Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

Phân tích chí khí anh hùng – Tổng hợp văn mẫu đặc sắc - Giáo viên Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (75.6 KB, 8 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Phân Tích,Cảm nhận về Đoạn Trích"Chí Khí Anh Hùng"</b>



____


*Xuất xứ: Kiều bị lừa vào lầu xanh lầnthứ 2, tâm trạng nàng vô cùng đau khổ và tuyệt vọng.
May sao Từ Hải độtngột xuất hiện, đã xem Kiều như tri kỉ và chuộc nàng thoát khỏi lầuxanh. Cả
2 đều là những con người thuộc tầng lớp thấp kém (một gái lầuxanh, một tướng giặc), họ đều bị
xã hội phong kiến thối nát lúc bấy giờruồng rẫy, coi thường, và họ đã đến với nhau trong 1 tình
cảm gắn bócủa đơi tri kỉ. Từ Hải đánh giá cao sự thông minh, khéo léo của Kiều vàngược lại
Kiều nhận thấy ở Từ Hải có chí khí anh hùng hiếm có trongthiên hạ, đồng thời cũng là người duy
nhất có thể giải oan cho nàng.Nhưng dù yêu thương Từ Hải, Kiều cũng không thể giữ chân bậc
anh hùng.Đã đến lúc Kiều để Từ Hải ra đi lập sự anh hùng.


I.Mở bài


Cuộcsống con người luôn bị đưa đẩy bởi những oan trái của xã hội phong kiếnthối nát. Họ bị chà
đạp, bị đẩy đến bước đường cùng nhưng cũng chính vìvậy mà những số phận đó đã gặp được
nhau. Thuý Kiều và Từ Hải cũng vậy,họ thuộc những tầng lớp thấp trong xã hội- một kĩ nữ ,một
tướng cướp-nhưng Từ Hải và Thuý Kều đã đến với nhau, đã gắn kết với nhau bởi tìnhcảm của tri
kỉ, tri âm.


Từ Hải đánh giá cao sự thông minh, khéoléo của Kiều và ngược lại Kiều nhận thấy ở Từ Hải có
chí khí anh hùnghiếm có trong thiên hạ, đồng thời cũng là người duy nhất có thể giảioan cho
nàng. Nhưng dù có yêu thương Từ Hải, Kiều cũng không thể giữchân bậc anh hùng. Đã đến lúc
Kiều để Từ Hải ra đi lập sự anh hùng.


II. Thân bài


1.Bố cục được phân thành 3 đoạn:
-Đoạn 1 (4 câu đầu): hoàn cảnh TH



-Đoạn 2 (10 câu tiếp): lời từ biệt của Thuý Kiều và TH
-Đoạn 3 (cịn lại) : hình ảnh TH ra đi


2. Phân tích
* Đoạn 1:


(Những từ ngữ tiêu biểu: trượng phu, động lòng 4 phương, động từ "thoắt")


Tácgiả sử dụng từ "trượng phu" để chỉ đây là người đàn ông có chi khí lớn.Mặc khác có thể thấy
cụm từ "động lòng 4 phương" cho thấy TH là ngườianh hùng, là người của đất trời, 4 phương
"trượng phu thoắt đã độnglòng 4 phương" : TH là bậc trượng phu anh hùng, chính vì thế dù
đanghạnh phúc bên TK nhưng TH vẫn "thoắt" nhớ đến mục đích, chí hướng củađời mình và đã
sẵn sàng "lên đường thẳng rong"


(Đoạn văn tham khảo về phân tích 4 đoạn đầu


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Đây là đoạn văn trích từ sách, chỉ tham khảo )


* Đoạn 2,3


(Tham khảo đoạn 2)


Chữ"tịng" trong đoạn trích ko chỉ có nghĩa "xuất giá tịng phu" mà nó cịnhàm ý K muốn chia sẽ
những khó khăn thử thách cùng TH, đồng lòng tiếpsức cho TH.


