Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Tải Phân tích bài thơ Việt Bắc hay và Chất - Dàn ý chi tiết và bài văn mẫu phân tích Việt Bắc dễ đạt điểm cao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.79 KB, 19 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Phân tích bài thơ Việt Bắc hay và Chất</b>


<b>Dàn ý chi tiết</b>


<b>1. Mở bài</b>


Giới thiệu tác giả Tố Hữu và bài thơ Việt Bắc. (Tố Hữu là một nhà thơ lớn có
nhiều đóng góp quan trọng cho nền văn học nước nhà. Một trong những sáng tác
tiêu biểu của ơng la bài thơ Việt Bắc.)


<b>2. Thân bài</b>


• Tác giả


 Tố Hữu là một trong những lá cờ đầu của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam.
Thơ ông thể hiện lẽ sống, lí tưởng, tình cảm cách mạng của con người Việt
Nam hiện đại.


 Thơ Tố Hữu mang tình chất trữ tình chính trị sâu sắc: Hướng đến cái chung về
lẽ sống lớn, tình cảm lớn, niềm vui lớn của con người Cách mạng và của cả dân
tộc, coi những sự kiện chính trị lớn của đất nước là đối tượng thể hiện chủ yếu,
luôn đề cập đến những vấn đề có ý nghĩa lịch sử và có tính tồn dân.


 Giọng thơ mang tính chất tâm tình, đằm thắm, chân thành; vận dụng những thể
thơ truyền thống của dân tộc, sử dụng cách nói quen thuộc với dân tộc. Đặc
biệt ơng phát huy cao độ tính nhạc phong phú của tiếng Việt, từ láy, thanh điệu,
vần thơ,…


• Tập thơ Việt Bắc


 Tập thơ là tiếng ca hùng tráng, thiết tha về cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp và những con người kháng chiến.



 Ca ngợi Đảng và Bác Hồ, tình quân dân, tiền tuyến hậu phương, miền xuôi
-ngược, cán bộ - quần chúng, nhân dân với lãnh tụ, thiên nhiên, đất nước con
người,...


 Kết thúc bằng những bài ca hùng tráng, vang dội phản ánh khí thế chiến thắng
hào hùng của dân tộc.


<i>“Mình về mình có nhớ ta?</i>
<i>Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.</i>


<i>Mình về mình có nhớ khơng?</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

→ Lời của người Việt Bắc hỏi người ra đi, khơi gợi những kỉ niệm đã qua.


<i>Câu hỏi tu từ “Mình về mình có nhớ ta?”, cách xưng hơ “mình - ta” quen thuộc</i>
trong lối đối đáp dân gian thể hiện được cảm xúc dâng trào cùng nỗi lòng của
người ở lại.


<i>“Mười lăm năm” khoảng thời gian đủ dài để giữa người đi và kẻ ở thấu hiểu nhau,</i>


có với nhau những kỉ niệm đáng nhớ.


<i>“thiết tha mặn nồng”: tình cảm giữa người dân Việt Bắc và người cán bộ chiến sĩ</i>


thủy chung, sâu sắc, keo sơn, bền chặt.


Hai câu thơ sau là lời nhắc nhớ người ra đi về thiên nhiên, con người Việt Bắc.
<i>Hình ảnh “núi, sơng” là sự vận dụng tài tình của tác giả với câu tục ngữ “Uống</i>
nước nhớ nguồn” để nhắc nhở người ra đi về Việt Bắc - cội nguồn của Cách mạng,


là nơi chúng ta đã cùng nhau đồng cam cộng khổ chiến đấu và giành chiến thắng.
→ Người ở lại mở lời gợi nhắc nhớ người ra đi về khoảng thời gian gắn bó và
những kỉ niệm cùng nhau.


<i>“Tiếng ai tha thiết bên cồn</i>


<i>Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi</i>
<i>Áo chàm đưa buổi phân ly</i>


<i>Cầm tay nhau biết nói gì hơm nay…”</i>


→ Tiếng lịng của người của người về xi mang trong mình sự quyến luyến, nỗi
nhớ thương, bịn rịn.


<i>“tha thiết”: sự cảm nhận của người ra đi trước tình cảm của người ở lại.</i>


<i>“bâng khuâng”: nhớ nhung, luyến tiếc, buồn vui lẫn lộn, “bồn chồn” diễn tả sự</i>


day dứt, nơ nao trong lịng khiến bước đi ngập ngừng.


→ Người ra đi vô cùng lưu luyến Việt Bắc, nửa muốn đi, nửa muốn ở, bịn rịn,
phân vân.


<i>“áo chàm” la hình ảnh hốn dụ tượng trưng cho những người dân Việt Bắc giản</i>


dị, mộc mạc, chất phác đưa tiễn người chiến sĩ về miền xuôi.


