Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ TỪ THỰC TIỄN TẠI CAO BĂNG (Luận văn thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (427.59 KB, 79 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ DẠ THẢO

TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ
TỪ THỰC TIỄN TẠI CAO BĂNG

Ngành: Luật hiến pháp và Luật hành chính
Mã số: 8.38.01.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. LÊ VĂN LONG

Hà Nội -2020


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những nội dung nghiên cứu trình bày trong luận văn
thạc sĩ chuyên ngành Luật hiến pháp và Luật hành chính với đề tài “Tổ chức
và hoạt động trợ giúp pháp lý từ thực tiễn tại Cao Bằng” là cơng trình nghiên
cứu của cá nhân tôi, dưới sự hướng dẫn của PGS. TS. Lê Văn Long. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn chưa từng được cơng bố trong bất cứ cơng trình nào.
Cao Bằng, ngày .... tháng 8 năm 2020
TÁC GIẢ LUẬN VĂN


Nguyễn Thị Dạ Thảo


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1.NHỮNG VẦN ĐỀ LÝ LUẬN, PHÁP LÝ VỀ TRỢ GIÚP PHÁP
LÝ ..................................................................................................................... 8
1.1.Khái niệm về trợ giúp pháp lý ..................................................................... 8
1.2. Đặc điểm trợ giúp pháp lý ........................................................................ 13
1.3. Chủ thể trợ giúp pháp lý ........................... Error! Bookmark not defined.
1.4. Nội dung và phương thức trợ giúp pháp lý ............. Error! Bookmark not
defined.
1.5. Cơ sở pháp lý về tổ chức, hoạt động trợ giúp pháp lý ...Error! Bookmark
not defined.
1.6. Các đảm bảo đối với hoạt động trợ giúp pháp lý ..................................... 21
Tiểu kết chương 1............................................................................................ 24
Chương 2.THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP
PHÁP LÝ Ở TỈNH CAO BẰNG.................................................................. 25
2.1. Ảnh hưởng của điều kiện kinh tế, xã hội, dân cư, văn hóa bản địa và nhu
cầu trợ giúp pháp lý ở tỉnh Cao Bằng ............................................................. 25
2.2. Thực tiễn tổ chức, hoạt động trợ giúp pháp lý ở tỉnh Cao Bằng .............. 29
2.3. Kết quả thực tiễn hoạt động trợ giúp pháp lý tại tỉnh Cao Bằng ............. 32
2.4. Đánh giá thực trạng tổ chức, hoạt động trợ giúp pháp lý ở tỉnh Cao
Bằng................................................................................................................. 45
Tiểu kết chương 2............................................................................................ 53
Chương 3.QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
TRỢ GIÚP PHÁP LÝ Ở TỈNH CAO BẰNG ............................................. 55
3.1. Quan điểm về tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý .............................. 55
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý ....... 57
Tiểu kết chương 3............................................................................................ 63

KẾT LUẬN .................................................................................................... 64
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 66


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
HĐPHLN

Hội đồng phối hợp liên ngành

UBND

Ủy ban nhân dân

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Hình 2.1

Tỷ lệ người được trợ giúp pháp lý tại Cao Bằng năm 2019…

Bảng 2.2

Số vụ việc phân theo tổ chức trợ giúp pháp lý thực hiện tại
Cao Bằng từ năm 2015 – 2019 ……………….…….………

Bảng 2.3


44

Các hoạt động trợ giúp pháp lý từ năm 2015 – 2019 tại
Cao Bằng …………………………………………………..

Bảng 2.4

35

46

Số vụ việc phân theo người thực hiện trợ giúp pháp lý tại
Cao Bằng từ năm 2015 – 2019……………………………..

47


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong tổng thể các chính sách an sinh xã hội của Đảng và Nhà nước ta
thì trợ giúp pháp lý là một trong những chính sách có ý nghĩa nhân văn sâu sắc.
Hoạt động trợ giúp pháp lý không những thể hiện truyền thống đạo lý của dân
tộc, trách nhiệm của nhà nước và xã hội đối với những đối tượng yếu thế mà
cịn là một biện pháp hữu hiệu góp phần xóa đói giảm nghèo về pháp luật, giúp
người dân an tâm lao động, cơng tác, ổn định kinh tế.
Việc hình thành và phát triển của pháp luật về trợ giúp pháp lý gắn liền
với quá trình nghiên cứu, tổng kết, vận dụng các chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước ta về xây dựng, hoàn thiện và phát triển pháp luật nói chung
và mức độ đáp ứng của các dịch vụ pháp lý nói riêng. Mặc dù ra đời muộn so

với lịch sử lập pháp Việt Nam nhưng cho đến nay, công tác trợ giúp pháp lý đã
đạt được nhiều kết quả, khẳng định được vị trí và vai trị của mình trong giúp
đỡ về mặt pháp luật cho đơng đảo người nghèo, người có cơng với cách mạng,
đồng bào dân tộc thiểu số và các đối tượng khác, góp phần phát huy vai trò của
pháp luật trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân, ổn định
chính trị, trật tự, an tồn xã hội.
Sinh ra và lớn lên tại mảnh đất Cao Bằng, nơi tập trung nhiều dân tộc
thiểu số khác nhau, phần lớn người dân có đời sống cịn nhiều khó khăn vất vả,
hiểu biết pháp luật cịn hạn chế, tồn tại tình trạng bất bình đẳng khi tham gia
vào các quan hệ pháp luật, nhu cầu về trợ giúp pháp lý là rất lớn trong khi hoạt
động trợ giúp pháp lý trên địa bàn tỉnh trong thời gian qua tuy đã đạt được nhiều
thành tích đáng kể nhưng cịn bộc lộ những khó khăn, bất cập nhất định, chưa
đáp ứng được kỳ vọng của xã hội. Các hạn chế, bất cập có thể kể đến như phạm
vi, nội dung hoạt động trợ giúp pháp lý cịn chưa được quy định cụ thể, trình tự,
thủ tục trợ giúp pháp lý còn rườm rà, chưa tinh gọn, chưa đi sâu vào hiệu quả mà
còn mang nặng tính hình thức; khả năng tiếp cận với hoạt động trợ giúp pháp lý
1


của người dân còn chưa dễ dàng, nhận thức của người dân về hoạt động trợ giúp
pháp lý còn chưa cao, nhiều cơ quan nhà nước, cũng như người dân còn coi nhẹ
hoạt động này. Hơn nữa, từ năm 2010 các nguồn hỗ trợ từ các Dự án bị cắt giảm
nên tại các địa phương, hoạt động trợ giúp pháp lý gặp rất nhiều khó khăn, nhất
là đối với các hình thức trợ giúp pháp lý lưu động, tập huấn truyền thông, sinh
hoạt Câu lạc bộ trợ giúp pháp lý,… Để nâng cao hiệu quả tổ chức, hoạt động
trợ giúp pháp lý và nhận thức cho người dân tại địa phương trong thời gian tới
thì rất cần có một cơng trình nghiên cứu mang tính tổng thể, đầy đủ về tổ chức
và hoạt động của trợ giúp pháp lý trên địa bàn tỉnh Cao Bằng. Do đó, tác giả đã
chọn vấn đề “Tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý từ thực tiễn tại Cao
Bằng” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học.