"Từ rằng.... nữ nhi thường tình"


TH nói rằng sao Kchưa thốt khỏi thói nữ nhi thường tình ko có ý than phiền K là gánhnặng mà
chỉ là mong K cứng rắn hơn. Chàng vừa mong K hiểu mình, đã làtri kỉ thì chia sẽ mọi điều trong
cuộc sống, vừa động viên, tin tưởng Ksẽ vượt qua bịn rịn của 1 nữ nhi thường tình để làm vợ 1


người anh hùng


"bao giờ 10 vạn tinh bình... sẽ rước nàng nghi gia"


quảlà lời bi liệt của 1 người anh hùng có chí lớn, ko bịn rịn 1 cách úđuối như khi "K chia tay
Thúc Sinh". sự nghiệp anh hùng đối với TH là ýnghĩa của sự sống. Thêm nữa, chàng nghĩ có thể
làm như vật mới đáng vớisự gửi gắm niềm tin, với sự trông cậy của TK


(TK đoạn 3)


2chữ "dứt áo" trong cụm từ "quyết lời dứt áo ra đi" thể hiện được phongcách mạnh mẽ, phi
thường của đấng trượng phu trong lúc li biệt


"giómây = đã đến kì dặm khơi": là 1 hình ảnh so sánh thật đẹp đẽ và đầy ýnghĩa. Tác giả muốn
ví TH như chim cỡi gió bay ngồi biển khơi . ko chỉthế , trong câu thơ còn diễn tả được tâm
trạng của con người khi thoảchí tung hồnh


III. Kết bài


Cảm nghĩ về đoạn trích


Tìm hiểu chung:


Cuộc đời kiều tưởng như bế tắc hoàn toàan khi lần thứ 2 rơi vào lầu xanh thì Từ Hải bỗng xuất
hiện và đưa kiều thóat khỏi cảnh ơ nhục. hai người sống hạnh phúc “trai anh hung, gái thuyền
quyên-phỉ nguyền sánh phượng đẹp duyên cưỡi rồng”. Nhưng Từ Hải không bằng lòng với cuộc
sống êm đềm bên cạnh nàng Kiều tài sắc, chàng muốn có sự nghiệp lớn nên sau nửa năm đã từ
biệt Kiều ra đi. Đọan trích (từ câu 2213-2230) bao gồm ngơn ngữ tác giả và ngơn ngữ đối thọai
cho thấy chí khí của Từ Hải.



Tìm hiểu văn bản:


So với những cuộc chia tay khác trong tác phẫm, ở cuộc chia tay này, giữa kiều và từ hải, ta
không thấy những lời dặn dò, những băn khoăn lo lắng, những bịn rịn lưu luyến vốn là tâm trạng
phổ quát của kẻ ở, người đi. Đọan trích tập trung khắc họa từ hải ở vẻ đẹp của chí khí anh hung.
Chí là mục đích cao cả, khí là nội lực mạnh mẽ của quyết tâm, nghị lực bên trong. Có lẽ vì vậy
mà dường như Từ xem việc lên đường lập nghiệp lớn là tất yếu, không nghĩ đến việc cần có một
cuộc chia tay với Thúy Kiều. Chỉ đến khi Từ đã lên ngựa, Kiều bày tỏ ước nguyện một lòng xin
đi cho vẹn chữ tong, Từ Hải mới có dịp bày tỏ suy nghĩ của m2inh.


1/ Hình ảnh Từ Hải:


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

“Nửa năm hương lửa đương nồng,…”


Từ dứt áo ra đi khi tình “trai anh hung-gái thuyền quy6en” đang vào độ mặn nồng nhất. (So sánh
với Kim Trọng, Thúc Sinh).


• Qua hành động và lời nói:


Hành động nhanh chóng, dứt khóat, mạnh mẽ, khơng chút phân vân do dự. Đang “hương lửa”
mặn nồng, vậy mà “thoắt” cái là sự giục giã của “lòng bốn phương”. Và ngay lập tức Từ ở tư thế
lên đường “thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong” và sau những lời bày tỏ suy nghĩ là
“Quyết lời dứt áo ra đi”. Thẳng rong là đi liền một mạch, chỉ một hướng, không bị chi phối bởi
điều gì, đã “quyết lời” là “dứt áo” ra đi khơng chút vướng bận.