<i>“phân li” tuy chia cách nhưng trong lịng vẫn ln hướng về nhau, vẫn dành trọn</i>


vẹn tình cảm cho nhau hẹn ngày gặp lại.



<i>“Cầm tay nhau biết nói gì hơm nay…”: khơng phải khơng có gì để nói với nhau</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

câu làm cho không gian của buổi chia tay như trùng xuống, tĩnh lặng thể hiện được
nỗi buồn, quyến luyến giữa người đi và kẻ ở.


→ Không gian chia tay đầy bịn rịn.


<i>“- Mình đi, có nhớ những ngày</i>
<i>Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?</i>


<i>Mình về, có nhớ chiến khu</i>


<i>Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?</i>
<i>Mình về, rừng núi nhớ ai</i>


<i>Trám bùi để rụng, măng mai để già</i>
<i>Mình đi, có nhớ những nhà</i>
<i>Hắt hiu lau xám, đậm đà lịng son</i>


<i>Mình về, còn nhớ núi non</i>


<i>Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh</i>
<i>Mình đi, mình có nhớ mình</i>


<i>Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?”</i>


→ Lời của người ở lại hỏi người ra đi về những kỉ niệm trong khoảng thời gian 15
năm gắn bó.



<i>“Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù”: khung cảnh núi rừng ảm đạm trong</i>


những ngày đầu chiến đấu.


<i>“Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai”: sự đồng cam cộng khổ vượt qua gian</i>


khó, cùng chung lưng đấu cật để chống lại kẻ thù.


<i>“rừng núi nhớ ai” là biện pháp nghệ thuật nhân hóa thể hiện tình cảm của thiên</i>


nhiên Việt Bắc với người ra đi: ngay đến cả thiên nhiên cũng gắn bó và yêu thương
sâu nặng với người ra đi.


<i>“Trám bùi để rụng, măng mai để già”: thể hiện sự khó khăn một cách dí dỏm:</i>


người chiến sĩ phải hái những quả rừng để ăn thay cơm vì thiếu thốn. Khi họ ra đi,
những cây trái ấy chỉ còn lại đứng bơ vơ giữa trời đất.


<i>“hắt hiu lau xám/ đậm đà lòng son”: biện pháp nghệ thuật đối lập (hắt hiu - đậm</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<i>“Mình đi mình có nhớ mình”: người ở nhắn nhủ với người về, đến đây khơng cịn</i>


<i>cách xưng hơ “mình - ta” nữa mà chuyển thành “mình - mình” chứng minh người</i>
dân Việt Bắc và người chiến sĩ như hịa vào làm một.


<i>“- Ta với mình, mình với ta</i>
<i>Lịng ta sau trước mặn mà đinh ninh</i>


<i>Mình đi, mình lại nhớ mình</i>



<i>Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu…”</i>


→ Lời đáp lại của người ra đi trước tình cảm của người ở lại.


Người ra đi khẳng định tấm lòng thủy chung son sắt trước sau như một của mình
<i>với người ở lại qua từ “đinh ninh”.</i>


Người ra đi luôn nhớ về người ở lại, nỗi nhớ ấy luôn đong đầy như nước đầu
nguồn khơng bao giờ vơi đi.


<i>“Nhớ gì như nhớ người yêu</i>


<i>Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương</i>
<i>Nhớ từng bản khói cùng sương</i>
<i>Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.</i>


<i>Nhớ từng rừng nứa bờ tre</i>


<i>Ngịi Thia sơng Ðáy, suối Lê vơi đầy”</i>


Nỗi nhớ người dân Việt Bắc được ví như nhớ người u, ln thường trực trong
trái tim bất kể là ngày hay đêm.


Người chiến sĩ nhớ về những kỉ niệm gắn bó với nhân dâm và thiên nhiên Việt
Bắc: những đêm trăng, nương rấy tràn ngập ánh nắng, những bản làng tràn ngập
<i>trong làn khói thổi cơm chiều, những con người cần mẫn, chăm chỉ “đi sớm về</i>


<i>khuya” ở nơi đây.</i>


Nỗi nhớ ấy được khắc họa chi tiết nhất là khi người chiến sĩ nhớ về cụ thể từng


rừng nứa, bờ tre, ngịi Thia, sơng Đáy.


<i>“Ta đi, ta nhớ những ngày</i>
<i>Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi...</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

<i>Nhớ người mẹ nắng cháy lưng</i>
<i>Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô</i>


<i>Nhớ sao lớp học i tờ</i>


<i>Ðồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan</i>
<i>Nhớ sao ngày tháng cơ quan</i>


<i>Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.</i>
<i>Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều</i>
<i>Chày đêm nện cối đều đều suối xa…”</i>


→ Người ra đi bày tỏ nỗi lịng, nỗi nhớ của mình.


