êm đẹp và chứa đầy những định kiến khắt
khe.


Tấm lòng của nàng đã được người mẹ chồng ghi nhận, điều này thể hiện qua những
lời trăn trối của bà trước khi qua đời “Sau này trời xét lòng lành ban cho phúc đức
giống dòng tối tươi, xanh kia quyết chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ”.
Vũ Nương chính là người phụ nữ lý tưởng trong xã hội ngày xưa: Công, dung,
ngôn, hạnh.


Là người phụ nữ có bao phẩm chất tốt đẹp đáng lẽ nàng phải được hưởng cuộc sống
hạnh phúc chí ít cũng như nàng mong ước đó là thú vui nghi gia, nghi thất - vợ
chồng con cái sum họp bên nhau. Thế nhưng cuộc sống của Vũ Nương cũng như
cuộc đời của người phụ nữ xưa là những trang buồn đầy nước mắt. Bất hạnh của
nàng bắt đầu từ khi giặc tan Trương Sinh trở về, chuyện cái bóng của con thơ đã là
Trương Sinh ngờ vực, rồi kết tội Vũ Nương. Chàng đinh ninh là vợ hư, nàng hết lời
phân trần để bày tỏ lòng thủy chung, cố gắng hàn gắn hạnh phúc gia đình có nguy
cơ tan vỡ những tất cả đều vơ ích. Vốn có tính hay ghen lại vũ phu ít học.



Trương Sinh đã đối xử với nàng hết sức tàn nhẫn “mắng nhiếc, đánh đuổi nàng đi”,
bỏ ngoài tai những lời phân trần của vợ và những lời khuyên can của hàng xóm.
Thất vọng đến tột cùng Vũ Nương đành mượn dòng nước quê hương để giải tỏa nỗi
lịng trong trắng của mình. Nàng “tắm gội chay sạch ra bến sơng Hồng Giang ngửa
cổ lên trời là than rằng kẻ bạc mệnh này duyên hẩm hiu... phỉ nhổ”. Nói rồi nàng
nhảy xuống sơng tự vẫn. Vũ Nương bị người thân nhất đẩy xuống bên bờ vực thẳm
dẫn đến bi kịch gia đình.


Cảm nhận về nhân vật Vũ Nương (thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến)
qua “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ, “thà chết trong còn hơn
sống đục” với tấm lòng yêu thương con người Nguyễn Dữ không để cho sự trong
sáng cao đẹp của Vũ Nương phải chịu oan khuất nên phần cuối chuyện đầy ắp
những chi tiết hoang đường kì ảo. Sau câu chuyện của Phan Lang, Trương Sinh lập
đàn giải oan cho vợ. Nàng trở về trong thế rực rỡ uy nghi nhưng chỉ thấp thoáng
trong giây lát rồi biến mất mãi mãi. Vũ Nương mãi mất đi quyền sống, quyền hạnh
phúc, quyền làm vợ, làm mẹ. Bi kịch của Vũ Nương cũng chính là bi kịch của người
phụ nữ xã hội xưa. Bi kịch ấy không chỉ dừng ở thế kỉ XVI, XVII, XVIII mà đến
đầu thế kỷ XIX Nguyễn Du từng viết trong truyện Kiều:


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

<i>Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung</i>


Với niềm xót thương sâu sắc, Nguyễn Dữ lên án những thế lực tàn ác chà đạp lên
những khát vọng chính đáng của con người - của phụ nữ. Ông tố cáo xã hội phong
kiến với những hủ tục phi lý, trọng nam khinh nữ, đạo tam tịng bao bất cơng và
hiện thân của nó là nhân vật Trương Sinh, người chồng ghen tng mù quáng, vũ
phu sống với hủ tục là thế lực đồng tiền bạc án nên Trương Sinh con nhà hào phú
một lúc bỏ ra trăm lạng vàng để cưới Vũ Nương. Ngồi ra ơng cịn tố cáo chiến
tranh phi nghĩa đã làm phá vỡ hạnh phúc gia đình của con người.


