Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

tiểu thuyết nhất linh dưới góc nhìn văn hóa ( 1932 – 1945 )

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (868.06 KB, 89 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ HUYỀN

TIỂU THUYẾT NHẤT LINH DƯỚI GÓC NHÌN VĂN HĨA
( 1932 – 1945 )

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

HÀ NỘI, 2020


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ HUYỀN

TIỂU THUYẾT NHẤT LINH DƯỚI GÓC NHÌN VĂN HĨA
( 1932 – 1945 )

Ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 8 22 01 21

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. PHẠM THỊ THU HƯƠNG

HÀ NỘI, 2020




MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1. KHÁI LƯỢC VỀ TIẾP CẬN VĂN HÓA HỌC VÀ TIỂU
THUYẾT CỦA NHẤT LINH ( 1932 – 1945 )............................................... 9
1.1. Khái lược về tiếp cận văn hóa học ............................................................. 9
1.2. Khái lược về tiểu thuyết Nhất Linh ( 1932 -1945 ) ................................. 23
Chương 2. CÁC PHƯƠNG DIỆN BIỂU HIỆN VĂN HÓA TRONG
TIỂU THUYẾT NHẤT LINH ( 1932 – 1945 ) ........................................... 33
2.1. Không gian văn hóa trong tiểu thuyết Nhất Linh .................................... 33
2.2. Chủ thể văn hóa ........................................................................................ 45
Chương 3. PHƯƠNG THỨC BIỂU HIỆN DƯỚI GĨC NHÌN VĂN HĨA
TRONG TIỂU THUYẾT CỦA NHẤT LINH ( 1932 – 1945 ) .................. 58
3.1. Hệ thống biểu tượng ................................................................................. 58
3.2. Ngôn ngữ .................................................................................................. 66
3.3. Giọng điệu trần thuật................................................................................ 72
KẾT LUẬN .................................................................................................... 77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 80


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của tôi dưới sự hướng dẫn
của Tiến sĩ Phạm Thị Thu Hương. Đề tài do cá nhân tôi nghiên cứu; các số liệu, kết
quả nêu trong luận văn là trung thực và có nguồn trích dẫn; bố cục, phông chữ của
luận văn đúng với quy định.
Hà Nội, ngày 1 tháng 8 năm 2020
HỌC VIÊN

Nguyễn Thị Huyền



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn học là một trong những bộ phận quan trọng của văn hóa. Qua các
sáng tác văn học chúng ta có thể nhìn rõ những giá trị văn hóa trong đó. Nó là
sản phẩm mang tính đại diện cho văn hóa, có khả năng nhận thức, phản ánh,
sáng tạo chuyển tải và giữ gìn các giá trị văn hóa. Giữa văn hóa và văn học có
mối quan hệ sâu sắc, chặt chẽ. Văn hóa khơng chỉ thể hiện trên bề mặt biểu
hiện mà có khả năng chi phối tác động lớn tới văn học. Cũng chính vì lí do đó
mà mỗi sáng tác văn học đều mang đậm dấu ấn văn hóa. Nghiên cứu văn
chương từ góc nhìn văn hóa đã và đang là một hướng tiếp cận nghiên cứu
hiệu quả. Văn học trở thành một lĩnh vực thu hút nhiều nhà nghiên cứu. Xu
hướng nghiên cứu đang ngày càng khẳng định sự tác động biện chứng giữa
văn học với văn hóa là sự thống nhất hữu cơ, hợp nhất chỉnh thể trong những
nỗ lực tìm kiếm, tiếp cận những giá trị nghệ thuật chân chính.
Trong những năm gần đây xuất hiện nhiều cơng trình nghiên cứu văn
chương theo hướng này như: nghiên cứu sáng tác của Nguyễn Tuân, Vũ
Bằng, Thạch Lam, Hồ Biểu Chánh, Hoàng Phủ Ngọc Tường…Nhất Linh là
nhà văn hiện đại Việt Nam giai đoạn 1932 - 1945 đã để lại trong lòng bạn đọc
những tác phẩm mang đậm dấu ấn văn hóa. Ơng là người sáng lập Tự lực văn
đồn (một tổ chức văn học có uy tín giai đoạn 1932 – 1945), là chủ bút tờ
tuần báo Phong hóa và Ngày nay. Sự nghiệp sáng tác cuả Nhất Linh khá đồ sộ
ở nhiều thể loại như truyện ngắn, tiểu luận, phê bình, dịch thuật, hội họa.
Thành cơng hơn cả là thể loại tiểu thuyết. Trong mỗi trang viết ở thể loại tiểu
thuyết ông thể hiện sự sắc sảo ở lối tư duy theo hướng mới: sự đấu tranh đòi
quyền tự do cá nhân, đấu tranh giữa cái mới và cái cũ, đề cao khát vọng trong
tình yêu, hạnh phúc gia đình. Các nghiên cứu về Nhất Linh và tiểu thuyết của
ông cũng đã chú trọng nghiên cứu về vấn đề giới, nghiên cứu về tiểu thuyết
1



luận đề, nghiên cứu về tâm lý nhân vật. Dù sự nghiệp văn học của Nhất Linh
đã được nghiên cứu khá nhiều nhưng vẫn còn những khoảng trống để chúng
ta tiếp tục nghiên cứu. Tuy nhiên, Di sản văn học của ông vẫn luôn luôn là đối
tượng cho những hướng tiếp cận mới…Nghiên cứu “Tiểu thuyết Nhất Linh
dưới góc nhìn văn hóa” để chúng ta cảm nhận rõ hơn những tình cảm của nhà
văn về thiên nhiên và cuộc sống con người Việt Nam. Đồng thời thấy được
những đóng góp riêng của nhà văn trong lịch sử phát triển của văn học dân
tộc, cũng như thấy những giá trị văn hóa dân tộc được thể hiện trong sáng tác
của Nhất Linh ở giai đoạn này. Từ đó làm nổi bật ý nghĩa của mối quan hệ
giữa nhà văn và quá trình sáng tạo nghệ thuật.
Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi đã chọn đề tài nghiên cứu: Tiểu
thuyết Nhất Linh dưới góc nhìn văn hóa (1932 – 1945), để thấy những giá trị
văn hóa trong tiểu thuyết Nhất Linh. Đồng thời chúng tơi mong muốn góp
thêm một vài ý kiến để tiến tới có một cái nhìn tổng thể, toàn diện về sáng tác
của Nhất Linh.
2. Lịch sử nghiên cứu
Văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 đã có những đóng góp to lớn
trong q trình hiện đại hóa nền văn học nước nhà. Sự góp mặt của phong trào
Thơ mới, của tổ chức Tự lực văn đoàn… đánh dấu một giai đoạn văn học phát
triển rực rỡ và cho đến ngày hôm nay đã khẳng định được vị trí trên văn đàn.
Trở lại những năm tháng trước đổi mới, văn chương của nhóm Tự lưc văn
đồn không được mấy quan tâm. Đối với tiểu thuyết của Nhất Linh lại càng
vắng bóng. Phần lớn, nhiều ý kiến cho rẳng văn chương Nhất Linh không
được đánh giá cao…Từ sau đổi mới, từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI (1986)
đất nước ngày càng phát triển, hịa chung khơng khí của cả nước là đổi mới,
nên q trình nghiên cứu, sáng tác, dịch thuật… cũng đòi hỏi từng bước đổi
mới. Vấn đề nghiên cứu về văn chương phong phú, sôi nổi nhất trong tiến
2



