Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Tải Cảm nhận về hai hình tượng Sông Đà và Sông Hương trong tác phẩm "Ai đã đặt tên cho dòng sông" và "Người lái đò sông Đà" - So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.16 KB, 27 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Cảm nhận về hình tượng Sơng Đà và Sơng Hương</b>



<b>Dàn ý Cảm nhận về hình tượng Sơng Đà và Sông Hương </b>


<b>-Bài mẫu 1</b>



<b>1. Mở bài</b>


Giới thiệu tác giả Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường, hai tác phẩm và hình
tượng dịng sơng Đà và sơng Hương.


<b>2. Thân bài</b>


<i><b>a. Điểm giống nhau</b></i>


Hai con sơng đều có vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội.


Hai con sông đều mang vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình.
<i><b>b. Điểm khác nhau</b></i>


<i>• Sơng Đà</i>


- Vẻ đẹp hung bạo:


Cảnh vách đá hai bên sông dựng đứng như vách thành và ở qng sơng hẹp. Có
vách đá chẹt dịng sơng Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn
đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bên bờ này sang bên
kia. Mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời.


Cảnh ở quãng mặt ghềnh Hát Loóng: Dài hàng cây số nước xơ đá, đá xơ sóng,
sóng xơ gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng địi nợ xt
bất cứ người lái đị sơng Đà… Qng này mà khinh suất tay lái thì cũng dễ lật


ngửa bụng thuyền ra.


Cảnh ở quãng Tà Mường Vát: Trên sông bỗng có những cái hút nước giống như
cái giếng bê tơng thả xuống dịng sơng để chuẩn bị làm móng cầu. Nước ở đây thở
và kêu như cái cửa cống bị sặc... những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót
dầu sơi vào. Nhiều thuyền bè gỗ đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút nước
ấy nó lơi tụt xuống.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Khi từ tàu bay nhìn xuống: Sơng Đà “tn dài, tn dài như một áng tóc trữ tình...
đốt nương xn”. Sơng đà đổi màu theo từng mùa một cách độc đáo: mùa xuân
xanh ngọc bích, mùa thu đỏ.


Khi đi rừng lâu ngày bất ngờ gặp lại con sông: Niềm vui vô hạn của tác giả khi bất
ngờ gặp sơng Đà: “như thấy nắng giịn tan sau kì mưa dầm”, “nối lại chiêm bao
đứt quãng”, “như gặp lại cố nhân”. Sông Đà gợi cảm như một cố nhân, có vẻ đẹp
như trị chơi trẻ con tinh nghịch, có vẻ đẹp Đường thi.


Khi đi thuyền trên sơng phía hạ lưu: Cảnh thiên nhiên thi vị, mơn mởn: trôi qua
một nương ngô “nhú lá non”, con hươu thơ ngộ, “bờ sông hoang dại như một bờ
tiền sử”. Sơng Đà như một “người tình nhân chưa quen biết”.


→ Hình tượng sơng đà vừa mang nét hung bạo lại vừa trữ tình thơ mộng. Qua hình
tượng sơng Đà đã thể hiện tình cảm của Nguyễn Tuân với thiên nhiên Tây Bắc.


<i>• Sơng Hương:</i>


- Vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội:


Sơng Hương lúc ở thượng nguồn được miêu tả chi tiết qua những hình ảnh so sánh,
nhân hóa: như một bản trường ca của rừng già, như một cô gái Di – gan phóng


khống man dại, như người mẹ phù sa của một nền văn hóa xứ sở.


Trong cuộc hành trình tìm kiếm người tình mong đợi, sơng Hương dường như
muốn giấu đi vẻ hoang dại nơi rừng già của mình để thay đổi diện mạo, hoàn thiện
bản thân hơn trước khi đến gặp người yêu.


Sau khi ra khỏi vùng núi, sông Hương như nàng tiên được đánh thức, bừng lên sức
trẻ và niềm khao khát của tuổi thanh xuân, uốn mình liên tục.


Ở ngoại vi thành phố, sơng Hương mang vẻ đẹp cổ kính khi uốn mình qua những
lăng tẩm của vua chúa.


- Vẻ đẹp thơ mộng trữ tình:


Khi về gặp thành phố Huế sông Hương vui tươi hẳn lên, tiếp tục uốn mình mềm
mại.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Tác giả so sánh sơng Hương như Điệu “slow tình cảm” dành cho Huế, trăm nghìn
ánh hoa đăng bồng bềnh vào những đêm hội rằm tháng bảy.