2. Tình hình nghiên cứu
Ở Việt Nam, để đáp ứng sự phát triển về kinh tế - xã hội trong tình hình
mới, vấn đề trợ giúp pháp lý đã được nghiên cứu tại nhiều đề tài tiến sĩ, thạc sĩ,
đề tài cấp bộ và các bài báo, tạp chí, chuyên đề nghiên cứu làm sáng tỏ các vấn đề
lý luận và thực tiễn liên quan đến trợ giúp pháp lý miễn phí cho người nghèo,
người có công với cách mạng và các đối tượng "yếu thế" khác trong xã hội như:
* Nhóm các cơng trình nghiên cứu là các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ:
- Luận án tiến sĩ của tác giả Tạ Thị Minh Lý về "Điều chỉnh pháp luật về
trợ giúp pháp lý ở Việt Nam trong điều kiện đổi mới" (năm 2008), đã tập trung
nghiên cứu, làm rõ một số vấn đề về cơ sở lý luận, pháp lý và thực trạng điều
chỉnh pháp luật về trợ giúp pháp lý tại Việt Nam. Sự đòi hỏi điều chỉnh phù
hợp của pháp luật để phù hợp với điều kiện của từng thời kỳ phát triển kinh tế
- xã hội.Từ đó đưa ra phương hướng hoàn thiện việc điều chỉnh pháp luật về
trợ giúp pháp lý theo sự phát triển của đất nước.
- Luận án tiến sĩ Luật học của tác giả Đỗ Xuân Lân về “Thực hiện pháp
luật đối với người nghèo trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam” (năm 2012) đã tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận, thực trạng thực hiện
2


pháp luật của người nghèo và đưa ra các giải pháp đảm bảo cho người nghèo
được tiếp cận pháp luật.
- Luận văn thạc sĩ của tác giả Phan Thị Thu Hà về "Bảo đảm quyền được
trợ giúp pháp lý" (năm 2013), thực hiện nghiên cứu về cơ sở lý luận và thực
tiễn về quyền được trợ giúp pháp lý của người dân.
-Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Nguyễn Thị Mộng Điệp “Tổ chức
và hoạt động của trung tâm trợ giúp pháp lý từ thực tiễn tỉnh Gia Lai” (năm
2017); Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Ngô Văn Phát “Tổ chức và hoạt
động trợ giúp pháp lý từ thực tiễn tỉnh Ninh Thuận” (năm 2017) đã lý luận,
thực tiễn tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý trên địa bàn tỉnh Gia Lai và

tỉnh Ninh Thuận từ đó đưa ra giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả
hoạt động trợ giúp pháp lý, giúp các đối tượng được trợ giúp pháp lý thụ
hưởng dịch vụ trợ giúp pháp lý.
- Luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn Việt Khoa về “Hoạt động trợ giúp
pháp lý theo pháp luật Việt Nam hiện hành” (năm 2019) luận án đã nhận diện
những vấn đề pháp lý và thực tiễn đang đặt ra đối với hoạt động trợ giúp pháp
lý ở Việt Nam hiện nay và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động
trợ giúp pháp lý theo pháp luật Việt Nam phù hợp với yêu cầu bảo đảm quyền
con người, chính sách xã hội của Đảng, Nhà nước ta và tiến trình cải cách tư
pháp ở Việt Nam hiện nay (năm 2019).
* Nhóm các cơng trình nghiên cứu là các đề tài khoa học, bài viết khoa
học trên tạp chí chuyên ngành:
- Đề tài "Mơ hình tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý, phương hướng
thực hiện trong điều kiện hiện nay" (năm 1999), do Viện Khoa học pháp lý Bộ Tư pháp chủ trì thực hiện, Chủ nhiệm đề tài: Ts. Tạ Thị Minh Lý.
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Luận cứ khoa học và thực tiễn sửa
đổi, bổ sung Luật Trợ giúp pháp lý(2015), do Viện nghiên cứu khoa học Pháp
lý (Bộ Tư pháp) và Cục Trợ giúp pháp lý (Bộ Tư Pháp) thực hiện.
3


- Một số bài báo khoa học: Nâng cao hiệu quả công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật thông qua hoạt động trợ giúp pháp lý, của tác giả Hằng Vân, Tạp
chí Dân chủ và Pháp luật (số chuyên đề tháng 1/2013); Xã hội hóa hoạt động
trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách của tác giả Lê Quang
Kiêm, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (số chuyên đề tháng 11/2010); Cần hoàn
thiện thể chế và các giải pháp để hoạt động trợ giúp pháp lý phát triển bền vững
của tác giả Nguyễn Vinh, Tạp chí dân chủ và Pháp luật (số chuyên đề tháng
11/2010); Định hướng phát triển bền vững công tác trợ giúp pháp lý đến năm
2020 của tác giả Đỗ Xuân Lân, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (số chuyên đề
tháng 3/2012)….