Người ra đi nhớ về những ngày cùng người dân chiến đấu gian khổ: chia nhau củ
sắn, bát cơm sẻ nửa, chia sẻ nhau chiếc chăn sui tuy khó khăn nhưng ln đồn
kết, đồng lịng chiến đấu.


Nỗi nhớ dâng trào, người chiến sĩ nhớ về người mẹ dân tộc vùng nơi đây địu con
nhỏ lên rấy, những lớp bình dân học vụ, những giờ liên hoan vui vẻ, những ngày ở
cơ quan tuy gian nan nhưng vẫn lạc quan, vui vẻ hát vang bài ca, những tiếng mõ
chiều đuổi trâu về nhà và cả những tiếng nện chày giã gạo những đêm trăng phục
vụ cách mạng.


→ Tất cả đều là những kỉ niệm đẹp đẽ không thể nào phai.



<i>“Ta về, mình có nhớ ta</i>


<i>Ta về ta nhớ những hoa cùng người</i>
<i>Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi</i>
<i>Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.</i>


<i>Ngày xuân mơ nở trắng rừng</i>
<i>Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang</i>


<i>Ve kêu rừng phách đổ vàng</i>
<i>Nhớ cô em gái hái măng một mình</i>


<i>Rừng thu trăng rọi hồ bình</i>
<i>Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.”</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

2 câu thơ đầu người ra đi khẳng định mình ln nhớ về thiên nhiên và con người
Việt Bắc.


<i>Mùa đông: “hoa chuối đỏ tươi” tơ điểm cho khu rừng xanh, hịa vào đó là ánh</i>
nắng vàng làm cho bức tranh mùa đông của Việt Bắc thêm hài hòa màu sắc.


<i>Mùa xuân: “mơ nở trắng rừng” mùa xuân Việt Bắc đặc trăng là màu trắng tinh</i>
khiết của của rừng hoa mơ, giữa khung cảnh thơ mộng ấy là hình ảnh con người
cần mẫn, tỉ mỉ, khéo léo chuốt từng sợi giang để đan nón.


<i>Mùa hạ: “ve kêu rừng phách đổ vàng” tiếng ve quen thuộc của mùa hè giữa rừng</i>
hoa phách vàng gợi liên tưởng tiếng ve như bát sơn vàng sóng sánh đổ lên rừng gỗ
xanh khiến tất cả chuyển sang một màu vàng ấm áp.



<i>Mùa thu: “rừng thu trăng rọi hịa bình” ánh tắng Việt Bắc mùa thu vơ cùng n</i>
bình, trong trẻo gợi cảm giác thanh mát, hịa vào khung cảnh đó là tiếng hát ân tình
thủy chung của người dân dạt dào tình cảm.


→ Hình ảnh hịa hợp giữa thiên nhiên và con người tạo nên bức tranh Việt Bắc vô
cùng xinh đẹp khiến người ta nhớ mãi.


<i>“Nhớ khi giặc đến giặc lùng</i>
<i>Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây</i>


<i>Núi giăng thành luỹ sắt dày</i>
<i>Rừng che bộ đội rừng vây quân thù</i>


<i>Mênh mông bốn mặt sương mù</i>
<i>Ðất trời ta cả chiến khu một lòng.”</i>


Người chiến sĩ nhớ về những ngày tháng chiến đấu gian khổ.
<i>Cả “rừng cây núi đá” và con người cùng đồng lòng đánh giặc.</i>


<i>Nhân hóa: “núi giăng, rừng che” thiên nhiên trở thành những chiến hữu khổng lồ</i>
dốc hết sức lực che chắn, bảo vệ bộ đội khỏi quân thù, cùng bộ đội ta bao vây, tiêu
diệt chúng.


→ Cả đất trời và con người đồng lịng đánh giặc.


<i>“Ai về ai có nhớ khơng?</i>
<i>Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

<i>Nhớ từ Cao - Lạng nhớ sang Nhị Hà…”</i>



Câu hỏi tu từ cũng là lời khẳng định của người ra đi sẽ luôn nhớ về những địa danh
chiến đấu (Phủ Thông, đèo Giàng, sông Lô, phố Ràng, Cao - Lạng, Nhị Hà) ở Việt
Bắc.


<i>“Những đường Việt Bắc của ta</i>
<i>Ðêm đêm rầm rập như là đất rung</i>


<i>Quân đi điệp điệp trùng trùng</i>
<i>Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan</i>


<i>Dân công đỏ đuốc từng đồn</i>
<i>Bước chân nát đá, mn tàn lửa bay.</i>


<i>Nghìn đêm thăm thẳm sương dày</i>
<i>Ðèn pha bật sáng như ngày mai lên.</i>


<i>Tin vui chiến thắng trăm miềm</i>
<i>Hồ Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về</i>


<i>Vui từ Ðồng Tháp, An Khê</i>
<i>Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.”</i>


<i>Động từ mạnh “rầm rập, đất rung, nát đá”: diễn tả ngày Việt Bắc ra trận tràn đầy</i>
khí thế, tưởng như mặt đất đang rung chuyển dưới những bàn chân của những
người chiến sĩ trong cuộc hành quân vĩ đại từ khắp các ngả đường.