Như vậy bằng cách xây dựng truyện hết sức độc đáo là sự kết hợp hài hòa giữa yếu


tố tự sự, trữ tình và yếu tố thực ảo. Chuyện “Người con gái Nam Xương” của
Nguyễn Dữ mang đến cho chúng ta bao ấn tượng tốt đẹp. Truyện ca ngợi Vũ Nương
có đầy đủ phẩm chất tốt đẹp mang tính truyền thống nhưng cuộc đời nàng lại là
những trang buồn đầy nước mắt. Vẻ đẹp số phận của nàng cũng là vẻ đẹp số phận
của người phụ nữ trong xã hội phong kiến cũ. Ngày nay chúng ta được sống trong
thế giới công bằng dân chủ, văn minh người phụ nữ là một nửa của thế giới họ được
hưởng những quyền lợi mà nam giới được hưởng. Vậy chúng ta hãy phát huy những
vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ xưa và thương cảm trước số phận của họ
<b>Cảm nhận của em về nhân vật Vũ Nương mẫu 2</b>


<i>Nghi ngút đầu ghềnh tỏa khói hương</i>


<i>Miếu ai như miếu vợ chàng Trương</i>


Ngàn năm trơi qua, làn khói viếng “miếu vợ chàng Trương” vẫn muôn đời lan tỏa,
vấn vương, như tiếc như thương cho số phận đầy bi kịch của Vũ Nương. Bằng ngòi
bút đầy trân trọng trong “Chuyện người con gái Nam Xương”, Nguyễn Dữ đã tạc
vào lịch sử văn học Việt Nam hình ảnh một người phụ nữ thời phong kiến, một Vũ
Nương, đại diện cho cái đẹp hoàn mỹ. Nhưng đáng tiếc thay, cuộc đời nàng lại chất
chứa những trang buồn đầy nước mắt.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

nàng gặp Phan Lang, người hàng xóm đã cứu Linh Phi, nhờ Phan Lang gửi hộ lời
với chàng Trương. Trương Sinh hối cải, lập đàn giải oan theo lời Vũ Nương. Nàng
hiện lên gặp chồng con rồi lại quay về động Rùa vì hai người đã “âm dương đơi
đường”. Nhưng hình ảnh Vũ Nương khơng dừng lại ở đó mà cịn mãi vấn vương
trong lịng người đọc bởi nét đẹp hồn mỹ cũng như số phận oan khuất và cái chết
đầy bi thảm của nàng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

từ những câu nói ấy, chúng ta cảm nhận được sự hy sinh vô bờ của nàng vì chồng
con, gia đình. Khi chồng ra trận, cả giang san nhà chồng trĩu nặng trên đôi vai gầy


guộc, mỏng manh của nàng. Nàng phải sinh con một mình giữa nỗi cô đơn lạnh lẽo,
thiếu sự vỗ về, an ủi của người chồng. Thật là một thử thách quá khó khăn với một
người phụ nữ chân yếu tay mềm. Nhưng nàng vẫn vượt qua tất cả, một mình vị võ
nuôi con khôn lớn, đợi chồng về. Không những thế, nàng còn hết lòng chăm lo cho
mẹ chồng ốm nặng: “Nàng hết sức thuốc thang, lễ bái thần phật và lấy lời ngọt ngào
khôn khéo khuyên lơn”. Thời xưa, quan hệ mẹ chồng - nàng dâu dường như chưa
bao giờ êm đẹp và chứa đầy những định kiến khắt khe.


<i>Mẹ anh nghiệt lắm anh ơi</i>


<i>Biết rằng có được ở đời với nhau</i>


<i>Hay là vào trước ra sau</i>


<i>Cho cực lòng thiếp, cho đau lòng chàng</i>


Nhưng nàng đã yêu thương mẹ chồng như chính cha mẹ ruột của mình. Mọi việc
trong nhà đều được nàng chăm lo chu tất. Và lời trăn trối cuối cùng của mẹ chồng
như một lời nhận xét, đánh giá, một phần thưởng xứng đáng với những công lao và
sự hy sinh cao cả của nàng vì gia đình nhà chồng: “Xanh kia quyết chẳng phụ con
cũng như con đã chẳng phụ mẹ”. Tác giả đã một lần nữa nhắc lại: “Nàng hết lời
thương xót, phàm việc ma chay tế lễ, lo liệu như với cha mẹ đẻ mình”, như tơ đậm
tình u thương của nàng đối với mẹ chồng. Vũ Nương là một nàng dâu đảm đang,
thảo hiền trong mắt tất cả mọi người. Vậy là cả “cơng - dung - ngơn - hạnh” nàng
đều vẹn tồn. Nàng chính là đỉnh cao của sự hồn mỹ về cả vẻ đẹp hình thức lẫn
tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam xưa dưới chế độ phong kiến. Song, số phận
chẳng hề mỉm cười với nàng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Từng ngày từng ngày trôi, bấy giờ, trên đôi vai bé nhỏ của nàng khó khăn lại chồng
chất khó khăn. Rồi chiến tranh cũng qua, cứ ngỡ Vũ Nương lại được sum họp gia