Như vậy có thể thấy, hiện nay đã có khá nhiều cơng trình nghiên cứu về
hoạt động trợ giúp pháp lý nói chung cũng như tổ chức và hoạt động trợ giúp
pháp lý ở một số địa bàn nhất định. Tuy nhiên, đa số các cơng trình nghiên cứu
nêu trên hầu hết nghiên cứu về hoạt động trợ giúp pháp lý theo quy định của
pháp luật thời kỳ trước mà chưa cập nhật các văn bản pháp luật mới, đồng thời
nghiên cứu thực tiễn áp dụng trên địa bàn cả nước. Điều này cho thấy, chưa có
cơng trình nào nghiên cứu một cách tổng thể, đầy đủ về lý luận về trợ giúp pháp
lý và thực tiễn hoạt động trợ giúp pháp lý trên địa bàn tỉnh Cao Bằng. Do đó,
việc trên cơ sở các thành tựu nghiên cứu trước đó của các học giả đã công bố tác
giả đã mạnh dạn chọn vấn đề "Tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý từ thực
tiễn tỉnh Cao Bằng" để nghiên cứu lý luận và thực tiễn về hoạt động trợ giúp
pháp lý trên địa bàn tỉnh Cao Bằng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về lý luận, thực tiễn tổ chức và hoạt động trợ
giúp pháp lý trên địa bàn tỉnh Cao Bằng từ đó đưa ra giải pháp nhằm nâng
cao chất lượng, hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý, giúp các đối tượng được

4


trợ giúp pháp lý thụ hưởng dịch vụ trợ giúp pháp lý thuận tiện, chất lượng
và hiệu quả hơn.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn tập trung giải quyết
các nhiệm vụ nghiên cứu sau:
Một là, nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận, cơ sở pháp lý về tổ chức
và hoạt động trợ giúp pháp lý như khái niệm, đặc điểm; ý nghĩa của trợ giúp
pháp lý; nội dung và phương thức trợ giúp pháp lý; cơ sở pháp lý về trợ giúp
pháp lý ở Việt Nam hiện nay; các đảm bảo đối với hoạt động trợ giúp pháp lý.

Hai là,thu thập, phân tích các kế hoạch, báo cáo tổng kết về công tác về
công tác trợ giúp pháp lý tại Cao Bằng và tiến hành xử lý số liệu.
Ba là, đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý ở tỉnh
Cao Bằng trong giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019 để từ đó xác định được
những hạn chế, tồn tại trong hoạt động này và chỉ rõ nguyên nhân của những
hạn chế, tồn tại đó;
Bốn là, đưa ra các giải pháp phù hợp nhằm tăng cường hiệu quả thực
hiện hoạt động trợ giúp pháp lý ở tỉnh Cao Bằng trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về thực tiễn tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý tại
Cao Bằng.

5


4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung nghiên cứu: Tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý.
Về không gian nghiên cứu: Trên địa bàn tỉnh Cao Bằng.
Về thời gian nghiên cứu: luận văn nghiên cứu thực tiễn thực hiện hoạt
động trợ giúp pháp lý trên địa bàn tỉnh Cao Bằng trong giai đoạn 5 năm từ năm
2015 đến năm 2019.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác- Lê
Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước, pháp luật; quan điểm, chủ trương,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về vấn đề bảo đảm quyền con
người, quyền công dân.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận nêu trên luận văn có sử dụng các phương pháp:

- Phương pháp duy vật biện chứng, phân tích tại Chương, chương 2 và
chương 3;
- Phương pháp thống kê, so sánh, thu thập,tổng hợp tài liệu từ tài liệu
chuyên ngành, sách, báo, tạp chí, Internet tại Chương 2 để đánh giá một cách sát
thực hơn về thực trạng tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý trên địa bàn tỉnh Cao
Bằng;
- Phương pháp phân tích, tổng hợp tại Chương 3 để đề xuất các giải pháp
phù hợp với thực tiễn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Hoạt động trợ giúp pháp lý tại tỉnh Cao Bằng có những đặc thù và góp
phần quan trọng vào việc đảm bảo quyền tiếp cận pháp lý của đối tượng được
trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật. Vì vậy, luận văn sẽ là cơng trình
nghiên cứu mang tính hệ thống về lý luận và thực tiễn những chính sách pháp
luật, các yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý tại tỉnh
6


Cao Bằng. Từ đó, kết quả của Luận văn có thể sử dụng để tham khảo nhằm đưa
ra những giải pháp thiết thực cho tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý tại tỉnh
Cao Bằng.
Luận văn hướng đến các mặt tổ chức và hoạt động của trợ giúp pháp lý
tại tỉnh Cao Bằng, đưa ra những kiến nghị, giải pháp nhằm góp phần thực hiện
có hiệu quả những chính sách về trợ giúp pháp lý trên địa bàn tỉnh Cao Bằng
trong thời gian tới. Do đó, một số ý kiến trong luận văn có thể dùng để tham
khảo, áp dụng đối với mơ hình hoạt động trợ giúp pháp lý tại các tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương có điều kiện kinh tế - xã hội, dân cư, văn hóa cũng
như thực trạng tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý tương đồng với tỉnh Cao
Bằng.Ngoài ra, luận văn cịn có thể được sử dụng để phục vụ cho công tác giảng
dạy tại các cơ sở đào tạo.
7. Cơ cấu của Luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn được chia thành 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận, pháp lý về trợ giúp pháp lý.
Chương 2: Thực trạng tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý ở tỉnhCao
Bằng.
Chương 3: Quan điểm, giải pháp về tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp
lý ở tỉnh Cao Bằng.

7


Chương 1
NHỮNG VẦN ĐỀ LÝ LUẬN, PHÁP LÝVỀ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ
1.1.Khái niệm, đặc điểm, vai trò, ý nghĩa của trợ giúp pháp lý
1.1.1. Khái niệm trợ giúp pháp lý
Hoạt động trợ giúp pháp lý xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử các nước
trên thế giới. Nó được coi là một loại hoạt động phúc lợi xã hội được khởi
nguồn từ nước Anh, nguồn gốc từ quyền có luật sư bảo vệ và quyền được xét
xử công bằng được thừa nhận đầu tiên ở Châu Âu, Vương Quốc Anh và Hoa
Kỳ. Cho đến nay, các nước trên thế giới triển khai hoạt động trợ giúp pháp lý
ở các mức độ và mơ hình khác nhau. Chế định về trợ giúp pháp lý theo đó cũng
được tiếp cận dưới nhiều góc độ như kinh tế, pháp lý và góc độ nhân đạo lấy
sự yếu thế, bần cùng hoặc bất bình đẳng của nhóm đối tượng có hồn cảnh đặc
biệt làm căn cứ cho sự ra đời, tồn tại và phát triển của mình.
Về mặt kinh tế, trợ giúp pháp lý được hiểu là trách nhiệm của nhà nước
bảo đảm nguồn tài chính chi trả cho các dịch vụ pháp lý cho một đối tượng nhất
định nhằm đảm bảo khả năng tiếp cận công lý và công bằng xã hội. Đặc điểm
này có thể được xem là một trong những căn cứ để phân định hoạt động trợ
giúp pháp lý với hoạt động thiện nguyện tuy cũng thực hiện cung cấp dịch vụ
pháp lý miễn phí và có chung mục đích góp phần bảo đảm quyền tiếp cận cơng