trình hiện đại hóa văn học suốt thế kỷ XX. Đó là nền lý luận phê bình đặt
dưới sự lãnh đạo của Đảng nhưng tinh thần đổi mới do Đảng khởi xướng và
bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng đã tạo điều kiện cho lý luận, phê bình phát
triển mạnh mẽ theo hướng dân chủ nhân văn. Sự thay đổi quan trọng trong lý
luận, phê bình được quan tâm đúng mực. Văn chương được nhìn nhận, đánh
giá khách quan. Nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, tập trung hơn vào sáng tác
của nhóm Tự lực văn đồn. Ở đó các nhà văn đã khai thác về hiện thực cuộc
sống, về những cảnh đời, nhiều số phận của nhân vật ở làng q, đơ thị và
cũng có thể nhận ra nhiều điểm mạnh của hệ thống nhân vật ở mỗi giai cấp.
Mỗi nhân vật đều góp phần tạo nên những nét văn hóa trong tâm hồn người
Việt. Tiêu biểu kể đến các cơng trình của Phan Cự Đệ [11], ]Tú Mỡ [39], Lê
Thị Đức Hạnh [26], Vu Gia [22], Lê Thị Dục Tú [61]…
Với tác giả Nhất Linh, tiểu thuyết của ông chịu ảnh hưởng của
phương Tây. Trên Tạp chí văn học tháng 10/1986 Đỗ Đức Hiểu đã viết
“Nhất Linh thành công trong trong việc sử dụng nghệ thuật phương Tây để
xây dựng tâm hồn phương Đông” [32]. Sáng tác của ông góp phần vào sự
phát triển xã hội trong lĩnh vực hoạt động về tư tưởng và văn hóa văn nghệ.
Hình ảnh thành thị vốn vắng bóng trong văn chương Việt Nam suốt thời kỳ
trung đại. Trong mấy thập kỷ đầu của thế kỷ XX đã thấp thống hình bóng
của sinh hoạt đô thị. Nhà văn Nhất Linh đã tập trung khai thác cuộc sống nơi
thành thị. Cuộc sống mới của thành thị đã kéo theo những thay đổi trong tư
duy của nhân vật. Từ suy nghĩ cho đến hành động các nhân vật đều thể hiện
nét tân thời ở giai đoạn mới.
Một nghiên cứu khác của nhà nghiên cứu Trương Chính lại đề cao nghệ
thuật xây dựng trong tiểu thuyết của Nhất Linh, ông nhận xét: “Đoạn tuyệt là
một kiệt tác trong văn học Việt Nam hiện đại. Vì Đoạn tuyệt khơng chỉ có giá
trị xã hội mà nó cịn có giá trị tâm lí khơng ai chối cãi được. Ông Nhất Linh
3



đã dùng một cách quan sát rất tinh vi để tả những trạng thái phiền phức trong
tâm hồn riêng của nhân vật trong truyện để đi sâu vào đời riêng tư của họ.
Trước đó nhà nghiên cứu Trần Thanh Mại khen ngợi tài năng của Nhất Linh
trên báo Sông Hương (1937), “Văn tài, uyển chuyển mạnh mẽ, khơng có chỗ
nào đáng bỏ, khơng có mục nào phải thêm”. Vũ Ngọc Phan nhìn nhận “ Nhất
Linh là tiểu thuyết gia có khuynh hướng về cải cách” [54].
Nhà thơ Huy Cận vốn là một cộng tác viên thân thiết và gần gũi của Tự
lực văn đồn đã có những nhận xét chung thỏa đáng: “ Ta đã có đủ thời gian
để đánh giá sự đóng góp của Tự lực văn đồn. Có thể nói Tự lực văn đồn đã
đóng góp lớn vào văn học sử Việt Nam. Họ có hồi bão về văn hóa dân
tộc…”. [20]. Năm 1991, trong bài viết Thêm mấy ý kiến đánh giá về Tự lực
văn đoàn đăng trên tạp chí văn học số 3, Lê Thị Đức Hạnh đã tổng kết: “ Văn
của Khái Hưng và Nhất Linh trong Tự lực văn đoàn ngay thời kỳ đầu đã là
một bước nhảy vọt” [26, tr.15].
Cùng với đó, rất nhiều nghiên cứu, phê bình bàn luận đến nghiên cứu
văn chương ở mọi góc độ. Việc nghiên cứu văn chương dưới góc nhìn văn
hóa cũng khá nhiều, như Cảm quan đô thị trong sáng tác của Thạch Lam của
tác giả Trần Thị Thu Hà trường ĐH sư phạm Hà Nội, năm 2011; sáng tác
của Nguyễn Ngọc Tư dưới cái nhìn văn hóa của tác giả Hồng Thị Hà trường
ĐH sư phạm Hà Nội, năm 2011; Văn chương Vũ Bằng dưới góc nhìn văn hóa
của Đỗ Thị Ngọc Chi, Học viện khoa học xã hội, năm 2013; Văn xuôi Nguyễn
Tuân và Hồng Phủ Ngọc Tường từ góc nhìn văn hóa của Ngô Minh Hiển…
Các nghiên cứu phần nào đã đánh giá đúng mực và giúp người đọc hiểu rõ về
yếu tố văn hóa trong từng tác phẩm.
Qua các dẫn liệu trên, có thể thấy: Nhất Linh trong vai trị chủ sối của
Tự lực văn đoàn, Nhất Linh trong tư cách nhà văn, tác giả của tiểu thuyết luận
đề, tiểu thuyết tâm lý… đều đã được khảo sát, nghiên cứu và đánh giá rất thấu
4