<i>Từ láy “điệp điệp, trùng trùng”: miêu tả khí thế, quyết tâm, sức mạnh tinh thần</i>
của hàng nghìn con người ra trận.


<i>“Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay”: tinh thần yêu nước, quyết tâm đánh giặc</i>



tạo nên sức mạnh đại đoàn kết dân tộc có thể làm bất cứ điều gì lớn lao.


<i>Hình ảnh đối lập “thăm thẳm sương dày/ Đèn pha bật sáng…”: khẳng định niềm</i>
tin, lạc quan, luôn tin tưởng vào thắng lợi của cuộc chiến đấu, của ngày mai tươi
sáng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

→ Khẳng định vai trò của Việt Bắc: là quê hương, là căn cứ địa vững chắc của
cách mạng, là đầu não của cuộc kháng chiến, nơi hội tụ bao tình cảm, suy nghĩ,
niềm tin và hi vọng của mọi người Việt Nam yêu nước.


<i>“Ai về ai có nhớ khơng?</i>


<i>Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang.</i>
<i>Nắng trưa rực rỡ sao vàng</i>


<i>Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công</i>
<i>Ðiều quân chiến dịch thu đông</i>


<i>Nông thôn phát động, giao thơng mở đường</i>
<i>Giữ đê, phịng hạn, thu lương</i>


<i>Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu…”</i>


Người ra đi nhớ về những ngày tháng cùng đồng đội ở căn cứ địa chiến đấu:
Những ngày nắng vàng rực rỡ tung bay lá cờ đỏ sao vàng.


Những giờ đi họp, bàn bạc, đưa ra sách lược chiến đấu, điều quân cho những chiến
dịch.



→ Khí thế chiến đấu hừng hực của tiền tuyến và hậu phương, thể hiện tinh thần
đồng lòng, quyết tâm đánh giặc không chỉ của những người ở chiến khu mà là của
cả dân tộc, đất nước, con người Việt Nam.


<i>“Ở đâu u ám quân thù</i>


<i>Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi</i>
<i>Ở đâu đau đớn giống nịi</i>
<i>Trơng về Việt Bắc mà ni chí bền.</i>


<i>Mười lăm năm ấy ai qn</i>


<i>Q hương cách mạng dựng nên Cộng hồ</i>
<i>Mình về mình lại nhớ ta</i>


<i>Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào.”</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Là lời khẳng định của người ra đi sẽ luôn nhớ về 15 năm kháng chiến gian khổ để
lấy lại độc lập cho nước nhà và luôn nhớ về những con người, thiên nhiên và địa
danh nơi đây.


→ Tình cảm thiết tha, gắn bó sâu nặng.
• Tổng kết về nội dung, nghệ thuật
<i>*Nghệ thuật</i>


Nghệ thuật biểu hiện của đoạn thơ đậm đà tính dân tộc:


 Phát huy nhiều thế mạnh của thể thơ lục bát truyền thống.


 Nhịp thơ uyển chuyển, linh hoạt, dễ nhớ, thấm sâu vào tâm tư.



 Ngôn ngữ giản dị, mộc mạc.


Thể hiện chất trữ tình chính trị sâu sắc tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu:


 Chính trị: đề tài cuộc kháng chiến, vận mệnh đất nước,...


 Trữ tình: so sánh tình cảm của cán bộ và nhân dân như tình u, xưng hơ mình,
ta, lời lẽ giàu tình cảm.


<i>*Nội dung:</i>


 Ca ngợi tình cảm sắc son, chung thủy của quân (người ra đi) và dân ta (người ở
lại).


 Thể hiện lòng yêu nước của lớp lớp thế hệ con người.


 Nhắc nhở người đời sau biết trân trọng nền độc lập này.


<b>3. Kết bài</b>


Khẳng định lại giá trị, ý nghĩa của bài thơ: bài thơ đóng góp một phần to lớn vào
thành công của nên văn học Việt Nam và để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng nhiều
thế hệ bạn đọc.


<b>Bài mẫu phân tích bài thơ Việt Bắc</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

tác phẩm tiêu biểu của ơng nói về tình cảm khăng khít, gắn bó sâu nặng giữa qn
và dân ta là bài thơ Việt Bắc.