lý nhưng đối tượng tiếp nhận dịch vụ pháp lý không bị hạn chế và được người
thực hiện dịch vụ thiện nguyện không được hưởng bất kỳ khoản thù lao nào từ
sự chi trả của nhà nước, các quỹ phúc lợi, các tổ chức xã hội [89].
Về mặt pháp lý, giữa các hệ thống pháp luật khác nhau, kỹ thuật lập pháp
khác nhau thì khái niệm “trợ giúp pháp lý” cũng được quy định khác nhau. Các
nước thuộc hệ thống thông luật định nghĩa trợ giúp pháp lý theo hướng khái
quát, thiên về việc quy định ai là đối tượng được trợ giúp pháp lý và đặc biệt
nhấn mạnh mục tiêu của trợ giúp pháp lý là bảo đảm công bằng trong tiếp cận
công lý. Như vậy, trợ giúp pháp lý thuộc về trách nhiệm của Nhà nước trong
8


việc bảo đảm nguồn tài chính chi trả cho các dịch vụ pháp lý cho một số đối
tượng nhất định, chứa đựng thuộc tính kinh tế, nhân đạo, hướng đến bảo đảm
cơng lý cho nhóm người gặp khó khăn về kinh tế khơng thể tự mình chi trả
được các chi phí cho việc tiếp cận dịch vụ pháp lý [89].
Về mặt nhân đạo thì trợ giúp pháp lý được hiểu là trách nhiệm của Nhà
nước nhằm bảo đảm quyền công dân, thể hiện tính nhân văn của Nhà nước
thơng qua chế độ miễn giảm, các dịch vụ và chi phí tố tụng với các đối tượng
yếu thế để bảo đảm quyền lợi theo quy định của pháp luật hoặc đương sự.
Ở Việt Nam, hoạt động trợ giúp pháp lý ra đời khá muộn, tư tưởng trợ
giúp những đối tượng yếu thế được xuất hiện manh nha các văn kiện mang tính
chủ trương, đường lối của đảng cụ thể tại văn bản số 485/CV-VPTW ngày
31/5/1995 của Văn phòng Trung ương Đảng có nêu: “Cần phải mở rộng loại
hình tư vấn pháp luật phổ thông, đáp ứng nhu cầu rộng rãi, đa dạng của các
tầng lớp nhân dân nhằm góp phần nâng cao ý thức pháp luật và ứng xử pháp
luật của công dân trong quan hệ đời sống hàng ngày...; cần nghiên cứu lập hệ
thống dịch vụ tư vấn pháp luật không lấy tiền để hướng dẫn nhân dân sống và
làm việc theo pháp luật”. Chỉ đạo này đã đặt dấu ấn quan trọng cho quá trình
chuyển biến sâu sắc, mạnh mẽ và toàn diện trong nhận thức và hoạt động của

đời sống pháp luật, tạo tiền đề chính trị và nhận thức cho sự ra đời và phát triển
của hoạt độngtrợ giúp pháp lý.
Thuật ngữ “trợ giúp pháp lý” được sử dụng chính thức trong Quyết định
734/TTG ngày 6/9/1997 của Thủ tướng chính phủ về việc thành lập tổ chức trợ
giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách[49]. Tuy nhiên, phải đến
khi Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006 được ban hành, thì chế định trợ giúp pháp
lý mới được đề cập một cách chính thức, rõ ràng trong một văn bản luật. Khái
niệm “Trợ giúp pháp lý” được định nghĩa cụ thể tại Điều 3 của Luật: “Trợ giúp
pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được trợ giúp pháp
lý theo quy định của Luật này, giúp người được trợ giúp pháp lý bảo vệ quyền,
9


lợi ích hợp pháp của mình, nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng và
chấp hành pháp luật; góp phần vào việc phổ biến, giáo dục pháp luật, bảo vệ
cơng lý, bảo đảm cơng bằng xã hội, phịng ngừa, hạn chế tranh chấp và vi phạm
pháp luật” [56].
Thực tiễn khoa học pháp lý Việt Nam hiện nay vẫn tồn tại nhiều cách
hiểu khác nhau về khái niệm “trợ giúp pháp lý”. Qua nghiên cứu, tác giả có thể
chỉ ra hai quan điểm khác nhau khi xác định khái niệm “trợ giúp pháp lý” như
sau:
Theo nghĩa rộng, “Trợ giúp pháp lý được hiểu là việc thực hiện các dịch
vụ pháp lý miễn phí của Nhà nước và xã hội cho người nghèo, người được
hưởng chính sách ưu đãi và một số đối tượng khác do pháp luật quy định thơng
qua hình thức như tư vấn pháp luật, đại diện, bào chữa, kiến nghị giải quyết vụ
việc và tham gia thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm bảo đảm cho mọi
cơng dân bình đẳng trong tiếp cận pháp luật, góp phần thực hiện cơng bằng xã
hội”[46].
Theo nghĩa hẹp, “Trợ giúp pháp lý được hiểu là việc thực hiện các dịch
vụ pháp lý miễn phí của các tổ chức trợ giúp pháp lý của Nhà nước cho người

nghèo và người được hưởng chính sách ưu đãi thơng qua hình thức tư vấn pháp
luật, đại diện, bào chữa, kiến nghị giải quyết các vụ việc và tham gia thực hiện
phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm bảo đảm cho mọi cơng dân bình đẳng trong
tiếp cận pháp luật, góp phần thực hiện công bằng xã hội”[46].
Các khái niệm này đều lấy đối tượng là người nghèo và đối tượngchính
sách làm cơ sở để xây dựng khái niệm “trợ giúp pháp lý”, mặc dù đã đưa ra
những nét chủ yếu của hoạt động trợ giúp pháp lý nhưng chưa khái quát, đi sâu
vào bản chất, mà chỉ nhìn nhận thơng qua hình thức biểu hiện của đối tượng
mà hoạt động trợ giúp pháp lý hướng tới. Mỗi góc độ tiếp cận trên khi xác định
khái niệm “trợ giúp pháp lý” đều có những hạt nhân hợp lý nhất định, tuỳ thuộc
vào góc nhìn, vào cách sử dụng mà phạm vi này là khác nhau. Trong phạm vi
10