đình, đồn viên cùng chàng Trương, được sống trong hạnh phúc lứa đôi mà nàng
hằng ao ước. Nàng đâu biết rằng bi kịch cuộc đời nàng sắp bắt đầu. Những ngày xa
chồng, nàng đã âm thầm nuôi con, và nàng xót xa biết bao khi nhìn cảnh con thơ
thiếu vắng sự chăm sóc, yêu thương của người cha. Thế là nàng đã chỉ bóng mình
trên tường mà bảo với con rằng ấy chính là cha Đản. Hành động ấy chẳng phải vì
nàng quá thương nhớ chồng mà xuất phát từ tấm lịng u thương con vơ bờ của
một người mẹ. Nhưng nàng sẽ chẳng bao giờ ngờ được rằng nàng chết chính bởi cái
bóng của chính mình. Ngày Trương Sinh về, nghe lời con thơ dại mà hàm oan vợ:
“Trước đây có người đàn ơng đêm nào cũng đến. Mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi
cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả”. Trương Sinh vốn là tên thất học, lại
thêm “tính đa nghi, đối với vợ phịng ngừa q sức”. Lời nói ngây thơ của bé Đản
chứa đầy những chi tiết đáng ngờ, như đổ thêm dầu vào lửa. Tính đa nghi của
Trương Sinh đã dâng lên đến cao trào và một mực “đinh ninh là vợ hư”. Chàng
khơng cịn đủ bình tĩnh để phán đốn, phân tích, bỏ ngồi tai những lời phân trần
của vợ, không tin cả những nhân chứng bênh vực cho nàng, cũng nhất quyết khơng
nói ra ngun cớ để nàng có cơ hội minh oan. Và Trương Sinh thống chốc hóa một
kẻ vũ phu, thơ bạo, “mắng nhiếc nàng và đánh đuổi đi”. Vượt qua được mọi gian
lao, vất vả trong chiến tranh để vẹn tròn phận dâu thảo hiền nhưng Vũ Nương
không thể vượt qua nổi bức tường của chế độ nam quyền độc đốn, bất cơng, tàn
bạo. Lời nói của nàng đầy thương tâm: “Thiếp vốn con kẻ khó, được nương tựa nhà
giàu”. Ngay từ đầu, cuộc hơn nhân giữa nàng và chàng Trương đã có phần khơng
bình đẳng và mang tính chất một cuộc trao đổi, mua bán: Trương Sinh “xin với mẹ
đem trăm lạng vàng cưới về”. Điều ấy khiến chúng ta chạnh lòng nhớ đến tình cảnh
một Thúy Kiều khi phải bán mình chuộc cha:


<i>Cị kè bớt một thêm hai</i>


<i>Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

một đời. Khi xa chồng, Vũ Nương là người vợ thủy chung, yêu chồng tha thiết, nỗi


buồn nhớ cứ dài theo những “bướm lượn đầy vườn”, “mây che kín núi”. Thế mà khi
vừa mới sum họp hạnh phúc, nàng lại bị gán cho tội danh: “lừa chồng dối con”.
Thật đau đớn, thật tủi nhục! Bi kịch của cuộc đời Vũ Nương chính từ lễ giáo bất
cơng và chế độ nam quyền. Người đàn ông với những quyền hành về số phận, cuộc
đời người phụ nữ đã đẩy Vũ Nương vào đường cùng khơng lối thốt. Cái chết oan
khuất, xót xa của Vũ Nương, ai có thể ngờ người gây ra thảm kịch ấy chính là
chồng và con nàng, những người thân mà nàng hết mực yêu thương, chăm sóc.
Nàng, một người con gái ln khao khát hạnh phúc dù chỉ nhỏ nhoi, bình dị nhưng
cho đến khi trẫm mình xuống sơng thì cuộc đời nàng đúng là một chuỗi dài những
bi kịch. Hạnh phúc đâu quá xa vời mà xã hội phong kiến ấy không cho nàng chạm
tay đến tận hưởng “thú vui nghi gia nghi thất” một lần duy nhất trong đời. Nỗi oan
của nàng thấu cả trời xanh. Ngày xưa, Quan Âm Thị Kính mắc oan giết chồng bởi
“tình ngay lý gian”. Nhưng nàng Thị Kính cũng cịn hiểu ra nỗi oan khuất của mình
từ đâu mà thành. Cịn khi đã chìm sâu dưới dịng nước, Vũ Nương vẫn khơng hề
biết rằng mình phải chết vì đâu. Bi kịch của Vũ Nương là một lời tố cáo xã hội
phong kiến xem trọng quyền uy của kẻ giàu và của người đàn ông trong gia đình,
đồng thời bày tỏ niềm cảm thương đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ.
Người phụ nữ đức hạnh không những không được bênh vực, che chở mà lại cịn bị
đối xử một cách bất cơng, vơ lý; chỉ vì lời nói ngây thơ của đứa trẻ miệng cịn hơi
sữa và vì sự hồ đồ, vũ phu của anh chồng ghen tuông mà đến nỗi phải kết liễu cuộc
đời mình. Phải chăng đằng sau nỗi oan của nàng còn bao nhiêu nỗi oan của những
người phụ nữ khác trong chế độ phong kiến bị rẻ rúng, suốt đời sống trong câm
lặng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