đáo và tương đối thỏa đáng. Nhưng xem xét Nhất Linh ở góc độ một nhà văn
hóa, và phân tích tiểu thuyết Nhất Linh dưới góc nhìn văn hóa, thì có lẽ cần
thêm nhiều cơng trình sâu và rộng hơn nữa, mà luận văn của chúng tơi chỉ
đóng góp một phần rất nhỏ. Bởi vì, hơn ai hết, ơng là người ý thức rất rõ điều
này, và muốn dùng văn chương để cổ động cho văn hóa dân tộc: “Nhất Linh
vẫn thường nói văn hóa có sức mạnh thay đổi lâu bền hơn chính trị. Làm
chính trị có ích trong một thời, làm văn hóa – nếu thành cơng – sẽ cịn lại mãi
mãi” [53].
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Luận văn dựa vào các phạm trù văn hóa từ đó làm rõ mối quan hệ giữa
văn hóa - văn học ở tầm khái quát và tập trung khai thác sâu tiểu thuyết Nhất
Linh như một hiện tượng văn hóa cụ thể.
Luận văn xác lập hệ thống lý luận mối liên quan giữa văn hóa – văn
học để từ đó nhận diện sự tồn tại và nối tiếp mạch ngầm văn hóa được thể
hiện ở tiểu thuyết của Nhất Linh.
Đồng thời luận văn cũng chỉ rõ tầng sâu các giá trị văn hóa trong tiểu
thuyết của Nhất Linh và sự tồn tại chất văn hóa trong sáng tác của nhà văn.
Từ đó khẳng định nét độc đáo và đóng góp của Nhất Linh trong nền văn học
hiện đại.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Tìm hiểu khái lược về tiếp cận văn hóa học và tiểu thuyết Nhất Linh.
Tìm hiểu về các phương diện biểu hiện của văn hóa trong tiểu thuyết
Nhất Linh (1932 – 1945)
Tìm hiểu về phương thức biểu hiện dưới góc nhìn văn hóa trong tiểu
thuyết Nhất Linh (1932 -1945)

5



4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Triển khai luận văn Tiểu thuyết Nhất Linh dưới góc nhìn văn hóa (1932
– 1945),
Chúng tơi khảo sát tồn bộ tiểu thuyết của Nhất Linh giai đoạn 1932 –
1945. Trong đó tập trung vào một số tiểu thuyết sau:
- Tiểu thuyết: Nắng thu (1934)
- Tiểu thuyết: Đoạn tuyệt (1934)
- Tiểu thuyết: Lạnh lùng (1936)
- Tiểu thuyết: Đôi bạn (1937)
- Tiểu thuyết: Bướm trắng (1939)
- Tiểu thuyết viết chung của Nhất Linh và Khái Hưng: Gánh hàng hoa
(1934), Đời mưa gió (1935)
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Xuất phát từ việc nghiên cứu đề tài Tiểu thuyết Nhất Linh dưới góc
nhìn văn hóa (1932 – 1945), chúng tơi đã lựa chọn những phương pháp
nghiên cứu phù hợp để làm sáng tỏ vốn văn hóa trong tiểu thuyết của Nhất
Linh. Tiểu thuyết Nhất Linh ở giai đoạn này thể hiện rõ sự đấu tranh tư tưởng,
văn hóa, mâu thuẫn trong quan niệm nhân sinh và lối sống, đời sống đô thị
thay đổi theo hướng Âu hóa…Vậy nên chúng tơi đã sử dụng một số phương
pháp nghiên cứu cơ bản sau:
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Đây là phương pháp quan trọng.
trong đó phương pháp nghiên cứu văn học là chủ đạo, đồng thời phối hợp vận
dụng tri thức liên ngành văn hóa học, sử học, tơn giáo học, ngơn ngữ học, liên
văn bản cắt nghĩa văn học bằng truyền thống văn hóa, hoạt động văn hóa, góc
nhìn văn hóa.

6



- Phương pháp tiếp cận thi pháp học: Với phương pháp này chúng tơi
cắt nghĩa các hình thức nghệ thuật trong tiểu thuyết và mối quan hệ với nội
dung để chỉ ra những đặc trưng nghệ thuật độc đáo.
- Phương pháp tiếp cận văn hóa học: Ở phương pháp này chúng tôi tập
trung làm sáng tỏ nét mới trong tư tưởng thể hiện, để từ đó tìm ra nét mới
trong tiểu thuyết của Nhất Linh. Trên cơ sở tìm hiểu sự chi phối của của chính
trị, tơn giáo, đạo đức, thẩm mỹ… tồn tại trong khơng gian văn hóa xác định
đối với tác phẩm về mặt xây dựng nhân vật, tư tưởng, ngôn ngữ, lối sống.
- Phương pháp so sánh: Đây là phương pháp cần thiết giúp chúng tôi
đối chiếu so sánh ở nội bộ tiểu thuyết của Nhất Linh; so sánh giữa tác phẩm
của các nhà văn trong nhóm Tự lực văn đồn. Từ đó khám phá một cách hiệu
quả tiểu thuyết của Nhất Linh, làm nổi bật nét văn hóa sâu sắc trong tiểu
thuyết của Nhất Linh (1932 – 1945).
- Phương pháp xã hội học: Từ những yếu tố về mặt xã hội, những nhân
tố của đời sống… để làm sáng rõ nét văn hóa trong tiểu thuyết của Nhất Linh.
- Phương pháp phân tích…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Luận văn là cơ sở lí luận để khai thác giá trị của tiểu thuyết từ phương
diện văn hóa.
Luận văn góp phần đánh giá đầy đủ, sâu sắc về văn hóa và những cảm quan
văn hóa trong tiểu thuyết của Nhất Linh (giai đoạn 1932 – 1945). Từ đó, góp
phần khẳng định tên tuổi, vị trí của Nhất Linh trong Tự lực văn đoàn và trong nền
văn học Việt Nam hiện đại.