Tố Hữu là một trong những lá cờ đầu của nền văn nghệ cách mạng thể hiện lẽ
sống, lí tưởng, tình cảm của con người Việt Nam hiện đại. Thơ ông mang đậm chất
trữ tình chính trị sâu sắc: hướng đến cái chung về lẽ sống lớn, tình cảm lớn, niềm
vui lớn của con người Cách mạng và của cả dân tộc, coi những sự kiện chính trị
lớn của đất nước là đối tượng thể hiện chủ yếu, luôn đề cập đến những vấn đề có ý
nghĩa lịch sử và có tính tồn dân. Bên cạnh đó, ơng cịn là nhà thơ khéo léo trong
việc kết hợp các biện pháp nghệ thuật: Giọng thơ mang tính chất tâm tình, đằm
thắm, chân thành; vận dụng những thể thơ truyền thống của dân tộc, sử dụng cách
nói quen thuộc với dân tộc. Đặc biệt ơng phát huy cao độ tính nhạc phong phú của
tiếng Việt, từ láy, thanh điệu, vần thơ,…


Tập thơ Việt Bắc là một trong những sáng tác vô cùng nổi tiếng của ông. Bài thơ là
tiếng ca hùng tráng, thiết tha về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và những
con người kháng chiến; ca ngợi Đảng và Bác Hồ, tình quân - dân, tiền tuyến - hậu
phương, miền xuôi - ngược, cán bộ - quần chúng, nhân dân với lãnh tụ, thiên
nhiên, đất nước con người,…


Mở đầu đoạn trích là khung cảnh chia tay của người ở lại và người chiến sĩ ra đi,
trở về miền xi:


<i>“Mình về mình có nhớ ta?</i>
<i>Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.</i>


<i>Mình về mình có nhớ khơng?</i>


<i>Nhìn cây nhớ núi, nhìn sơng nhớ nguồn.”</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

nhau: đó là thời gian dài đằng đẵng, là những kỉ niệm đã có cùng nhau. Tố Hữu vơ
<i>cùng khéo léo khi vận dụng cách xưng hơ “mình - ta” vốn được dùng trong lối đối</i>
<i>đáp xưa vào bài thơ của mình cùng với câu hỏi tu từ, điệp từ “nhớ” càng gây ấn</i>


tượng với bạn đọc về nét giản dị, mộc mạc nhưng vô cùng chân thành của con
người nơi đây.


Trước tình cảm, sự trân thành của người dân Việt Bắc, người ra đi bịn rịn khơng
nói nên lời:


<i>“- Tiếng ai tha thiết bên cồn</i>


<i>Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi</i>


<i>Áo chàm đưa buổi phân ly</i>


<i>Cầm tay nhau biết nói gì hơm nay…”</i>


<i>Những tính từ “tha thiết, bâng khuâng, bồn chồn” đã diễn tả vô cùng chính xác,</i>
chân thực tình cảm của người ra đi trước giờ phút chia tay đầy quyến luyến. Có thể
thấy, bốn câu thơ là vùng đất trù phú của các biện pháp nghệ thuật. Bên cạnh việc
sử dụng tính từ, Tố Hữu đã sử dụng vô cùng thành công trong việc sử dụng biện
pháp nghệ thuật hốn dụ: mượn hình ảnh áo chàm - vật dụng quen thuộc với người
nông dân để chỉ những con người lao động chất phác của mảnh đất này. Vào
khoảnh khắc chia tay đầy xúc động ấy, người đi kẻ ở bịn rịn, quyến luyến khơng
nói nên lời. Tất cả tình cảm được thể hiện qua cái cầm tay, bởi khoảng thời gian
mười lăm năm gắn bó đã đủ làm họ hiểu nhau, chỉ cần nhìn vào mắt nhau cũng có
thể thấu hiểu tâm tư tình cảm của người còn lại. Phép im lặng (dấu “…”) cuối câu
làm cho không gian của buổi chia tay như trùng xuống, tĩnh lặng và cũng để cả hai
nhớ về thời gian bên nhau:


<i>“- Mình đi, có nhớ những ngày</i>
<i>Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?</i>



<i>Mình về, có nhớ chiến khu</i>


<i>Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?</i>
<i>Mình về, rừng núi nhớ ai</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

<i>Hắt hiu lau xám, đậm đà lịng son</i>
<i>Mình về, cịn nhớ núi non</i>


<i>Nhớ khi kháng Nhật, thuở cịn Việt Minh</i>
<i>Mình đi, mình có nhớ mình</i>


<i>Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?”</i>


Trong khơng gian tĩnh lặng của buổi chia tay ấy, người ở lại mở lời, hỏi người ra đi
về những kỉ niệm trong khoảng thời gian mười lăm năm gắn bó. Bao nhiêu suy tư,
trăn trở đến đây đã bật ra thành câu hỏi. Đó là những lời nhắc nhớ về những ngày


<i>“mưa nguồn suối lũ, mây cùng mù”, về “miếng cơm chấm muối”… tuy khó khăn</i>


gian khổ nhưng vẫn ln vui vẻ, đồn kết một lịng một dạ đấu tranh. Khi người
chiến sĩ về miền xuôi, không chỉ con người nơi đây hụt hẫng mà ngay cả thiên
<i>nhiên cũng bơ vơ (trám bùi để rụng, măng mai để già). bên cạnh việc nhắc nhớ</i>
người ra đi về thiên nhiên, người ở lại cũng nhắc người ra đi nhớ về chính mình:
“mình đi có nhớ những nhà/ Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son” và về những kỉ
<i>niệm ở nơi đây: “Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh”. Đến đây khơng cịn</i>
cách xưng hơ mình - ta nữa mà chuyển sang xưng hơ mình - mình. Người ra đi và
người ở lại như hòa vào làm một.