cách trở, nàng chẳng bao giờ được làm vợ, làm mẹ chốn cõi trần. Bé Đản mãi mãi là
một đứa bé mồ côi mẹ. Nếu nàng được trở về với cõi trần thì liệu xã hội phong kiến
bất cơng khơng có nơi dành cho cái đẹp này có dành cho nàng một cuộc sống ấm
êm, bình yên, hay một lần nữa, nàng phải đau đớn, buồn khổ. Dù quay về chốn tiên
cảnh xinh đẹp, nhưng cuối cùng, mơ ước cả đời của nàng, hạnh phúc “nghi gia nghi
thất”, chỉ mãi là ước mơ hảo huyền.



Hình tượng nhân vật Vũ Nương là hiện thân của lòng vị tha và vẻ đẹp người phụ nữ.
Song cuộc đời nàng gặp nỗi bi kịch lớn. Ấy chính là tấn bi kịch của người phụ nữ
Việt Nam trong chế độ phong kiến tàn ác, chế độ của sự lạc hậu và cả bóng đêm
vĩnh cửu. Điều đó khiến chúng ta phải chạnh lòng trước số phận của người phụ nữ.


<i>Đau đớn thay phận đàn bà</i>


<i>Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung</i>


<b>Cảm nhận của em về nhân vật Vũ Nương mẫu 3</b>


Trong văn học trung đại đã có nhiều tác giả viết về đề tài người phụ nữ Việt Nam
trong xã hội phong kiến. Ví như Nguyễn Dữ với tác phẩm Chuyện người con gái
Nam Xương đã khắc hoạ nhân vật Vũ Nương – một đại diện cho hình ảnh người
phụ nữ trong xã hội phong kiến với những phẩm chất tốt đẹp nhưng lại gặp nhiều
đau khổ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ.”. Không chỉ vậy nàng còn phải chăm lo cho
đứa con thơ vừa lọt lịng. Vì thương con, lo cho con thiếu thốn hình bóng người cha
và cũng để nàng gửi gắm nỗi nhớ thương, mong mỏi chồng, Vũ Nương đã nghĩ ra
trò cái bóng. Đêm đêm, nàng chỉ vào cái bóng của mình trên tường và nói với đứa
con nhổ rằng đó là cha nó. Xã hội phong kiến trong buổi suy tàn khiến con người
luôn cảm thấy bất an: chỉ một trị đùa, một vật vơ tri, vơ giác như cái bóng cũng
khiến hạnh phúc gia đình tan vỡ. Qua năm sau, việc quân kết thúc, Trương Sinh về
tới nhà. Nghe lời của đứa con, chàng chẳng thèm suy nghĩ dù đó là lời nói của một
đứa trẻ hồn nhiên, ngây thơ và quá mập mờ. Trương Sinh mắng nhiếc vợ rồi đánh
đuổi nàng đi, khơng cho nàng giải thích. Nàng thật sự thất vọng. Hạnh phúc gia đình
đã tan vỡ. Tình u, lịng tin khơng cịn. Thất vọng đến tột cùng, chán chường vơ
hạn, nàng đã tìm đến cái chết để thanh minh cho bẳn thân. Niềm tin vào cuộc sống


đã mất khiến cho Vũ Nương không thể trở về với cuộc sống trần gian dù điều kiện
có thể.


Thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến cũng đều giống như Vũ Nương.
Số phận của họ như đã được định đoạt từ trước. Sinh ra mang kiếp đàn bà thì dù
giàu nghèo sang hèn khơng trừ một ai, lời “bạc mệnh” cũng đã trở thành “lời
chung” – như Nguyễn Du đã viết trong Truyện Kiều:


Đau đớn thay phận đàn bà,
Lời rằng bậc mệnh cũng là lời chung.