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn bao gồm 3
chương:

7



Chương 1: Khái lược về tiếp cận văn hóa học và tiểu thuyết của Nhất
Linh (1932 – 1945)
Chương 2: Các phương diện biểu hiện văn hóa trong tiểu thuyết của
Nhất Linh (1932 – 1945)
Chương 3: Phương thức biểu hiện dưới góc nhìn văn hóa trong tiểu
thuyết của Nhất Linh (1932 – 1945)

8


Chương 1
KHÁI LƯỢC VỀ TIẾP CẬN VĂN HÓA HỌC
VÀ TIỂU THUYẾT CỦA NHẤT LINH ( 1932 – 1945 )
1.1. Khái lược về tiếp cận văn hóa học
1.1.1. Một số khái niệm về văn hóa
Theo các nhà ngơn ngữ học, văn hóa (culture), với tư cách là một danh
từ độc lập, chỉ bắt đầu được sử dụng từ thế kỉ XVIII. Trước đó, như nhiều tác
giả đã viết, trong các câu hay các cụm từ, nó được chuyển từ nghĩa đen “gieo
trồng trên đất đai” sang nghĩa bóng “vun trồng cho trí óc” (ở phương Tây)
hay “giáo hóa bằng văn” (ở phương Đơng). Ví như từ giữa thế kỉ XIII, F.
Bacon đã nói về “ văn hóa và chăm bón trí tuệ”, hay xa hơn nữa, ở thế kỉ I
trước công nguyên, Lưu Hướng (đời Hán) quan niệm văn hóa là văn trị và
giáo hóa.
Người đầu tiên có cơng đưa từ “culture” vào trong khoa học là S.
PuFendorf- nhà nghiên cứu pháp luật người Đức. S. PuFendorf sử dụng thuật
ngữ này để chỉ tồn bộ những gì do con người tạo ra, và các sản phẩm nhân
tạo này là khác với các sự vật trong thế giới tự nhiên tựa như con người được
giáo dục khác với con người không được giáo dục [25].

Văn hóa là một phạm trù rộng, thể hiện những giá trị về vật chất cũng
như tinh thần trong đời sống xã hội của loài người. Theo như Chủ Tịch Hồ
Chí Minh “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, lồi người mới
sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học,
tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn,
ở và các phương thức sử dụng… Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức
là văn hóa” [40, tr.31].
Khái niệm về văn hóa có từ lâu đời và nội hàm của nó rất rộng. Theo
A.L. Kroeber và C.L. Kluckhohn trong cuốn Văn hóa: Cái nhìn phân tích về
9


Khái niệm và Định nghĩa có khoảng hơn 200 định nghĩa về văn hóa. Rõ ràng
chúng ta thấy số lượng về khái niệm văn hóa hết sức phong phú. Trong q
trình nghiên cứu, có rất nhiều khái niệm về văn hóa mà chúng ta có thể khai
thác và hiểu một cách thấu đáo. Tuy nhiên, với mỗi một khái niệm đều thể
hiện tính mục đích sử dụng và vận dụng khác nhau. Trong q trình nghiên
cứu chúng ta có thể sử đụng một khái niệm phù hợp nhất. Dưới đây là một số
khái niệm về văn hóa:
Theo Từ điển Tiếng Việt, Hồng Phê (chủ biên) [56] có đưa ra định
nghĩa:
1, Văn hóa là tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do
con người sáng tạo ra trong q trình lịch sử. (Kho tàng văn hóa dân tộc, Văn
hóa Phương Đơng, Nền văn hóa cổ).
2. Những hoạt động của con người nhằm thỏa mãn nhu cầu của đời
sống tinh thần. (Phát triển văn hóa, Cơng tác văn hóa).
3. Tri thức, kiến thức khoa học. (Học văn hóa, Trình độ Văn hóa).
4. Trình độ cao trong sinh hoạt xã hội, biểu hiện của văn minh: (Sống
có văn hóa, Ăn nói thiếu văn hóa)
5. Nền văn hóa của một thời kỳ xa xưa, đã được xác định trên tổng thể

những di vật tìm thấy và chúng có điểm giống nhau. (Văn hóa rìu hai vai. Văn
hóa Đơng Sơn)
Nhà nghiên cứu Trần Ngọc Thêm đã đưa ra định nghĩa trong cuốn Tìm
về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb TP Hồ Chí Minh, 1997 “ Văn hóa là một
hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và
tích lũy qua q trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người
với mơi trường tự nhiên và xã hội của mình” [69]

10


Một định nghĩa khác bao quát hơn, rộng lớn hơn “ Văn hóa là tất cả
những gì phi tự nhiên”. Đó là định nghĩa mà Đỗ Lai Thúy đã thể hiện trong
Văn hóa Việt Nam nhìn từ mẫu người văn hóa [70, tr16,17].
Theo tác giả Phan Ngọc thì cho rằng: “Văn hóa là quan hệ. Nó là mối
quan hệ giữa thế giới biểu tượng và thế giới thực tại. Quan hệ ấy biểu hiện
thành một kiểu lựa chọn riêng của một tộc người, một cá nhân so với một tộc
người khác, một cá nhân khác. Nét khác biệt giữa các kiểu lựa chọn làm cho
chúng khác nhau, tạo thành những nền văn hóa khác nhau là độ của một xã
hội hay khúc xạ [41, tr22]
Trước sự đa dạng khái niệm về văn hóa, Tổ chức khoa học giáo dục
Liên hợp quốc đã đi đến thống nhất khái niệm về văn hóa: “ Trong ý nghĩa
rộng nhất, văn hóa hơm nay có thể coi là tổng thể những nét riêng biệt tinh
thần và vật chất, trí tuệ và cảm xúc, quyết định tính cách của một xã hội hay
một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao gồm cả nghệ thuật và văn
chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống
các giá trị, những tập tục và những tín ngưỡng. Văn hóa đem lại cho con
người khả năng soi xét về bản thân. Chính văn hóa đã làm cho chúng ta trở
thành những sinh vật đặc biệt nhân bản, có lý tính, có óc phê phán và dấn
thân một cách đạo lý. Chính nhờ văn hóa mà con người tự thể hiện, tự ý thức