Trước những câu hỏi, lời nhắc nhớ của người ở lại cuối cùng, người ra đi cũng lên
tiếng:



<i>“- Ta với mình, mình với ta</i>
<i>Lịng ta sau trước mặn mà đinh ninh</i>


<i>Mình đi, mình lại nhớ mình</i>


<i>Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu…”</i>


Người ra đi khẳng định tấm lòng thủy chung son sắt trước sau như một của mình
<i>với người ở lại qua từ “đinh ninh”. Người ra đi luôn nhớ về người ở lại, nỗi nhớ ấy</i>
luôn đong đầy như nước đầu nguồn khơng bao giờ vơi đi.


<i>Nhớ gì như nhớ người yêu</i>


<i>Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương</i>
<i>Nhớ từng bản khói cùng sương</i>
<i>Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

<i>Ngịi Thia sơng Ðáy, suối Lê vơi đầy”</i>


Nỗi nhớ người dân Việt Bắc của người ra đi được ví như nhớ người u, ln
thường trực trong trái tim bất kể là ngày hay đêm. Người chiến sĩ nhớ về những kỉ
niệm gắn bó với nhân dân và thiên nhiên Việt Bắc: những đêm trăng, nương rẫy
tràn ngập ánh nắng, những bản làng ngập trong làn khói thổi cơm chiều, những con
<i>người cần mẫn, chăm chỉ “đi sớm về khuya” ở nơi đây. Nỗi nhớ ấy được khắc họa</i>
chi tiết nhất là khi người chiến sĩ nhớ về cụ thể từng rừng nứa, bờ tre, ngịi Thia,
sơng Đáy.


<i>“Ta đi, ta nhớ những ngày</i>
<i>Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi...</i>



<i>Thương nhau, chia củ sắn lùi</i>
<i>Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng</i>


<i>Nhớ người mẹ nắng cháy lưng</i>
<i>Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô</i>


<i>Nhớ sao lớp học i tờ</i>


<i>Ðồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan</i>
<i>Nhớ sao ngày tháng cơ quan</i>


<i>Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.</i>
<i>Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều</i>
<i>Chày đêm nện cối đều đều suối xa…”</i>


Người ra đi nhớ về những ngày cùng người dân chiến đấu gian khổ: chia nhau củ
sắn, bát cơm sẻ nửa, chia sẻ nhau chiếc chăn sui tuy khó khăn nhưng ln đồn
kết, đồng lịng chiến đấu. Nỗi nhớ dâng trào hơn khi người chiến sĩ nhớ về người
mẹ dân tộc vùng nơi đây địu con nhỏ lên rẫy, những lớp bình dân học vụ, những
giờ liên hoan vui vẻ, những ngày ở cơ quan tuy gian nan nhưng vẫn lạc quan hát
vang bài ca, những tiếng mõ chiều đuổi trâu về nhà và cả những tiếng nện chày giã
gạo những đêm trăng phục vụ cách mạng. Tất cả đều là những kỉ niệm đẹp đẽ
không thể nào phai trong lịng người chiến sĩ.


<i>“Ta về, mình có nhớ ta</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

<i>Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.</i>
<i>Ngày xuân mơ nở trắng rừng</i>
<i>Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang</i>



<i>Ve kêu rừng phách đổ vàng</i>
<i>Nhớ cô em gái hái măng một mình</i>


<i>Rừng thu trăng rọi hồ bình</i>
<i>Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.”</i>


Có thể nói, đây là những vần thơ, ý thơ đẹp đẽ nhất mà người ra đi dành cho con
người và thiên nhiên Việt Bắc. Hai câu thơ đầu người ra đi khẳng định mình ln
nhớ về thiên nhiên và con người nơi đây. Mở đầu bức tranh tứ bình của Việt Bắc là
<i>hình ảnh “hoa chuối đỏ tươi” tô điểm cho khu rừng xanh thêm rực rỡ màu sắc, hịa</i>
vào đó là ánh nắng vàng làm cho bức tranh mùa đông của nơi đây không chỉ ngập
<i>tràn màu sắc mà cịn vơ cùng ấm áp. Mùa xuân được khắc họa với đặc trưng“mơ</i>