Họ là nạn nhân của chế độ phong kiến với những điều luật hà khắc, bất cơng với nữ
nhi. Ở đó sinh mạng người phụ nữ không được coi trọng, họ bị mua bán, trả giá một
cách công khai. Ở cái xã hội ấy, họ chỉ như một thứ đồ vật vô tri, khơng được có ý
kiến hay thanh minh cho bản thân. Vũ Nương chết đi mang theo nỗi oan tột cùng,
nhưng người gây ra tất cả những bi kịch trên là Trương Sinh lại không bị xã hội lên
án và cũng không mặc cảm với bản thân. Ngay cả khi nỗi oan ức ấy đã được giải
thoát, Trương Sinh cũng khơng bị lương tâm cắn rứt, coi đó là việc đã qua rồi,
khơng cịn đáng nhắc lại làm gì nữa. Xã hội phong kiến đã dung túng cho những kẻ
như Trương Sinh, để người phụ nữ phải chịu những đau khổ khơng gì sánh được.
Trong ca dao cũng nhắc đến người phụ nữ với sự đau khổ tương tự:


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

Dù ca dao có xuất xứ từ nhân dân lao động, nhưng nó vẫn phản ánh đúng số phận
của người phụ nữ – “những hạt mưa sa”. “Hạt mưa ấy” khơng biết mình sẽ rơi vào
đâu: một nơi “đài các” hay ra “ruộng cày” ? Dù đó là đâu, dù muốn hay không họ
cũng phải chấp nhận.


Nữ sĩ Hồ Xuân Hương cũng là một người phụ nữ phong kiến, bà cũng hiểu số phận
của mình sẽ bị xã hội đưa đẩy như thế nào. Bà đã viết:



Thân em vừa trắng lại vừa trịn
Bảy nổi ba chìm với nước non.


Bà không cam chịu sống cuộc sống bất công như vậy. Bà đã khẳng định người phụ
nữ phải có một vị trí khác trong xã hội. Nhưng sự cố gắng của bà chỉ như một tia
sáng hiếm hoi trong chuỗi đời u tối của người phụ nữ. Xét cho cùng, những đau khổ
ấy đến với họ cũng là do họ sống quá cam chịu, quá dễ dàng thoả hiệp. Nếu như họ
biết đấu tranh tới cùng, nếu như họ không chọn cái chết để thanh minh thì những bất
cơng ấy sẽ khơng có điểu kiện phát triển.


Chúng ta đều xót thương và cảm thông cho số phận người phụ nữ trong xã hội
phong kiến. Là một con người sống trong thời đại mới, ta thật hạnh phúc khi khơng
phải bó buộc vào những luật lệ, lề thói xấu ấy.


<b>Cảm nhận của em về nhân vật Vũ Nương mẫu 4</b>


Nguyễn Dữ là nhà văn xuất sắc trong nền văn học trung đại Việt Nam. Ông học
rộng tài cao, nhưng chỉ làm quan một năm rồi lui về ở ẩn vì bất lực trước thời đại
suy yếu của phong kiến. Có thể nói “truyền kỳ mạn lục” của Nguyễn Dữ là một tác
phẩm tiêu biểu cho thể loại truyền kỳ ở Việt Nam, trong đó “người con gái Nam
Xương” dựa trên tích truyện dân gian nhưng với tài năng sự sáng tạo tuyệt vời và
lòng yêu con người tha thiết, Nguyễn Dữ đã làm bao bạn đọc phải rơi lệ xót thương
cho cuộc đời và số phận của Vũ Nương - một người phụ nữ đức hạnh nhưng có số
phận bất hạnh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

tròn bổn phận của một người vợ hiền, một người dâu thảo, người mẹ hết mực yêu
con. Trước hết, Vũ Nương là người vợ hết lòng yêu thương và thủy chung son sắc
với chồng. Sống dưới thời loạn lạc vì khơng có học nên tên Trương Sinh phải ghi
vào sổ lính loại đầu. Trong buổi tiễn đưa chồng ra trận, nàng rót chén rượu đầy tiễn
chồng bằng lời lẽ dịu dàng, tha thiết “chàng đi chuyến này thiếp chả dám mong đeo