• Lời nói: khi Kiều bày tỏ mong muốn được “xin theo” để trọn đạo vợ chồng, cùng chia sẻ với
Từ, Từ trách “tâm phúc tương tri,… sao chưa thóat khỏi nữ nhi thường tình”. Trong lời trách cịn
bao hàm sự động viên, khích lệ Kiều hãy vựot lên sự thường tình của một nhi nữ để làm vợ một
anh hung. Trong lời chàng còn là một ước hẹn chắc chắn, vẽ ra một viễn cảnh hào hung, vẻ vang,
một sự nghiệp xứng đáng với một anh hung. Nhưng tiếng gọi của sự nghiệp, hoài bão ấy không


phải chỉ là lẽ sống của Từ Hải, mà hơn nữa đó là khao khát múơn có một sự nghiệp rỡ rạng để
đón Kiều “nghi gia” trong vẻ vang.


• Qua hình ảnh khơng gian: hình ảnh khơng gian mênh mơng, khóang đạt: khơng igan của biể
rộng, trời cao, của bốn phương lồng lộng, của bể Sở sơng Ngơ tung hịanh. Khơng gian ấy nâng
tầm vóc người anh hung, chắp cánh cho những ước mơ, hòai bão phi thường. Hình ảnh “gió mây
bằng…” càng khẳng định tầm vóc Từ Hải: chàng như con chim bằng bay cao, bay xa ngồi biển
lớn được thỏa chí tung hồnh.


b. Thái độ, tình cảm của nhà thơ đối với nhân vật:


- Với Nguyễn Du, Từ Hải là “đấng trượng phu” ( chỉ duy nhất từ Hải được Ng Du gọi như thế),
là “mặt phi thường”, là cánh chim bằng vượt gió. Từ là ước mơ của Ng Du về tự do, công bằn,
công lý.


- Khắc họa chân dung Từ Hải, Ng Du dùng hình tượng ước lệ quen thuộc của văn học trung đại
khi miêu tả người anh hùng ( lòng bốn phương, thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong, gió
mây bằng…) và hình tượng vũ trụ ( đặt nhân vật trong khơng gian vũ trụ mênh mộng rộng lớn:
trời bể mênh mơng, tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường…)


suy ra: Từ Hải là nhân vật được Ng Du xây dựng theo khuynh hướng lý tưởng hóa.


Trong đời Kiều có nhiều cuộc chia tay, chia tay đột ngột với Kim Trọng khi mối tình đầu chớm
hé; chia tay Thúc Sinh trong tâm trạng cô đơn, đầy dự cảm không lành. Trong đoạn trích này tác
giả tái hiện cảnh Kiều chia tay Từ Hải để chàng ra đi thực hiện nghiệp lớn. Nhưng tại sao người
soạn sách lại đặt tên cho đoạn trích này là “Chí khí anh hùng” mà khơng phải “Từ Hải chia tay
Th Kiều”? Đó là vì đoạn trích này khơng tập trung khắc hoạ cảnh chia tay mà muốn khắc hoạ
Từ Hải ở vẻ đẹp, tầm vóc và quyết tâm đạt đến khát vọng.


I/ Vị trí đoạn trích



</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

II/ Đọc hiểu văn bản


1. Ý nghĩa nhan đề đoạn trích:


“Chí”: mục đích cao cần hướng tới.


“Khí”: nghị lực để đạt tới mục đích.


“Chí khí anh hùng” là: lí tưởng, mục đích cao và nghị lực lớn của người anh hùng.


2. Chân dung Từ Hải


a. Dáng vẻ, hành động


- “Nửa năm hương lửa đương nồng


Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.”