được bản thân, tìm tịi khơng biết mệt những giá trị văn hóa mới mẻ và sáng
tạo ra những cơng trình vượt trội lên bản thân” [70, tr18].
Cùng với sự phát triển của đất nước, yếu tố văn hóa khơng thể khơng
được quan tâm. Bởi chính văn hóa là “hồn cốt” để tạo nên một dân tộc Việt
Nam đậm đà bản sắc đân tộc. Quan tâm tới sự phát triển đất nước, thì văn hóa
là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự
phát triển kinh tế - xã hội; Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống
11


nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam; Xây dựng và phát
triển văn hóa là sự nghiệp của tồn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí
thức giữ vai trị quan trọng; Văn hóa là một mặt trận; Xây dựng và phát triển
văn hóa là một sự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng
và sự kiên trì thận trọng.
Nói tóm lại, văn hóa là sản phẩm độc đáo của q trình lịch sử, văn hóa
là một hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo, tích
lũy trong hoạt động thực tiễn qua quá trình tương tác giữa con người với tự
nhiên, xã hội và bản thân. Văn hóa là của con người, do con người sáng tạo và
vì lợi ích của con người. Văn hóa được con người giữ gìn, sử dụng để phục vụ
đời sống con người và truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Với phạm vi của
đề tài, chúng tơi lựa chọn cách hiểu văn hóa gắn liền với bản sắc văn hóa của
nhà nghiên cứu Phan Ngọc và Tổ chức Khoa học giáo dục Liên hợp quốc.
1.1.2. Bản sắc văn hóa
Khi nói tới văn hóa, chúng ta đều biết văn hóa là sản phẩm, diện mạo
của cá nhân và cộng đồng. Khoa học đã chứng minh rằng con người chưa
xuất hiện thì trái đất chỉ có thế giới tự nhiên. Khi ấy tự nhiên tồn tại “tự
nhiên”. Con người xuất hiện, thế giới tự nhiên trở nên phong phú. Trong thế
giới tự nhiên con người đã sáng tạo và chinh phục tự nhiên ở bên ngoài lẫn

cái tự nhiên ở chính mình để tạo ra văn hóa. Con người ln tìm cách làm chủ
thế giới, tác động vào tự nhiên để thiên nhiên phải phục vụ lại con người. Bên
cạnh việc cải tạo tự nhiên, biến đổi tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu của
mình, con người sáng tạo ra những cái mới, vốn không có trong tự nhiên. Như
Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc
sống, loài người phải sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức,
pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh

12


hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những
sáng tạo và phát minh đó là văn hóa” [40, tr.31].
Từ thế giới tự nhiên cho đến đời sống xã hội đã được con người làm
cho có ý nghĩa nhờ thấm nhuần tinh thần của văn hóa. Tinh thần văn hóa đó
khơng phải ngẫu nhiên mà có. Các nhà triết học cho rằng “ Khả năng đối xử
có tính người đối với thế giới và đối với những người khác, khả năng lao
động, giao tiếp với những người xung quanh, khả năng tư duy, có những tình
cảm đạo đức và những xúc cảm thẩm mỹ - tất cả những cái đó đều khơng phải
là những đặc tính của cơ thể, mà là những nét đã được hình thành trong quá
trình thực tiễn lịch sử xã hội tiêu biểu cho thực chất của con người trong cách
biểu hiện và bộc lộ cá thể của nó. Những nét ấy được hình thành nhờ con
người tham gia vào hệ thống các quan hệ xã hội, vào quá trình hoạt động lao
động, đi liền với sự tham gia của con người vào quá trình nắm vững và tái tạo
nền văn hóa xã hội” [64].
Lịch sử phát triển của lồi người gắn liền với những giá trị văn hóa. Giá
trị văn hóa được thể hiện ở bản sắc văn hóa. Với nhà nghiên cứu Dương Phú
Hiệp thì “ Bản sắc riêng của mỗi nền/ dạng/ kiểu văn hóa thường được biểu
hiện là những nét đặc thù và độc đáo thể hiện trong hiện tượng văn hóa hoặc
các sản phẩm của văn hóa, quy định bộ mặt của mỗi nền văn hóa” [33, tr.40].

Cịn Ngơ Đức Thịnh thì bản sắc văn hóa “ là một tổng thể các đặc trưng của
văn hóa được hình thành và tồn tại và phát triển suốt quá trình lịch sử của
dân tộc, các đặc trưng văn hóa ấy mang tính bền vững, trường tồn, trừu
tượng và tiềm ẩn, do vậy muốn nhận biết nó phải thơng qua vơ vàn các sắc
thái văn hóa, với tư cách là sự biểu hiện của bản sắc văn hóa ấy. Nếu bản sắc
văn hóa là cái trừu tượng, tiềm ẩn, bền vững thì các sắc thái biểu hiện của nó
tương đối cụ thể, bộc lộ và khả biến hơn” [67]. Trong quá trình giao lưu, tiếp

13


biến những giá trị văn hóa mới ln được hình thành cho phù hợp với mỗi
vùng, miền, quốc gia.
Vậy có thể nói, văn hóa là cái đánh dấu sự vượt lên những gì tự nhiên
và bản năng của con người. Đó là sản phẩm riêng của xã hội lồi người. Để có
được nó, con người phải trải qua tự nhiên và cuộc sống xã hội mới hình thành
những giá trị văn hóa. Bản sắc văn hóa là cái “ tinh túy”, cái cốt lõi của văn
hóa trong q trình phát triển của lịch sử.
1.1.3. Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học
1.1.3.1. Văn học là hiện thân của văn hóa
Thời đại nào văn học ấy, đó là nhận định hồn tồn đúng đắn. Mỗi một
thời đại cùng với nó là một giai đoạn văn học tương ứng. Văn học là bức
tranh phản chiếu về con người, đời sống xã hội. tinh thần nhân đạo, nhân văn
là mục tiêu của văn hóa.
Trong nghiên cứu phê bình những năm gần đây, chúng ta thấy nổi lên
những xu hướng tiếp cận bình diện văn hóa trong tác phẩm văn học. “ Văn
hóa” thành đối tượng chính để các nhà nghiên cứu phê bình phân tích: Nữ
quyền luận, sinh thái học, nhân học văn hóa, kí hiệu học văn hóa trong phân
tích văn học… Thông qua các tác phẩm văn học mà những yếu tố mang màu
sắc văn hóa được thể hiện rõ ràng hơn “ khi thì hiện diện trên bề mặt của hiện