được ấn phong hầu mặc áo gấm trở về quê cũ chỉ xin ngày về mang theo hai chữ
bình yên thế là đủ rồi”. Đọc đến đây, người đọc xúc động trước khao khát, ước mơ
bình dị của Vũ Nương. Đằng sau niềm khao khát ước mơ ấy là cả một tấm lòng yêu
thương chân thành, đằm thắm vượt ra ngoài cám dỗ vật chất tầm thường “vinh hoa
phú quý”. Yêu thương chồng, nàng mong mỏi ngày chàng bình n trở về bởi hơn
hết trong lịng nàng cái khát khao lớn nhất là được hưởng thú vui “nghi gia nghi
thất” vợ chồng sum họp, con cái đầy đàn, nàng được làm trọn và hưởng hạnh phúc
làm mẹ, làm vợ, Khi Trương Sinh ở ngồi mặt trận, tình cảm của nàng ln hướng
về Trương Sinh. Hình ảnh “bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi” là hình ảnh
thiên nhiên hữu tình gợi sự trơi chảy của thời gian đã khiến cho “nỗi buồn góc bể
chân trời khơng thể nào ngăn được”. Tác giả đã diễn tả thật tinh tế chân thực nỗi
niềm nhớ nhung, mong mỏi kín đáo, âm thầm mà da diết của Vũ Nương. Vào mỗi
buổi tối, nàng thường trở bóng mình trên vách để bảo là cha Đản, việc làm ấy của
nàng đâu chỉ là đơn thuần chỉ để chơi đùa nói với con mà cịn là lời nói với mình
lịng mình để tự an ủi mình, nàng tưởng tượng ra trong căn nhà nhỏ bé của hai mẹ
con lúc nào cũng có hình bóng của Trương Sinh, ý nghĩ ấy là làm vơi đi nỗi cơ đơn
trống trải trong lịng nàng. Suốt ba năm Trương Sinh đi vắng, nàng đã giữ gìn một
tiết. Tơ son điểm phấn đã từng ngi lịng ngõ liễu tường hoa chưa hề bén góc vẫn
một lịng một dạ với chồng Trương Sinh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

nguyện biển nhưng không được, nhân phẩm trong trắng bị xúc phạm nặng nề bởi
nỗi nhơ thất tiết, nàng đã phải chọn cái chết để minh chứng cho tấm lịng trong
sáng, thủy chung của mình. Mặc dù khát khao được sống được hàn gắn hạnh phúc
gia đình nhưng nàng cũng quyết đổi mạng sống của mình để bảo vệ nhân phẩm - cái
mà nàng quý hơn tất cả, yếu tố kỳ ảo được dùng đã làm hoàn thiện hơn vẻ đẹp của
Vũ Nương, ta hiểu thêm nàng là người nhân hậu, bao dung, ở dưới thủy cung được
sống đầy đủ sung sướng quan hệ giữa người với người tốt đẹp nhưng lúc nào nàng
cũng đau đáu nhớ về gia đình, chồng con, Câu nói của nàng với Phan Lang khiến
người đọc rưng rưng nước mắt “… ngựa hồ gầm gió bắc, chim Việt đậu cành nam,
tơi tất phải tìm về có ngày”. Lẽ ra nàng có quyền căm thù nơi trần thế đã đẩy nàng


vào cái chết oan khuất nhưng trái tim nàng không một chút oán hờn, vẫn nhân hậu
vị tha, bao dung. Qua đây, người đọc cảm nhận được Vũ Nương là một người phụ
nữ có phẩm chất đức hạnh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

Tại sao Vũ Nương lại phải chết một cách oan khuất như vậy? phải chăng là lời nói
ngây ngơ, vơ tình của con trẻ “Ơ hay thế ra ơng cũng là cha tơi ư? ơng lại biết nói
chứ khơng như cha tơi, trước khi chỉ nín thin thít… đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi
cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi” đã làm thổi bùng lên ngọn lửa sẵn có trong lịng
Trương Sinh, khơng đâu khác, chính là do chồng nàng – Trương Sinh, một kẻ hồ đồ
phũ vu lại ghen tuông, độc đốn, chỉ vì lời nói ngây thơ của con trẻ mà đã đinh ninh
là vợ hư, bỏ mặc ngoài tai những lời thanh minh biện bạch của vợ, lời bênh vực của
họ hàng, làng xóm, để rồi đẩy Vũ Nương vào cái chết oan nghiệt. Đằng sau trang
văn, truyện cịn nói lên do lễ giáo phong kiến “trọng nam khinh nữ” và sự bất bình
đẳng của kẻ giàu và người nghèo. Đồng thời, còn do chiến tranh phong kiến phi
nghĩa đã gây lên cảnh sinh ly, Trương Sinh phải đi lính, Vũ Nương phải chịu nỗi
oan, để rồi Vũ Nương phải tìm đến cái chết thê thảm, oan khuất. Tất cả những
nguyên nhân trên đã đẩy Vũ Nương đến bước đường cùng phải chọn cái chết để bảo
vệ nhân phẩm của mình, cái chết của Vũ Nương chính là tấm bi kịch đau thương,
cái chết oan khuất tức tưởi của nàng là một lời tố cáo đanh thép xã hội phong kiến
bất công, vô lý, đã cướp đi quyền sống, quyền được hưởng hạnh phúc của con
người.