Sống với Kiều được nửa năm, cuộc sống đang lúc đằm thắm, nồng nàn nhất thì Từ Hải muốn ra
đi thực hiện nghiệp lớn. Tâm trí Từ Hải ln suy nghĩ về những việc lớn lao. Vì thế, việc “động
lịng bốn phương” là hợp lí. Từ “bốn phương” chỉ cơng việc và chí lớn của người nam nhi thời
xưa. “Động lòng” nhấn mạnh việc Từ Hải nung nấu những ý chí lớn lao. ý chí đó đã có sẵn trong
con người chàng, nó chỉ tạm lui đi trong thời gian sống cùng Kiều, giờ là lúc chàng thể hiện. Từ
“thoắt” diễn tả sự mau chóng trong việc thay đổi tâm trạng, dáng vẻ của Từ Hải. ở đây, Nguyễn
Du đã gọi Từ Hải là “trượng phu”. Đó là cách nói vơ cùng trân trọng với các vị anh hùng. Nó
dựng lên dáng vẻ bệ vệ, oai nghiêm, đĩnh đạc của một vị tướng võ.


- “Trông vời trời bể mênh mang



Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong.”


Câu thơ miêu tả hành động nhìn ra xa, đồng thời khắc hoạ dáng vẻ phóng khống của Từ Hải.
Nguyễn Du đã xây dựng hình ảnh Từ Hải song song, sánh ngang với hình ảnh trời đất. Nhắc đến
Từ Hải là thấy hình ảnh cao rộng của trời đất, vũ trụ. Những từ láy, từ biểu cảm chỉ độ rộng, độ
cao càng khắc hoạ rõ hơn tư thế của Từ Hải. Cái nhìn của chàng khơng phải là trơng hay nhìn
bình thường mà là “trơng vời” - cái nhìn ẩn chứa sự sáng suốt và suy nghĩ phi thường.


Từ Hải một mình ra đi thực hiện ý nguyện của mình. Việc xây dựng Từ Hải độc lập một mình
khơng làm chân dung chàng đơn độc mà càng cho thấy sự dũng mãnh của chàng. Hành động
được miêu tả đầy sự dứt khoát, nhanh nhẹn. Đã nghĩ là làm, Từ Hải không bao giờ chần chừ, do
dự, suy tính lâu. “Thoắt đã động lòng bốn phương” là “lên đường thẳng rong” ngay.


- “Quyết lời dứt áo ra đi,


Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.”


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

“quyết” và “dứt” cùng xuất hiện trong một câu thơ cho thấy sự quyết đoán của Từ.


Câu thơ cuối đoạn dựng lên hình ảnh phóng khống, kì vĩ về Từ Hải. Nguyễn Du đã so sánh Từ
Hải với chim bằng để nhấn mạnh bản lĩnh phi thường của chàng. Cảnh chàng ra đi thực hiện sự
nghiệp hùng tráng như cảnh chim bằng tung bay giữa gió mây.


=> Dáng vẻ, hành động của Từ Hải đầy phóng khống, kì vĩ, dứt khốt, nhanh nhẹn và oai
nghiêm .


b. Lời nói


- Từ Hải ra đi khơng lưu luyến, bịn rịn tình cảm như thường thấy ở mọi người. Dù yêu thương
Thuý Kiều, coi nàng là “tâm phúc tương tri” song nàng quyết tâm ra đi một mình. Câu hỏi “Sao


chưa thốt khỏi nữ nhi thường tình?” khẳng định chàng là bậc nam nhi sự nghiệp và tình cảm
rạch rịi.


-Từ Hải có lí tưởng cơng danh lớn lao. Điều đó thể hiện qua lời hứa với Thuý Kiều. Những khát
vọng của chàng đều phi thường. Đó là việc phải có được “Mười vạn tinh binh,/ Tiếng chiêng dậy
đất, bóng tinh rợp trời.”. Từ đó để mọi người thấy được tài năng xuất chúng của Từ Hải: “Làm
cho rõ mặt phi thường./ Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia”. Từ “mặt phi thường” dùng rất trúng.
Nó cho thấy sự tự tin, kiêu hãnh của Từ Hải. Đây không chỉ là lời của riêng Từ Hải mà ẩn dấu
sau đó cịn có cái nhìn trân trọng, tự hào của Nguyễn Du.


-Từ Hải hẹn ước chắc nịnh. Chàng hẹn khi thành cơng sẽ cưới Th Kiều. Đó là khi nào? Chàng
khơng nói vu vơ mà hẹn ước chắc chắn: “Đành lịng chờ đó ít lâu,/ Chầy chăng là một năm vội
gì!”. Xác định rõ mục tiêu và thời gian phấn đấu, Từ Hải đã vẽ ra con đường đi cụ thể cho mình.
Do vậy, những gì chàng nói đều chắc như đinh đóng cột.