nghiên cứu của đề tài về tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý từ thực tiễn tỉnh
Cao Bằng tác giả sử dụng khái niệm được quy định Điều 2 Luật Trợ giúp pháp
lý năm 2017“Trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho
người được trợ giúp pháp lý trong vụ việc trợ giúp pháp lý theo quy định của
Luật này, góp phần bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong tiếp cận
cơng lý và bình đẳng trước pháp luật”[57].
Khái niệm “trợ giúp pháp lý” được quy định trong Luật Trợ giúp pháp
lý năm 2017 đã thể hiện được những thuộc tính chung của hoạt động này trên
thế giới (đó là tính kinh tế, tính nhân đạo và tính pháp lý) và thể hiện được
những đặc tính riêng của hoạt động trợ giúp pháp lý ở Việt Nam (như là một
loại dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp, một dịch vụ pháp lý chứa đựng tính
nhân văn sâu sắc; thể hiện tính chính trị - xã hội, là một trong những phương
thức có hiệu quả để Nhà nước bảo đảm ổn định trật tự và an toàn xã hội…).
- Tổ chức trợ giúp pháp lý
Qua nghiên cứu tổ chức trợ giúp pháp lý có thể thấy trợ giúp pháp lý có
thể được chia thành 3 mơ hình phổ biến: Mơ hình Nhà nước thực hiện – hay

mơ hình luật sư cơng, nghĩa là Nhà nước thực hiện hoàn toàn và Nhà nước cũng
khơng hỗ trợ kinh phí cho các tổ chức xã hội tham gia trợ giúp pháp lý (như
Philippine, Argentina…); Mơ hình Nhà nước và xã hội thực hiện, đây là mơ
hình hỗn hợp, theo đó Nhà nước thành lập, tổ chức thực hiện và có sự tham gia
của các tổ chức khác như luật sư, tổ chức xã hội (như Hà Lan, Hàn Quốc,
Singgapore…); Mơ hình luật sư tư và xã hội thực hiện, trong đó Nhà nước
khơng có hệ thống các cơ quan trợ giúp pháp lý mà chỉ thực hiện chức năng
quản lý Nhà nước về trợ giúp pháp lý, việc thực hiện các vụ việc trợ giúp pháp
lý cụ thể được giao cho các tổ chức xã hội (Indonesia, Hungary…).
Có thể thấy mơ hình hỗn hợp giúp phát huy được các ưu điểm và khắc
phục những nhược điểm của hai mơ hình cịn lại, Việt Nam nằm trong nhóm
các nước vận hành tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý theo mơ hình hỗn hợp.
11


Với những nội dung quản lý Nhà nước được quy định tại Luật Trợ giúp pháp lý
năm 2006 và Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017, các cơ quan quản lý Nhà nước đã
dần hồn thiện các thể chế, chính sách, pháp luật về trợ giúp pháp lý, điều chỉnh
tương đối toàn diện các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động trợ giúp pháp
lý. Tổ chức, bộ máy của Trung tâm trợ giúp pháp lý tiếp tục được củng cố, kiện
toàn, nhiều tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật đã đăng ký tham
gia trợ giúp pháp lý, đội ngũ người thực hiện trợ giúp pháp lý có sự phát triển cả
về số lượng và chất lượng so với giai đoạn trước, điều kiện cơ sở vật chất, kinh
phí hoạt động được đảm bảo.
- Nguyên tắc hoạt động trợ giúp pháp lý
Nguyên tắc hoạt động trợ giúp pháp lý là những quy định cơ bản, xuyên
suốt giữ vai trò chủ đạo trong suốt quá trình thực hiện trợ giúp pháp lý mà các
chủ thể thực hiện trợ giúp pháp lý phải tuân theo khi thực hiện trợ giúp pháp lý.
Nguyên tắc này được quy định cụ thể tại Điều 3 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017.
Theo đó hoạt động trợ giúp pháp lý dựa trên các nguyên tắc:

Thứ nhất, nguyên tắc tuân thủ pháp luật và quy tắc nghề nghiệp trợ giúp
pháp lý. Nguyên tắc này xuất phát từ nguyên tắc pháp chế XHCN, nguyên tắc
chủ đạo trong việc xây dựng và thực hiện pháp luật ở nước ta. Theo đó, người
thực hiện trợ giúp pháp lý phải tuân thủ pháp luật và quy tắc nghề nghiệp để có
những chuẩn mực về hành vi, phẩm chất đạo đức, tinh thần trách nhiệm, bản lĩnh
nghề nghiệp.Thực hiện trợ giúp pháp lý đúng trình tự, thủ tục, quy định của pháp
luật, chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép nhằm bảo đảm quyền và lợi
ích hợp pháp cho các đối tượng được trợ giúp pháp lý.
Thứ hai,nguyên tắc kịp thời, độc lập, trung thực, tôn trọng sự thực khách
quan. Việc thực hiện trợ giúp pháp lý phải đảm bảo tính kịp thời tránh làm ảnh
hưởng đến quyền và lợi ích của người được trợ giúp pháp lý, người thực hiện trợ
giúp pháp lý độc lập trong nghiên cứu, đánh giá và phải trung thực, tôn trọng sự
thật khách quan, không để bị tác động bởi bất kỳ yếu tố nào.
12


Thứ ba, nguyên tắc bảo vệ tốt nhất quyền, lợi ích hợp pháp của người
được trợ giúp pháp lý.Người thực hiện trợ giúp pháp lý phải thực hiện tất cả
quyền và nghĩa vụ của mình do pháp luật quy định. Vận dụng các kiến thức và
kỹ năng để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho người được trợ giúp pháp
lý và phải bồi thường hoặc hoàn trả một khoản tiền cho tổ chức thực hiện trợ
giúp pháp lý đã trả cho người bị thiệt hại do lỗi của mình gây ra khi thực hiện
trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật[57].
Thứ tư, nguyên tắc không thu tiền, lợi ích vật chất hoặc lợi ích khác từ
người được trợ giúp pháp lý. Người được trợ giúp pháp lý được cung cấp dịch
vụ pháp lý miễn phí, khơng phải trả bất kỳ một khoản lệ phí nào, đồng thời
nghiêm cấm tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý và người thực hiện trợ giúp pháp
lý nhận, đòi hỏi bất kỳ một khoản tiền, lợi ích vật chất hoặc lợi ích khác từ
người được trợ giúp pháp lý; sách nhiễu người được trợ giúp pháp lý.
1.1.2. Đặc điểm của trợ giúp pháp lý