Như vậy, “Chuyện người con gái Nam Xương” đã vượt lên tư cách một bản lề của
truyện cổ tích, “Vợ chồng Trương” bởi sự tái tạo đầy tính nghệ thuật của Nguyễn
Dữ, tác giả đã xây dựng được tình huống truyện bất ngờ, tạo nên kịch tính cho câu
chuyện với lời nói ngây thơ của bé Đản dẫn đến sự hiểu lầm của Trương Sinh, thành
công của truyện hơn tất cả là tác giả đã sử dụng yếu tố hoang đường góp phần tăng
thêm tính hiện thực và ý nghĩa nhân văn của tác phẩm, hoàn thiện hơn vẻ đẹp của
Vũ Nương - một người phụ nữ điển hình trong văn học Việt Nam thế kỷ XVI. Đó là
một phụ nữ hồn hảo nhưng lại có số phận éo le, bi đát. Cũng giống như Vũ Nương


trong xã hội phong kiến xưa còn có biết bao thân phận của người phụ nữ phải sống
trong cảnh đời như vậy như hình ảnh của người phụ nữ trong bài thơ “bánh trôi
nước” của Hồ Xuân Hương.


<i>Thân em vừa trắng lại vừa trịn</i>


<i>Bảy nổi ba chìm với nước non</i>


Hay trong “truyện Kiều” của Nguyễn Du có viết:


<i>Đau đớn thay phận đàn bà</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

Tóm lại, “chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ là một áng văn hay
-tiêu biểu cho thể loại truyền kỳ và được người đời đánh giá là “thiên cổ kỳ bút”.
Truyện vừa thể hiện số phận bi đát của người phụ nữ trong xã hội phong kiến vừa
có ý nghĩa cơ ngợi vẻ đẹp của lòng vị tha - tiêu biển là hình ảnh Vũ Nương, qua câu
chuyện người đọc càng cảm thấy giá trị cuộc sống của người phụ nữ trong xã hội
ngày nay. Họ đang phấn đấu vươn lên làm chủ cuộc đời, chủ số phận và họ - những
người phụ nữ hiện đại phải được sống bình đẳng, được mọi người tơn trọng như
nam giới.


<b>Cảm nhận của em về nhân vật Vũ Nương mẫu 5</b>


Từ thuở xa xưa, người phụ nữ được cho là những người chân yếu tay mềm, chỉ biết
phụ thuộc, chẳng làm được cái tích sự gì, bị khinh bỉ rẻ rúm, bị đàn áp dưới chế độ
nam quyền. Nhưng chính họ lại luôn là đề tài phổ biến, truyền cảm hứng sáng tác
cho các tác giả trong nền văn học trung đại Việt Nam. Và Vũ Nương- một người
phụ nữ tiêu biểu trong xã hội phong kiến có nhiều phẩm chất tốt đẹp nhưng lại gặp
oan nghiệt và có cuộc đời bất hạnh- đã được tác giả Nguyễn Dữ khắc họa thành
công qua tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương”



Trước hết, Vũ Nương là người phụ nữ hội tụ nhiều nét đẹp truyền thống của người
phụ nữ Việt Nam. Vẻ đẹp của nàng được thể hiện trong nhiều mối quan hệ ở từng
hồn cảnh khác nhau. Khi cịn là một thiếu nữ, Vũ Nương sở hữu nét tính cách thùy
mị nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp nên nàng được người người quý mến. Sau khi
được gả về nhà chàng Trương, nàng là người vợ thủy chung son sắc, hết lịng chăm
lo cho gia đình nhỏ. Biết chồng có tính đa nghi, nàng ln giữ gìn khn phép lễ
nghi, khơng để xảy ra bất hòa. Ngày tiễn chồng lên đường ra nơi biên ải, Vũ Nương
như xé lòng dặn dò chồng đầy tình nghĩa: "Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám
mong được đeo ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo
được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Với lời dặn dị của nàng, ta thấy Vũ Nương
khơng hề mong được vinh quang hiển hách mà chỉ cầu sao cho chồng được bình an.
Khơng chỉ vậy, nàng cịn cảm thơng với những vất vả khó khăn mà sau này chồng
mình sẽ phải chịu đựng phía trường chinh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời khơng thể
nào ngăn được.”