thực đời sống với những phong tục, tập quán, hội hè, đình đám những nghi lễ,
có khi được thể hiện ở chiều sâu, trong sâu thẳm tâm thức văn hóa cộng
đồng” [58, tr.161].
Trong đời sống con người, văn học từ lâu đã trở thành một món ăn tinh
thần khơng thể thiếu. Dường như ở đâu có cuộc sống thì ở đó có thi ca. Niềm
vui nỗi buồn của con người đều được thể hiện đầy đủ trong văn học. Qua văn
học ta thấy những giá trị ẩn chứa trong đó. Văn học tồn tại khơng chỉ vì bản
thân nó mà chính là vì đời sống con người. Với tư cách là một hình thái ý
14


thức, một hoạt động nhận thức, văn học nâng cao khả năng của con người
trong quá trình chiếm lĩnh, đồng hóa hiện thực khách quan. Mỗi tác phẩm văn
học đều ít nhiều làm phong phú hơn sự hiểu biết của con người. Sự cảm thụ
tác phẩm giúp mỗi người tự giải phóng khỏi cái cuộc đời riêng biệt từ nhiều
xứ sở, nhiều thời đại xa xôi. Văn học giúp cho con người được vui, buồn, yêu,
ghét nhiều hơn, tạo ra những biến đổi trong tư tưởng, tình cảm con người.
Đến với văn học là đến với niềm an ủi, sự khích lệ, động viên, đến với những
ước mơ, hy vọng… Văn học khơng chỉ là nguồn tri thức mà cịn là nguồn
năng lượng tinh thần lớn lao, có ý nghĩa cổ vũ, tiếp sức cho con người trong
cuộc sống. Văn học cùng với triết học, tôn giáo, phong tục tập quán, đạo đức
…là những thành tố quan trọng để tạo nên những giá trị văn hóa. Văn học
cũng chịu sự chi phối của văn hóa “ Mơi trường văn hóa của một thời đại và
truyền thống văn hóa độc đáo của một dân tộc, đồng thời thể hiện cả nội hàm
tâm lý văn hóa độc đáo của một thời đại và một cộng đồng dân tộc” [2, tr5].
Cùng bàn về văn học và mối quan hệ của văn học với văn hóa, Đỗ Thị Minh
Thúy cũng đã viết: “ Đặt văn học trong văn hóa tức là nhấn mạnh sự tác
động tổng thể của văn hóa tới văn học, như vậy các nhân tố xã hội, kinh tế,
chính trị, văn hóa …tác động tới tồn bộ văn hóa nói chung, thơng qua văn
hóa mới tác động đến văn học, ở quan hệ đặc biệt này, văn học trở thành một

trong những tiêu điểm của văn hóa, đóng vai trị nhân tố đại diện cho văn
hóa” [68, tr239]. Văn học là tấm gương phản chiếu đời sống của con người.
Bên cạnh đó văn học lưu giữ những giá trị văn hóa tinh túy nhất của thời đại.
Từ sự tiếp nhận những giá trị văn hóa, những điều diễn ra trong cuộc sống,
mỗi nhà văn bằng tài năng, độ am hiểu của bản thân và cho ra đời những tác
phẩm văn học phản ánh chân thật về đời sống, văn hóa cộng đồng mang đậm
chất văn hóa.

15


Cùng chiều dài của lịch sử và chiều rộng của không gian địa lý, cùng với thời
gian, con người – nhà văn đã tạo nên những tác phẩm mang đậm bản sắc văn
hóa Việt Nam. Tìm hiểu về những giá trị văn hóa ấy rất nhiều độc giả đã chọn
cho mình cách tìm hiểu đơn giản, giầu chất nhân văn là tìm hiểu qua những
tác phẩm văn học. Có lẽ văn học là hiện thân của văn hóa. Thơng qua hệ
thống ngôn từ, mỗi tác phẩm đã diễn đạt đầy đủ nội hàm ý nghĩa. Chúng ta
đều biết những vần thơ bất hủ của Nguyễn Đình Chiểu “ Chở bao nhiêu đạo
thuyền không khẳm, Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”. Qua những vần thơ
ấy ta thấy rõ về truyền thống yêu nước căm thù giặc của con người Việt Nam.
Chúng ta luôn tự hào đất nước Việt Nam chúng ta có nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc. Trải dài từ Bắc vào Nam đất nước chúng ta
có những danh lam thắng cảnh mê đắm lịng người, có những vùng đất cuộc
sống của người dân lao động giản dị, ấm áp , chân chất tình người. Cũng
chính từ phẩm chất và truyền thống u nước của dân tộc Việt Nam mà đất
nước chúng ta có biết bao anh hùng, bao tấm gương được thế giới biết đến và
vinh danh như Nguyễn Trãi, Đại tướng Võ Ngun Giáp, Hồ Chí Minh…
Cịn biết bao kiệt tác văn chương đã để lại những dấu ấn sâu sắc trong lịng
độc giả. Đó là những tác phẩm Đại Cáo Bình Ngơ, Truyện Kiều… Là hiện
thân của văn hóa, văn học đã thể hiện những giá trị văn hóa thể hiện hồn cốt

của dân tộc ta. Thời kỳ đất nước có chiến tranh văn học được coi là một mặt
trân, người cầm bút như là chiến sĩ trên mặt trận ấy. Thời kỳ hịa bình, văn
học phản ánh những góc khuất của đời sống… Cho dù ở thời kỳ nào thì văn
học cũng ln thể hiện và phản ánh giá trị văn hóa.
Nói về mối quan hệ giữa văn học và văn hóa, PGS.TS Trịnh Bá Đĩnh
đã viết: Tác phẩm văn học thể hiện ba phương diện sau.
Thứ nhất: Căn bản văn học phản ánh toàn bộ đời sống cộng đồng dân
tộc, trong đó văn hóa như phần hợp thành quan trọng nhất. Chẳng hạn dễ thấy
16