Căn cứ khái niệm và đối tượng điều chỉnh của Luật Trợ giúp pháp lý có
thể rút ra bản chất, đặc điểm của trợ giúp pháp lý, trên cơ sở đó sẽ là cơ sở để
phân biệt hoạt động trợ giúp pháp lý với các hoạt động từ thiện hoặc các dịch
vụ pháp lý khác.
Thứ nhất, trợ giúp pháp lý hướng tới giúp đỡ về mặt pháp lý cho người
được trợ giúp pháp lý.Có thể thấy đối với mối quốc gia thì pháp luật là một
cơng cụ hữu hiệu để công dân thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Tuy
nhiên, khơng phải lúc nào và ở đâu người dân cũng biết và thực hiện đầy đủ
những quyền và nghĩa vụ đó. Đặc biệt với các đối tượng là những người nghèo,
đối tượng chính sách - người bị thiệt thòi về kinh tế, tinh thần và thể chất trong
xã hội thì trình độ hiểu biết pháp luật rất hạn chế nên việc tiếp cận, vận dụng
pháp luật để thực hiện các quyền và nghĩa vụ của họ theo đó cũng bị hạn chế.
Hoạt động trợ giúp pháp lý ra đời với sứ mệnh cao cả và nhân đạo của Nhà

13


nước nhằm mục đích giúp đỡ về mặt pháp lý cho họ để họ có cơ hội để biết,
thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình.
So với hoạt động trợ giúp pháp lý của đa số các nước trên thế giới chỉ
hướng đến người nghèo thì ở nước ta cịn có đối tượng đặc thù là người có cơng
với cách mạng vì dân tộc Việt Nam đã trải qua nhiều cuộc đấu tranh oanh liệt
để bảo vệ tổ quốc và giành độc lập cho dân tộc. Đã có nhiều người hy sinh tính
mạng, cống hiến về tài sản, sức khoẻ, tuổi thanh xuân của mình, người thân của
mình cho sự nghiệp cách mạng dân tộc, nên nhân dân ta coi họ là những người
có cơng với nước, và phải có trách nhiệm giúp đỡ họ mọi mặt, trong đó có việc
tiếp cận pháp luật được thể hiện đầy đủ trong chính sách trợ giúp pháp lý từ khi
hình thành cho đến nay. Đây chính là truyền thống “uống nước nhớ nguồn” một đạo lý truyền thống quí báu của dân tộc Việt Nam.
Thứ hai, trợ giúp pháp lý mang đặc điểm nhân đạo sâu sắc.Các hoạt động
của trợ giúp pháp lý đều hướng đến sự giúp đỡ miễn phí về pháp luật và nâng

nâng cao nhận thức về pháp luật cho họ. Khi họ vướng mắc về pháp luật thì
thơng qua các hình thức trợ giúp pháp lý chủ yếu như: Tư vấn pháp luật, tham
gia tố tụng và đại diện ngoài tố tụng, giúp người được trợ giúp pháp lý hiểu
được những kiến thức pháp luật cơ bản có liên quan đến vụ việc và ảnh hưởng
đến đời sống của họ. Từ đó, hướng dẫn người được trợ giúp pháp lý có cách
ứng xử phù hợp, bảo vệ được quyền và lợi ích của bản thân, đồng thời cũng
hiểu được nghĩa vụ của công dân khi tham gia các quan hệ pháp luật do Nhà
nước điều chỉnh.
Thứ ba, trợ giúp pháp lý là một loại hình dịch vụ cơng trong lĩnh vực Tư
pháp. Đặc điểm của loại hình này chứa đầy đủ những đặc trưng của một dịch
vụ công, thể hiện: là dịch vụ được xác định là chức năng xã hội của Nhà nước;
đối tượng được thụ hưởng dịch vụ là người dân yếu thế, không đủ điều kiện
tiếp cận với các loại dịch vụ có thu, cần sự trợ giúp từ Nhà nước; các chi phí
cho hoạt động trợ giúp pháp lý chủ yếu do ngân sách Nhà nước đảm bảo. Quy
14


trình, thủ tục của dịch vụ được quy định cụ thể trong Luật Trợ giúp pháp lý và
các văn bản hướng dẫn thi hành.
Thứ tư, đặc điểm về chủ thể thực hiện trợ giúp pháp lý.Về chủ thể thực
hiện trợ giúp pháp lý là các Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước và các tổ
chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật của các tổ chức chính trị - xã
hội, chính trị - xã hội nghề nghiệp. Như vậy, xét về chủ thể thực hiện trợ giúp
pháp lý vừa mang tính chất nhà nước, vừa mang tính chất xã hội. Theo quy
định tại Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017, tại Khoản 1, Điều 4 có nêu “Trợ giúp
pháp lý là trách nhiệm của Nhà nước”[57]. Chính vì vậy, quy định về chủ thể
thực hiện theo quy định tại Luật này khẳng định được trách nhiệm của Nhà
nước trong việc thực hiện chính sách trợ giúp pháp lý trên thực tế.
Thứ năm, đặc điểm về người thực hiện trợ giúp pháp lý.Xuất phát từ mục
đích của hoạt động trợ giúp pháp lý là giúp đỡ về mặt pháp luật cho những

người “nghèo về pháp luật” nên Nhà nước có yêu cầu chặt chẽ chủ thể thực
hiện trợ giúp pháp lý. Theo đó những người trợ giúp pháp lý phải là những
người có trình độ, về kinh nghiệm, về kiến thức pháp luật và đặc biệt là sự quản
lý của tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý. Tùy thuộc vào sự thay đổi của các
điều kiện kinh tế,xã hội, chính trị thì mỗi giai đoạn, mỗi thời điểm có thể có sự
thay đổi yêu cầu về các tiêu chuẩn của người thực hiện trợ giúp pháp lý sao cho
có thể đáp ứng yêu cầu về chất lượng trợ giúp pháp lý cho người được trợ giúp
pháp lý.
Thứ sáu, đặc điểm về lĩnh vực trợ giúp pháp lý.Hoạt động trợ giúp pháp
lý được thực hiện đối với tất cả các vụ việc có liên quan đến quyền và lợi ích
hợp pháp của người được trợ giúp pháp lý trong hầu hết các lĩnh vực pháp luật,
trừ các vụ việc có liên quan đến lĩnh vực kinh doanh, thương mại. Quy định
này cũng phản ánh bản chất của hoạt động trợ giúp pháp lý là giúp đỡ những
người có khó khăn về tài chính hoặc là người yếu thế trong quan hệ dân sự.
1.1.3. Vai trò, ý nghĩa của trợ giúp pháp lý
15