=> Từ Hải là người có lí tưởng cơng danh lớn, rạch rịi giữa sự nghiệp và tình cảm, có cách phấn
đấu cụ thể chứ khơng chung chung.


: Với chí khí anh hùng, hoài bão lớn lao và niềm tin chắc chắn như vậy, Từ Hải đem đến cho
cuộc đời Kiều không phải cái rung động chớm hé của buổi yêu đầu, khơng phải cuộc sống bình
thường mà thức dậy ở Kiều những điều người khác khơng có được: đó là khát vọng về cơng
bằng, chính nghĩa.


c. Nghệ thuật xây dựng nhân vật Từ Hải


-Từ Hải được miêu tả bằng những từ ngữ trang trọng: “trượng phu”, “mặt phi thường. Bên cạnh
đó là những hình ảnh ước lệ mang tính vũ trụ: “động lịng bốn phương”, “Tiếng chiêng dậy đất,
bóng tinh rợp trời”, “Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi”. Những từ ngữ, hình ảnh này nhằm nhấn
mạnh chân dung tiêu biểu của một vị anh hùng đồng thời thể hiện cái nhìn trân trọng của Nguyễn
Du với Từ Hải.



</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

3. Thái độ và ước mơ của N.Du qua Từ Hải


Có giai thoại như sau: vua Tự Đức khi đọc đến đoạn Nguyễn Du viết về Từ Hải đã đòi phạt tác
giả 300 roi. Tại sao lại vậy? Vì theo giai cấp phong kiến, Từ Hải chỉ là một tên giặc cỏ (VD: Cao
Bá Quát, Nguyễn Huệ). Trong “Kim Vân Kiều truyện”, Từ Hải cũng được miêu tả là một tên có
nét tướng cướp. Nhưng khi bước vào “Truyện Kiều”, con người dám chống lại triều đình ấy
được miêu tả như một anh hùng. Nguyễn Du đã dùng những hình ảnh đẹp nhất để miêu tả Từ.
Từ Hải là bóng dáng của những người anh hùng nông dân khởi nghĩa với bao phen thay đổi sơn
hà.


-Thái độ của tác giả với Từ Hải: yêu quý, cảm phục. Nguyễn Du đã dồn nén giấc mơ về tự do và
công lí của mình trong con người Từ Hải.


-Quan điểm về người anh hùng của tác giả: người anh hùng phải làm được những việc lớn lao,
dám nghĩ dám làm, có dáng vẻ phóng khống, dứt khốt, oai nghiêm.


III/ Tổng kết


- Từ Hải là một vị anh hùng đầy phóng khống, dứt khốt, nhanh nhẹn và oai nghiêm, có lí
tưởng cơng danh lớn, rạch rịi giữa sự nghiệp và tình cảm.


- Nguyễn Du đã sử dụng cách miêu tả lí tưởng hố để nâng cao tầm vóc của Từ Hải.


- Từ Hải là hiện thân cho giấc mơ tự do, cơng lí của Nguyễn Du.


Tính cách anh hùng của Từ Hải


Con người này như một thứ sức mạnh của thiên nhiên , vẫy vùng giữa trời
cao đất rộng, khơng có sức gì kiềm giữ được, kể cả sức mạnh của tình yêu. Đang


sống trong cảnh nồng nàn hương lửa chợt động lòng bốn phương thế là một mình
dứt áo ra đi, Kiều xin theo khơng được. Bởi


vì con người này khơng phải là người của một nhà, một họ, một xóm, một làng mà
là người của trời đất, của bốn phương.


Bao nhiêu oan khuất đã chồng chất lên cuộc đời Kiều, tiếng


kêu trời đã bao lần vút lên vơ ích. Bọn gian ác cứ lộng hành, bao nhiêu dơ dáy
cứ bày ra trước mắt Chưa biết làm thế


nào để thoát khỏi cảnh đời tù túng thối tha. Yêu cầu của câu chuyện, yêu cầu
của người đọc chuyện cũng như của mọi người trong xã hội đương thời là phải có
một cách gì đấy đẻ giải thốt.