nhất là trong các hoạt động văn hóa như tập tục, lễ hội, lối sống của một cộng
đồng, một thời đại nào đó.
Thứ hai: Ngơn ngữ với tư cách là chất liệu tạo nên văn bản văn học là
một trong những hiện tượng văn hóa quan trọng nhất. Chẳng hạn, lời ăn tiếng
nói dân gian hay bác học của nhân vật, cả các hình thức thể loại, các kiểu cốt
truyện.
Thứ ba: Văn bản văn học khi được công chúng tiếp nhận đã ảnh hưởng,
tác động xã hội, đến tâm lý, sở thích cá nhân và cơng đồng, đơi khi tạo nên cả
những phong trào xã hội. Hoạt động của nó cũng là một hiện tượng văn hóa.
Để hiểu tác phẩm văn học ta cần giải mã trong ngữ cảnh văn hóa, chiều sâu
của đời sống văn hóa cũng như chiều sâu tư tưởng của người nghệ sỹ [14].
1.1.3.2. Văn học thể hiện giá trị văn hóa
Mỗi chúng ta đều biết, những năm gần đây trong nghiên cứu phê bình
văn học nổi lên những xu hướng tiếp cận bình diện văn hóa trong tác phẩm
văn học. Văn hóa thành đối tượng chính để các nhà nghiên cứu, phê bình văn
học phân tích; Nữ quyền luận, sinh thái học, nhân học văn hóa, ký hiệu học
văn hóa trong phân tích văn học… Giá trị (value) là cốt lõi của văn hóa được
thể hiện trong sáng tác. Nghiên cứu những vấn đề về văn hóa ta cần tập trung
những giá trị và giá trị văn hóa. Đó chính là kết tinh giá trị từ đời sống tinh

thần. Với nhà nghiên cứu Ngô Đức Thịnh thì ơng cho rẳng: “ Giá trị là những
đánh giá mang tính chủ quan của con người về tự nhiên, xã hội và tư duy theo
những gì là cần, là tốt, là hay, là đẹp. Nói cách khác, đó chính là những cái
được con người cho là Chân, Thiện, Mỹ, giúp khẳng định và nâng cao bản
chất con người” [66, tr. 38].
Người nghệ sĩ ở bất kỳ thời đại nào cũng thuộc về một lực lượng xã
hội nhất định, cũng gắn bó với quyền lợi của giai cấp này hay giai cấp khác về
mặt tư tưởng, bao giờ cũng chịu sự chi phối của một hệ tư tưởng nào đó. Điều
17


mà người cầm bút hướng đến là những giá trị, nó gắn bó và với sự tồn tại và
phát triển của mỗi xã hội. Từ ngàn đời nay dân tộc Việt Nam thể hiện giá trị
của đất nước mình, đó là: ‘yêu nước, cần cù, anh hùng, sáng tạo, lạc quan,
thương người…”. Đó là những màu sắc khác nhau trong vơ vàn những giá trị
văn hóa của dân tộc ta. Cùng với thời gian giá trị về văn hóa của chúng ta có
một bề dầy. Để nhận thức những giá trị văn hóa mỗi chúng ta phải cảm nhận,
sàng lọc, thẩm thấu bằng cả một tâm hồn văn hóa. Tất cả những gì là chuẩn
mực, là phù hợp với phong tục, lối sống của con người Việt Nam thì được bảo
tồn, gìn giữ và nhân rộng. Đó chính là giá trị văn hóa. Bên cạnh đó, những gì
khơng là chuẩn mực, là vô nghĩa sẽ bị cộng đồng đân tộc loại bỏ. Những giá
trị mà chúng ta hướng đến sẽ góp phần quan trọng trong đời sống văn hóa tinh
thần của dân tộc. Nó giống như một “mao mạch” giúp mỗi chúng ta khơng
ngừng phấn đấu vươn lên để hồn thiện chính mình.
Nhìn lại chặng đường phát triển của văn học, ở bất kỳ giai đoạn nào của
lịch sử ta đều thấy văn học là bộ phận của văn hóa. Mỗi tác phẩm văn học ra
đời đều chịu ảnh hưởng từ mơi trường văn hóa, hồn cảnh xã hội…Những
sáng tác đó bao hàm rất nhiều những giá trị. Văn học mở ra các quy luật của
mối quan hệ giữa con người và thế giới, nhưng khác với khoa học xã hội, văn
học không nghiên cứu bản thân những quy luật đó. Văn học cũng khơng

thơng báo về các vấn đề xã hội bằng khái niệm, nó chỉ mang đến những thông
tin rất đặc trưng thông qua phản ánh nghệ thuật nhằm phát động những rung
động tình cảm trong con người, gợi cho con người suy tư, nghiền ngẫm. Với
khả năng đó, văn học trở thành một trong những hệ thống tín hiệu có khả
năng hướng dẫn trong đời sống xã hội. Như hệ thống tín hiệu, văn học khơng
thơng báo một cách đơn giản các tình huống, số phận của con người. Từ xưa
người ta đã nói văn học khơng phải phản ánh cái đang tồn tại mà phản ánh cái
– có thể , hoặc văn học khơng phẩn ánh cái hiện thực mà là phản ánh ảo ảnh
18


của hiện thực (Ch. Caudwel). Mỹ học hiện đại cho rằng tác phẩm văn học
đích thực mơ tả con người như một thực thể xã hội trong mối quan hệ với
hiện thực đời sống và cả trong mối liên hệ với triển vọng lịch sử của nhân
loại. Khát vọng vươn tới sự hoàn thiện của con người của con người chính là
giá trị cơ bản trong tác phẩm văn học. Văn học từ những tác phẩm đầu tiên
mà nhân loại gìn giữ đã thể hiện khát vọng đó, thậm chí đã thể hiện những
khát vọng về sự hoàn thiện của con người cao cả đến mức cho tới bây giờ con
người mới chỉ thực hiện được phần nào. Chính nhờ độ căng – hay sự không
tương ứng – giữa sự hoàn thiện của con người được thực hiện trong cuộc sống
hằng ngày và khát vọng đó trong tác phẩm văn học mà văn học vẫn ln có
vai trị khơng thể thiếu đối với sự phát triển của con người và xã hội. Tác
phẩm văn học vừa gắn với bản chất đặc thù nghệ thuật và mang đến cho đối
tượng thưởng thức một cảm nhận đúng hướng. Theo thời gian, tác pẩm không
phải là một phạm trù tĩnh tại. Trong quá trình giao lưu tiếp biến, bên cạnh
những yếu tố nội sinh được cấy trồng và giữ lại, có những yếu tố chưa phù
hợp sẽ được cải biến cho phù hợp.
Xuất phát từ hiện tại, soi chiếu phạm trù giá trị vào tác phẩm văn học sẽ
giúp người nghiên cứu tránh được cái nhìn thiển cận trong việc bình giá
những mơ hình phản ánh. Qua mỗi trang viết, nhà văn thể hện mọi mặt của

đời sống. Từ đó người đọc có cơ hội tiếp xúc với các giá trị văn hóa như ngơn
ngữ, phong tục, tập qn, lối sống, thói quen,… của con người trong đó. Xét
trên tổng thể, văn học bao giờ cũng có mối quan hệ hữu cơ với các lĩnh vực
khác của đời sống. Các giá trị văn hóa khơng được định hướng đúng thì sẽ
dẫn tới những hậu quả khơn lường. Có thể nói văn học như “bộ lọc” tin cậy
để thẩm định các giá trị văn hóa. Ngồi ra văn học cịn có khả năng đào thải
những giá trị “phi văn hóa”.