Thứ nhất, trợ giúp pháp lý góp phần hồn thiện nhà nước pháp quyền
XHCN và bảo đảm quyền con người.Một trong những đặc trưng của Nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam là Nhà nước phải có trách nhiệm bảo vệ quyền
con người, quyền cơng dân, trong đó có việc quan tâm đến người nghèo, những
đối tượng chính sách, đối tượng yếu thế khác trong xã hội bằng các chính sách
pháp luật và các biện pháp hỗ trợ. Có như vậy, mới phản ánh đúng đắn và đầy
đủ bản chất Nhà nước của Nhân dân,do Nhân dân và vì Nhân dân, mới bảo đảm
quyền con người, quyền công dân, tạo lập cơng bằng, bình đẳng trên thực tế
giữa các chủ thể.
Thứ hai, trợ giúp pháp lý góp phần trong cơng tác xóa đói giảm nghèo và
chính sách an sinh xã hội. Để mục tiêu xóa đói giảm nghèo tồn diện, bền vững
và bảo đảm các chính sách an sinh xã hội trên thực tế, đặt ra yêu cầu trợ giúp

pháp lý phải trở thành một nội dung quan trọng trong tổng thể chương trình xóa
đói giảm nghèo và an sinh xã hội. trợ giúp pháp lý có ý nghĩa giảm nghèo về mặt
pháp luật, đóng vai trị là cầu nối để người dân nhận thức và thực hiện các chính
sách ưu đãi mà Nhà nước dành cho họ hiệu quả, đồng thời giúp chính sách giảm
nghèo của Đảng và Nhà nước càng trở nên toàn diện hơn.
Thứ ba, trợ giúp pháp lý hỗ trợ thị trường dịch vụ pháp lý. Có thể thấy
số lượng luật sư ở nước ta hiện nay chưa đủ để đáp ứng nhu cầu về dịch vụ
pháp lý ngày càng tăng của cơ quan, tổ chức, cá nhân, ngay cả hoạt động của
các cơ quan tiến hành tố tụng. Một phần xuất phát từ việc số lượng luật sư hiện
nay ở các địa phương không đủ để đáp ứng, thứ hai xuất phát từ việc người dân
không đủ điều kiện về kinh tế để tiếp cận với dịch vụ pháp lý của luật sư. Xuất
phát từ yêu cầu trên, tổ chức trợ giúp pháp lý của nhà nước ra đời và phát triển
đã tạo cơ chế cần thiết để người nghèo và người có cơng với cách mạng, người
yếu thế khác trong xã hội được tiếp cận và sử dụng dịch vụ pháp lý để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
1.2. Đối tượng, nội dung, phương thức trợ giúp pháp lý
16


1.2.1.Về đối tượng được trợ giúp pháp lý
Việc xây dựng chi tiết và mở rộng đối tượng theo quy định của Luật Trợ
giúp pháp lý năm 2017 là đã đi vào đúng bản chất của hoạt động trợ giúp pháp
lý là giúp đỡ người có khó khăn về kinh tế, thể chất, tinh thần.. Về tính kế thừa
và mở rộng diện đối tượng được thể hiện như sau:
- Nhóm được kế thừa (02 diện) đó là Người có cơng với cách mạng và
Người thuộc hộ nghèo;
- Nhóm được kế thừa và mở rộng hơn (02 diện) gồm Trẻ em (được mở
rộng từ trẻ em không nơi nương tựa) và Người dân tộc thiểu số cư trú tại các
vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn (được mở rộng từ người
dân tộc thiểu số thường trú tại các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt

khó khăn);
- Nhóm được bổ sung (02 diện) mới gồm: Người bị buộc tội từ đủ 16
tuổi đến dưới 18 tuổi (đây là nhóm người mà cơ quan tiến hành tố tụng phải chỉ
định người bào chữa theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự) và Người bị
buộc tội thuộc hộ cận nghèo. Hiện nay, điều kiện có khó khăn về tài chính của
người được trợ giúp pháp lý được quy định tại Điều 2 Nghị định 144/NĐ-CP
ngày 15/12/2017 đó là “người thuộc hộ cận nghèo hoặc là người đang hưởng
trợ cấp xã hội hàng tháng theo quy định của pháp luật”.
Từ quy định về người được trợ giúp pháp lý theo Luật Trợ giúp pháp lý
năm 2017 cho thấy, các hoạt động trợ giúp pháp lý đã tập trung theo chiều sâu,
đến từng đối tượng thụ hưởng chính sách của Nhà nước. Quy định về diện đối
tượng được trợ giúp pháp lý đã thể hiện rất rõ chính sách nhân văn, sự quan tâm
của Đảng và Nhà nước đối với các đối tượng chính sách và người nghèo, người
có hồn cảnh khó khăn trong xã hội. Điều này đặt ra cho những người thực hiện
trợ giúp pháp lý phải đổi mới trong cách tư duy để tiếp nhận và thụ lý hồ sơ trợ
giúp pháp lý. Đảm bảo khơng bỏ sót u cầu trợ giúp pháp lý và nâng cao chất
lượng vụ việc trợ giúp pháp lý cho người được trợ giúp pháp lý.
17


1.2.2. Nội dung trợ giúp pháp lý
Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước thực hiện trợ giúp pháp lý cho người
được trợ giúp pháp lý đang cư trú tại địa phương, vụ việc trợ giúp pháp lý xảy
ra tại địa phương, vụ việc trợ giúp pháp lý do cơ quan có thẩm quyền về trợ
giúp pháp lý ở Trung ương yêu cầu. Nội dung trợ giúp pháp lý được Nhà nước
cung cấp dịch vụ miễn phí là các lĩnh vực pháp luật trừ lĩnh vực kinh doanh,
thương mại, bao gồm:
- Pháp luật hình sự, tố tụng hình sự và thi hành án hình sự;
- Pháp luật dân sự, tố tụng dân sự và thi hành án dân sự; - Pháp luật hơn
nhân gia đình và pháp luật về trẻ em;