Hình ảnh Từ Hải đã đáp ứng đúng sự khao khát ấy của người
ta. Nó có giá trị như một giấc mơ tuyệt đẹp.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Cái khổ của Kiều và của mọi người trong khuôn khổ chật chội của xã hội đương
thời là tưởng chừng như cựa về bên nào cũng vấp, luôn luôn bị dồn ép, xơ đẩy,
khơng sao làm chủ được mình. TỪ Hải trái laik, thong dong đi lại đó đây, như
mây baym, như gió lượn, tưởng chừng như khơng bị vướng vì một thứ vật cản nào:


Giang hồ quen thói
vẫy vùng


Gươm đàn nửa gánh non
sơng một chèo..


...



Kiều luôn nơm nớp, không dám tin


ở mình, khơng dám tin ở tương lai. Từ Hải trái lại, tự tin vô cùng. Ngay trong
cảnh trần ai, Từ Hải đã ngang nhiên xem mình là anh hùng, tất cả sự nghiệp sau
này như đã nắm chắc trong tay. Mà quả nhiên Từ Hải cứ muốn là được. Thúc Sinh
muốn đưa Kiều ra khỏi lầu xanh còn phải qua bao nhiêu chật vật. Từ Hải chỉ nói
một tiếng là xong. Từ Hải hứa với kiều cùng hưởng cảnh mn chung nghìn tứ, thé


là có mn chung nghìn tứ. Từ Hải muốn 10 vạn tinh binh là có 10 vạn tinh binh. Từ Hải hứa
báo ân báo


oán là báo ân báo oán.


Con người này như một thứ sức mạnh của thiên nhiên , vẫy vùng giữa trời
cao đất rộng, khơng có sức gì kiềm giữ được, kể cả sức mạnh của tình yêu. Đang
sống trong cảnh nồng nàn hương lửa chợt động lịng bốn phương thế là một mình
dứt áo ra đi, Kiều xin theo khơng được. Bởi


vì con người này không phải là người của một nhà, một họ, một xóm, một làng mà
là người của trời đất, của bốn phương.


...


NHưng Từ Hải không phải chỉ thẻ


hiện giấc mơ tung hoành. Cái khao khát của những lớp người bị áp bức trong thời
phong kiến khơng phải chỉ là khao khát tung hồnh, khao khát tự do tuyệt đối.
Một cái khao khát cũng rất khẩn thiết, có khi lại khẩn thiết hơn nữa là khao



khát CÔNG LÝ. NGười bị oan phải được giải oan. Những người có tội phải đền tội.
bao nhiêu dơ dáy phải được quét đi...


Với Thanh Tâm Tài nhân, Từ Hải


tuy anh hùng nhưng vẫn là một nhân vật Tiểu thuyết. Với Nguyễn DU, Từ Hải đã
trở nên một nhân vật anh hùng ca. Nguyễn Du đã bỏ hết những chi tiết có thể


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

thi không đỗ, bỏ ra đi buôn. Với Nguyễn Du chúng ta không cần biết TH tung tích
như thế nào:


Lần thâu gió mát trăng thanh


Bỗng đâu có khách biên đình sang chơi


Ta chỉ biết TH là một người ở đâu


xa ngoài kia một hôm đi tới. Từ Hải vụt đến trong đời Kiều như một vì
sao lạ chiếu sáng cả một đoạn đời, ngồi ra ta khơng biết gì hơn về lai
lịch của con người phi thường ấy.


Trái lại cũng có khi Nguyễn Du


thêm vào một hai chi tiết, những chi tiết nó biến một con người thường thành


phi thường. Thanh Tâm Tài Nhân nói Từ Hải ra đi mà khơng nói đi như thế nào. Nguyễn Du nói
rõ:


Trơng vời trời bể mênh mang



Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong


Qua câu thơ, hình ảnh của con người, thanh
gươm, yên ngựa tưởng như che đầy cả trời đất.


...HÌnh ảnh của Từ Hải, Nguyễn


</div>

<!--links-->

×