<i>nở trắng rừng” với một màu trắng tinh khiết, giữa khung cảnh thơ mộng ấy là hình</i>


ảnh con người cần mẫn, tỉ mỉ, khéo léo chuốt từng sợi giang để đan nón. Khép lại
<i>bức tranh mùa xuân cũng là lúc bước vào mùa hè với tiếng “ve kêu rừng phách đổ</i>


<i>vàng” gợi liên tưởng tiếng ve như bát sơn vàng sóng sánh đổ lên rừng gỗ xanh</i>


khiến tất cả chuyển sang một màu vàng rực rỡ. Khép lại bức tranh tứ bình là mùa
<i>thu với hình ảnh “rừng thu trăng rọi hịa bình” vơ cùng n bình, trong trẻo gợi</i>
cảm giác thanh mát, hịa vào khung cảnh đó là tiếng hát ân tình thủy chung của
người dân dạt dào tình cảm. Bức tranh tứ bình khơng chỉ giúp ta tưởng tượng ra
thiên nhiên tươi đẹp nơi đây mà còn giúp ta hiểu hơn về con người Việt Bắc cũng
như thêm yêu mến nơi này. Sở dĩ mở đầu bức tranh là mùa đơng lạnh lẽo và kết
thúc bằng mùa thu hịa bình vì người chiến sĩ chia tay đồng bào Việt Bắc quay về
thủ đô vào mùa đông nên nỗi nhớ được bắt nguồn từ đó. Khơng những vậy, nó cịn
mang dụng ý: mùa đơng là khi đất nước ta chìm trong kiếp lầm than, nô lệ khi bị


xâm lược, mùa xuân là giai đoạn chuẩn bị cho cuộc cách mạng, mùa hạ là khi cuộc
chiến sôi nổi diễn ra và mùa thu là mùa ta giành lại độc lập.


Ngoài bức tranh tứ bình, người ra đi cịn nhớ về những ngày tháng chiến đấu gian
khổ:


<i>“Nhớ khi giặc đến giặc lùng</i>
<i>Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

<i>Mênh mông bốn mặt sương mù</i>
<i>Ðất trời ta cả chiến khu một lòng.”</i>


<i>Kỉ niệm về những ngày chiến đấu hiện về trong kí ức của người ở lại. Cả “rừng</i>


<i>cây núi đá” và con người đồng lòng đánh giặc. Biện pháp nghệ thuật nhân hóa:</i>
<i>“núi giăng, rừng che” đã làm cho thiên nhiên trở thành những chiến hữu khổng lồ</i>


dốc hết sức lực che chắn, bảo vệ bộ đội khỏi quân thù, cùng bộ đội ta bao vây, tiêu
diệt chúng. Cả đất trời và con người đồng lòng đánh giặc và mong đợi ngày kháng
chiến thắng lợi thể hiện quyết tâm cao độ của đầu não chiến khu này.


<i>“Ai về ai có nhớ không?</i>
<i>Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng</i>


<i>Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng</i>
<i>Nhớ từ Cao - Lạng nhớ sang Nhị Hà…”</i>


<i>Câu hỏi tu từ “Ai về ai có nhớ khơng?” thể hiện tâm tư, tình cảm của người ra đi</i>
<i>và lời khẳng định “Ta về ta nhớ…” cho thấy dù bất kì người nào khác rời chiến</i>
khu Việt Bắc với tâm trạng như thế nào không biết nhưng người chiến sĩ thì sẽ


ln nhớ về con người, thiên nhiên và những địa danh nơi đây (Phủ Thông, đèo
Giàng, sông Lô, phố Ràng, Cao - Lạng, Nhị Hà) gắn liền với những kỉ niệm chiến
đấu và chiến thắng của họ.


Không chỉ nhớ về những địa danh của chiến khu, người ra đi còn nhớ về những
ngày chiến đấu và chiến thắng:


<i>“Những đường Việt Bắc của ta</i>
<i>Ðêm đêm rầm rập như là đất rung</i>


<i>Quân đi điệp điệp trùng trùng</i>
<i>Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan</i>


<i>Dân cơng đỏ đuốc từng đồn</i>
<i>Bước chân nát đá, mn tàn lửa bay.</i>


<i>Nghìn đêm thăm thẳm sương dày</i>
<i>Ðèn pha bật sáng như ngày mai lên.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

<i>Vui từ Ðồng Tháp, An Khê</i>
<i>Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.”</i>


Những ngày hành quân của ta vô cùng khí thế và những khí thế đó được thể hiện
<i>qua động từ mạnh “rầm rập, đất rung, nát đá” tưởng như mặt đất đang rung</i>
chuyển dưới những bàn chân trong cuộc hành quân hùng hậu từ khắp các ngả
<i>đường. Từ láy “điệp điệp, trùng trùng” miêu tả khí thế, quyết tâm, sức mạnh tinh</i>
thần của hàng nghìn con người ra trận. Những bước đi của họ có thể làm cho
“mn tàn lửa bay” chính tinh thần yêu nước, quyết tâm đánh giặc này đã tạo nên
sức mạnh đại đoàn kết dân tộc giúp quân và dân ta làm nên những điều lớn lao.
<i>Bên cạnh đó, hình ảnh đối lập “thăm thẳm sương dày/ Đèn pha bật sáng…”:</i>


khẳng định niềm tin, lạc quan, luôn tin tưởng vào thắng lợi của cuộc chiến đấu, của
ngày mai tươi sáng.