- Pháp luật hành chính, khiếu nại, tố cáo và tố tụng hành chính; - Pháp
luật đất đai, nhà ở, môi trường và bảo vệ người tiêu dùng;
- Pháp luật lao động, việc làm, bảo hiểm;
- Pháp luật ưu đãi người có cơng với cách mạng và pháp luật về chính
sách ưu đãi xã hội khác;
- Các lĩnh vực pháp luật khác liên quan đến chương trình mục tiêu quốc
gia xố đói, giảm nghèo hoặc liên quan trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ cơ bản
của công dân.
1.2.3. Phương thức trợ giúp pháp lý
Phương thức trợ giúp pháp lý là phụ thuộc vào nội dung và đối tượng
của trợ giúp pháp lý cũng như nhu cầu đặt ra của đối tượng trợ giúp pháp lý
trên thực tế. Do đó luận văn không tiếp cận trên cơ sở gắn nội dung trợ giúp
pháp lý với phương thức trợ giúp pháp lý.
Qua nghiên cứu pháp luật của một số quốc gia thì có các hình thức trợ
giúp pháp lý như: tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng
trong đó việc tham gia tố tụng để trợ giúp pháp lý là hình thức chủ yếu.
- Trợ giúp pháp lý thơng qua hình thức tham gia tố tụng: Người thực hiện
trợ giúp pháp lý là những người có trình độ hiểu biết về pháp luật, được đào tạo
18


về chuyên môn nghiệp vụ tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các
đương sự. Chức danh của họ có thể là Trợ giúp viên pháp lý, Luật sư tham gia
tố tụng để bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người được trợ giúp
pháp lý khi bị bắt giữ, bị tạm giam, tạm giữ, là bị can, bị cáo hoặc bị hại, nguyên
đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan theo quy
định về trợ giúp pháp lý và quy định về pháp luật tố tụng [46].
- Trợ giúp pháp lý thơng qua hình thức tư vấn pháp luật. Đây là một
cách giải thích khơng chính thức trong đó người thực hiện trợ giúp pháp lý
tư vấn pháp luật cho người được trợ giúp pháp lý bằng việc giải thích, hướng

dẫn, đưa ra ý kiến, soạn thảo văn bản giúp các bên hòa giải, thương lượng,
thống nhất hướng giải quyết vụ việc. Về địa điểm tư vấn pháp luật có thể tư
vấn tại trụ sở và tư vấn ngoài trụ sở. Về kết quả, nếu như trước đây có thể tư
vấn trả lời bằng miệng với những vụ việc pháp lý đơn giản, nhưng tại Khoản
2, Điều 32 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 có quy định rõ “người thực hiện
trợ giúp pháp lý có trách nhiệm nghiên cứu và trả lời bằng văn bản cho người
được trợ giúp pháp lý”. Kết quả tư vấn được thể hiện dưới hình thức phiếu
thực hiện trợ giúp pháp lý hoặc văn bản tư vấn pháp luật do người thực hiện
trợ giúp pháp lý soạn thảo, ký tên và gửi cho người được trợ giúp pháp lý và
chịu trách nhiệm về nội dung tư vấn của mình [46]. Từ khi thực hiện chính
sách trợ giúp pháp lý cho đến nay, hình thức tư vấn pháp luật có thể nói là
được áp dụng cơ bản và mang lại nhiều kết quả cho hoạt động trợ giúp pháp
lý.
Qua các buổi tư vấn tại cơ sở một phần giúp cho người dân biết đến tổ
chức và người thực hiện trợ giúp pháp lý, phần khác giúp họ hiểu biết về quyền
và nghĩa vụ của mình, phá bỏ sự e ngại khi tham gia trợ giúp pháp lý, kích thích
người dân chủ động, tích cực và tin tưởng vào chủ thể thực hiện trợ giúp pháp
lý, chính sách ưu việt của Nhà nước dành cho những người có hồn cảnh đặc
biệt trong xã hội.
19


- Trợ giúp pháp lý thơng qua hình thức đại diện ngoài tố tụng: Người thực
hiện đại diện ngoài tố tụng trong hoạt động trợ giúp pháp lý là trợ giúp viên pháp
lý và Luật sư sử dụng các biện pháp phù hợp với quy định của pháp luật để bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được trợ giúp pháp lý. Thông qua Quyết
định cử đại diện cho người được trợ giúp pháp lý trước cơ quan nhà nước có
thẩm quyền. Phạm vi đại diện chỉ trong yêu cầu của người được trợ giúp pháp lý
và phải tuân thủ các quy định của pháp luật, sử dụng các biện pháp phù hợp với
quy định của pháp luật để thực hiện đại diện cho đối tượng trước các cơ quan, tổ

chức, cá nhân có thẩm quyền để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho người được
trợ giúp pháp lý[51].
Trong khi thực hiện nhiệm vụ, người thực hiện trợ giúp pháp lý có quyền
và nghĩa vụ theo quy định, đó là: đề nghị cơ quan, tổ chức hữu quan cung cấp
thông tin, tài liệu, tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện công việc đại diện; chủ
động thực hiện việc trợ giúp pháp lý trong phạm vi yêu cầu trợ giúp pháp lý,
được hưởng thù lao và chi phí hợp lý theo quy định. Bên cạnh đó, phải thực
hiện một số nghĩa vụ như: bảo quản, giữ gìn tài liệu được giao, bí mật các thơng
tin từ vụ việc; Thông báo với người trợ giúp pháp lý biết những kết quả từ công
việc đại diện; bồi thường thiệt hại do lỗi của mình gây ra.
- Trợ giúp pháp lý thông qua kiến nghị về thi hành pháp luật. Hoạt động
trợ giúp pháp lý này xuất phát từ việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của chủ
thể trợ giúp pháp lý. Cụ thể trong quá trình thực hiện trợ giúp pháp lý, tổ chức
thực hiện trợ giúp pháp lý nhận thấy kết quả giải quyết vụ việc của cơ quan có
thẩm quyền chưa phù hợp với quy định của pháp luật, gây thiệt hại cho người
được trợ giúp pháp lý nên kiến nghị bằng văn bản với cơ quan nhà nước có
thẩm quyền về các vấn đề liên quan đến việc giải quyết vụ việc trợ giúp pháp
lý. Ngoài ra, khi thực hiện trợ giúp pháp lý nếu phát hiện cán bộ nhà nước cố
tình làm sai gây thiệt hại cho người được trợ giúp pháp lý thì yêu cầu cơ quan
có thẩm quyền xem xét, giải quyết lại vụ việc. Khi giải quyết vụ việc nếu phát
20


×