19


Văn hóa và văn học đều là những hiện tượng thông tin. Hoạt động phổ
quát nhất ở các sinh vật bậc cao là hoạt động thông tin. Nếu chúng ta nhất trí
rằng văn học là một loại nghệ thuật thì nó sẽ nằm trong một chuỗi sau đây, từ
phạm vi rộng đến phạm vi hẹp, cái sau lồng vào trong cái trước kiểu búp bê
Nga: Thơng tin – Văn hóa – Nghệ thuật – Văn học. Xem xét từng khâu của
của chuỗi này chúng ta thấy chúng có mối liên hệ với nhau. Đầu tiên là mối
quan hệ thông tin – văn hóa. Thơng tin là sự phản ánh hiện thực nhờ tâm lý
hoặc ý thức. Ở các sinh thể thuộc loại tiền tâm lý khơng có hoạt động thơng
tin, chỉ có những phản xạ thơ sơ có tính tâm lý hóa và tiền sinh học đối với
hiện thực. một số động vật bậc thấp có phản xạ mang tính bản năng. Thơng
tin là sự phản ánh bậc hai, tích cực (bậc một có tính năng lượng, bản năng),
khơng tồn tại khi chủ thể mang khơng có sự xử lý thơng tin. Vậy chủ thể
mang thơng tin chỉ có thể là những động vật có hoạt động tâm lý và con
người. Cấp độ thấp của thông tin là thông tin của những module sinh học, cấp
độ cao là thông tin tinh thần – xã hội, tức là văn hóa. Mọi hiện tượng văn hóa
đều là thơng tin, nhưng khơng phải mọi hiện tượng thơng tin đều là văn hóa.
Thơng tin khơng phải văn hóa là sự phản ánh thế giới nhờ thứ tâm lý phi ngơn
ngữ, vì thế chủ thể văn hóa chỉ có thể là con người. Văn hóa mang trong mình
tồn bộ các hình thức hoạt động xã hội và tinh thần của con người. Chỉ có các

hoạt động có tính bản năng (tự nhiên) ở con người mới khơng nằm trong lĩnh
vực văn hóa. Quan hệ tiếp theo là quan hệ nghệ thuật – văn học. Một trong
những thành phần của văn hóa là nghệ thuật. Bản chất của nghệ thuật là tính
thẩm mỹ, kết quả của sự tương tác hình tượng, hình tượng nghệ thuật chỉ có
thể được tạo nên từ ngơn ngữ trực tiếp hoặc tựa vào ngôn ngữ. Ngôn ngữ ở
đây được hiểu theo nghĩa rộng, tức các ký hiệu được tổ chức theo các quy tắc
ngơn ngữ - lời nói (ngơn lời). Mọi tác phẩm nghệ thuật (điêu khắc, kiến trúc,
hội họa, điện ảnh, âm nhạc, sân khấu, văn học…đều có tính chất ngôn ngữ
20


hoặc là tác phẩm của nghệ thuật ngôn ngữ. Tại sao như vậy? Vì ngơn ngữ gắn
liền với tư duy, tư duy là tư duy bằng ngơn ngữ, khơng có tư duy ngồi ngơn
ngữ. Ngơn ngữ có hình thức hiển ngơn (được nói ra) và tiềm ngơn (nghĩ
thầm). Các lý thuyết triết học – ngôn ngữ trên cơ sở thực nghiệm và nghiên
cứu lịch sử loài người đã đi đến những kết luận như vậy. Con người hình
dung, phản ánh thế giới theo những mơ hình, theo những ngun tắc của hệ
thống ngơn ngữ. Văn hóa như vậy có tính ngôn ngữ về bản chất, tất cả các
hiện tượng văn hóa (trong đó có nghệ thuật) đều có “tính ngơn ngữ|” với
những mức độ khác nhau. Chính vì thế mà trong số các nghệ thuật, ưu thế vẫn
là văn học – một thứ nghệ thuật đích thực, “thuần khiết” ngơn từ. Nói như
GS Trần Đình Sử “ ngơn từ là phương tiện giao tiếp khơng gì cạnh tranh
được”. Văn học nghệ thuật phát triển cũng chính là cơ sở văn hóa phát triển.
Macxim Gorki đã từng nói: Văn học là nhân học. Tuy nhiên văn học
còn hun đúc và tạo nên những giá trị văn hóa khác như: Văn hóa con người.
bên cạnh đó văn học cịn giúp con người hiểu được người khác và hiểu được
chính bản thân mình. Trong cuộc sống hiện đại, Thế giới đang hướng đến
cuộc cách mạng 4.0 vì vậy địi hỏi phải có một nền văn học tác động tới sự tự
ý thức hơn nữa để con người hồn thiện mình và phát triển mình. Chính văn
học đã tạo ra những cuộc hành trình có ý nghĩa quyết định tới sự hồn thiện

phát triển của mỗi cá nhân. Hay nói cách khác văn học tiềm ẩn các phương
diện văn hóa.
1.1.4. Phương pháp tiếp cận văn hóa học
Tiếp cận văn học từ góc nhìn văn hóa là phương pháp đã xuất hiện từ
lâu trên thế giới. Ngay cả ở Việt Nam, cho đến thời điểm này đã có rất nhiều
cơng trình nghiên cứu văn học trên cơ sở tìm hiểu những tác động và chi phối
của văn hóa được thể hiện trong đó. Một số nhà nghiên cứu tiêu biểu như:
Trần Đình Hượu (1999), Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại, Nxb
21


×