Sau những khó khăn, những giờ phút cùng nhau chiến đấu vất vả, khổ cực, đến
cuối cùng quân và dân ta đã dành được những chiến thắng to lớn từ khắp các mặt
trận trên cả nước, từ Bắc vào Nam: Hồ Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên, Ðồng Tháp, An
Khê, Việt Bắc, đèo De, núi Hồng. Tất cả như vỡ òa, bao nhiêu công sức, bao nhiêu
khổ cực mà ta phải trải qua đã mang về thành quả vô cùng xứng đáng - độc lập tự
do. Đến đây chúng ta có thể khẳng định vai trò của Việt Bắc - là quê hương, là căn
cứ địa vững chắc của cách mạng, là đầu não của cuộc kháng chiến, nơi hội tụ bao
tình cảm, suy nghĩ, niềm tin và hi vọng của mọi người Việt Nam yêu nước.


Sau những hồi tưởng về cuộc chiến đấu và thắng lợi, người ra đi nhớ ngược về
những ngày chuẩn bị cho cuộc chiến đấu đó:


<i>“Ai về ai có nhớ khơng?</i>


<i>Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang.</i>
<i>Nắng trưa rực rỡ sao vàng</i>


<i>Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công</i>
<i>Ðiều quân chiến dịch thu đông</i>


<i>Nông thôn phát động, giao thơng mở đường</i>
<i>Giữ đê, phịng hạn, thu lương</i>


<i>Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu…”</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

mệnh lệnh di chuyển để thực hiện nhiệm vụ,… cả tiền tuyến và hậu phương rộn
ràng khí thế. Người chiến sĩ ở mặt trận chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu còn người ở


hậu phương ra sức tăng gia sản xuất cung cấp lương thực cho chiến khu. Tất cả thể
hiện tinh thần đồng lòng, quyết tâm đánh giặc của cả dân tộc, đất nước, con người
Việt Nam.


Bên cạnh những kỉ niệm của người ra đi và kẻ ở lại, người ra đi còn nhắn nhủ con
người về sự quan trọng của chiến khu Việt Bắc:


<i>“Ở đâu u ám quân thù</i>


<i>Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi</i>
<i>Ở đâu đau đớn giống nịi</i>
<i>Trơng về Việt Bắc mà ni chí bền.</i>


<i>Mười lăm năm ấy ai quên</i>


<i>Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hồ</i>
<i>Mình về mình lại nhớ ta</i>


<i>Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào.”</i>


Tác giả khẳng định vai trò Việt Bắc là quê hương, là căn cứ địa vững chắc của
cách mạng, là đầu não của cuộc kháng chiến, nơi hội tụ bao tình cảm, suy nghĩ,
niềm tin và hi vọng của mọi người Việt Nam yêu nước. Ở bất cứ đâu trên đất nước
này, bất cứ giai đoạn nào con người sống trong cảnh lầm than của ách đô hộ hãy
hướng về Việt Bắc, về chiến khu, lấy đó làm động lực để chiến đấu vì chính nơi
đây đã chiến thắng vẻ vang cho cả dân tộc.


Bên cạnh lời khẳng định tầm quan trọng của căn cứ cách mạng, người ra đi một lần
nữa khẳng định tình cảm của mình: người ra đi sẽ luôn nhớ về 15 năm kháng chiến
gian khổ để lấy lại độc lập cho nước nhà và luôn nhớ về những con người, thiên


nhiên, địa danh nơi đây.


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

<i>“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở</i>
<i>Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”.</i>


Có lẽ vì thế mà quê hương cách mạng Việt Bắc đã không ngần ngại chắp cánh cho
hồn thơ Tố Hữu viết nên thi phẩm cùng tên. Nhiều năm tháng qua đi nhưng tác
phẩm vẫn giữ nguyên những giá trị, ý nghĩa tốt đẹp của nó và để lại ấn tượng sâu
sắc trong lòng bạn đọc.


Mời các bạn tham khảo thêm các bài viết dưới đây của chúng tôi:


Những bài văn nghị luận xã hội hay nhất


14 mở bài kết bài ôn thi THPT Quốc gia môn Văn


Lý thuyết và bài tập Đọc - Hiểu môn Ngữ văn lớp 12


</div>

<!--links-->

×