Trong quan hệ với mẹ chồng, Vũ Nương là một nàng dâu vô cùng ngoan ngoãn,
hiếu thảo. Mẹ chồng lâm bệnh nặng, nàng chăm sóc tận tịu chu đáo, lo thuốc thang
trị liệu, lo lễ bái thần phật, dịu dàng dùng lí lẽ ngọt ngào khuyên lơn để mong bệnh
tình của bà mau qua. Biết mình chẳng thể tiếp tục cõi đời, bà mẹ chồng đã kịp thời
trăng trối trước lúc lâm chung để khẳng định về nhân cách, công lao đức độ của Vũ
Nương đối với bà:” Sau này trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi
tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ
mẹ”. Mẹ chồng mất, nàng một mình một thân lo việc ma chay tế lễ như đối với cha
mẹ đẻ của mình. Tấm gương tần tảo nghĩa hiếu ấy khó ai mà có được trong hồn
cảnh cơi cút, vất vả như nàng.


Trong quan hệ với con, Vũ Nương là người mẹ lành đảm đang hết lòng yêu thương


con, một mình ni con với tất cả tình u nàng gom góp của mình và của người
cha đứa bé nơi chiến trường vì sợ con thiếu thốn tình cảm. Những đêm con khóc,
nàng thường dỗ dành con bằng cách chỉ vào bóng mình trên vách tường và nói đó là
cha nó.


Khơng những thế, Vũ Nương cịn là người trọng danh dự, nhân phẩm. Điều này
được thể hiện qua tình huống khi nàng bị nghi oan, Vũ Nương hết mình tìm cách
hàn gắn hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ tan vỡ bằng phương pháp phân trần,
giải thích. Hình ảnh nàng trẫm mình xuống dịng Hồng Giang đã khẳng định tấm
lòng thủy chung, trong trắng của nàng. Khi đã quy tiên, sống yên ổn ở một thế giới
khác, Vũ Nương không nguôi nhớ về nơi trần tục, về chồng con, về quê hương đất
tổ và mong được giải oan.


Như vậy, Vũ Nương quả là một người phụ nữ đẹp nết đẹp người, tháo vát đảm
đang, hiếu thảo, thủy chung, hết lịng bồi đắp hạnh phúc gia đình. Vẻ đẹp của nàng
như ánh hào quang tỏa sáng ngay cả khi đã về nơi chín suối. Thật đáng trân trọng và
cảm phục biết bao!


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

là:” con kẻ khó được nương tựa nhà giàu”. Trương Sinh đã xin mẹ trăm lạng vàng
cưới nàng về làm dâu. Sự cách bức giàu nghèo đã tạo thêm cái thế cho Trương
Sinh- người đàn ơng gia trưởng trong một gia đình giàu có dưới xã hội phong
kiến-để hắn có thể dễ dàng chà đạp lên thân phận Vũ Nương.


Cái thứ hai, Vũ Nương là nạn nhân của cuộc chiến tranh phong kiến phi nghĩa. GIa
đình đang yên ấm hạnh phúc thì phải” chia phơi vì động việc lửa binh”. Những ngày
ở nhà, Vũ Nương mịn mỏi đợi chờ chồng, ngóng trơng đầy thương nhớ như nàng
vọng phu hoài cổ. Ngày sum họp lại là ngày” bình rơi trâm gãy, sen rũ trong ao liễu
tàn trước gió”. Do có tính đa nghi lại thêm lời con trẻ nói nên bỏ ngồi tai lời vợ
phân trần, bà con hàng xóm bênh vực. Đó là lí do mà Trương Sinh luôn miệng
mắng nhiếc, chửi rủa, đuổi đánh, dồn đẩy nàng đến cái chết đầy đau thương. Thật


xót xa cho nàng! Chỉ vì lời nói của con trẻ, chỉ vì anh chồng hồ đồ ghen tng bóng
gió, độc đốn mà phải kết liễu cuộc đời.


Tóm lại, nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm” Chuyện người con gái Nam Xương”
của Nguyễn Dữ chính là hình ảnh tiêu biểu cho người phụ nữ trong xã hội xưa và
cũng là lời tố cáo về xã hội phong kiến nam quyền ngày xưa. Từ đó cho thấy sự cảm
thơng cho số phận Vũ Nương của tác giả tài hoa Nguyễn Dữ.


</div>

<!--links-->

×