→ Sông Hương khi chảy qua thành phố đẹp trữ tình, thơ mộng, cổ kính, gần gũi,
giản dị, sinh động, có tâm hồn và gắn bó với bản sắc văn hóa Huế.


Sơng Hương chia tay thành phố đầy luyến tiếc, vấn vương. Sực nhớ lại một điều gì
chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dịng, rẽ ngoặt sang hướng đông - tây để gặp lại thành
phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ.


→ Dù phải ra đi nhưng sông Hương luôn nhớ về thành phố của nó, vẫn giữ trọn lời
thề ân tình thủy chung với xứ này.



<b>3. Kết bài</b>


Khái quát lại giá trị nội dung, nghệ thuật hai tác phẩm.


<b>Dàn ý Cảm nhận về hình tượng Sơng Đà và Sơng Hương </b>


<b>-Bài mẫu 2</b>



<b>1. Mở bài</b>


Giới thiệu tác giả Nguyễn Tuân và Người lái đị sơng Đà


Giới thiệu tác giả Hồng Phủ Ngọc Tường và Ai đã đặt tên cho dịng sơng


Giới thiệu vấn đề nghị luận: vẻ đẹp của sông Hương, sông Đà, và về việc bảo vệ
cảnh quan thiên nhiên của quê hương, đất nước.


<b>2. Thân bài</b>


<i>a. Nét tương đồng của 2 dịng sơng</i>


Sơng Đà và sơng Hương đều được các tác giả miêu tả như một nhân vật trữ tình có
tính cách với những vẻ đẹp đặc trưng riêng biệt, thể hiện tình yêu thiên nhiên, tình
yêu quê hương, đất nước.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

vi thạch trận. Khi chảy giữa lòng Trường Sơn, sông Hương chảy dữ dội tựa 1 bản
trường ca của rừng già, tựa cơ gái Di-gan phóng khống và man dại….


Sơng Đà và sơng Hương đều có vẻ đẹp thơ mộng và trữ tình: Sơng Đà có dáng
sơng mềm mại tựa mái tóc tn dài tn dài, màu nước thay đổi qua từng mùa, vẻ
đẹp hoang sơ, cổ kính… Sơng Hương với dịng chảy dịu dàng và đắm say giữa


những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ qun rừng. Sơng Hương cịn mang vẻ
đẹp của người con gái ngủ mơ màng chờ người tình mong đợi đánh thức. Nó cịn
được ví như điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế…


Cả 2 đều được miêu tả qua ngòi bút tài hoa, uyên bác:


– Tài hoa: 2 dòng sơng đều được miêu tả trên phương diện văn hóa, thẩm mĩ:


+ Sông Đà là nơi hội tụ 2 nét tiêu biểu, đặc trưng của thiên nhiên Tây Bắc vừa
hùng vĩ, uy nghiêm, dữ dội lại vừa trữ tình, thơ mộng.


+ Sơng Hương là dịng sơng của âm nhạc, dịng sông của thơ ca, của lịch sử gắn
liền với những nét đặc sắc về văn hóa, với vẻ đẹp của người dân xứ Huế.


– Uyên bác: cả 2 tác giả đều vận dụng cái nhìn đa ngành, vận dụng kiến thức trên
nhiều lĩnh vực nghệ thuật để khắc họa hình tượng 2 dịng sơng.


<i>b. Nét độc đáo riêng trong từng hình tượng dịng sơng</i>


• Sơng Đà


Trong đoạn trích, nhà văn tập trung tô đạm nét hung bạo, dữ dội của sông Đà giống
như 1 kẻ thù hiểm độc và hung ác.


→ Thể hiện rõ nhất qua hình ảnh nước dữ, gió dữ, đá dữ đặc biệt đá bày trùng vi
thạch trận chực lấy đi mạng sống của con người. – Sơng Đà được cảm nhận ở
chính nét dữ dội, phi thường, khác lạ: tiếng thét của sông Đà như tiếng thét của
ngàn con trâu mộng, đá trên sông đà mỗi viên đều mang 1 khuôn mặt hung bạo,
hiếu chiến…



Đặc biệt, tác giả miêu tả sự hung bạo của sông Đà để làm nổi bật sự tài hoa, tài trí
của người lái đị. Lúc này đây, sơng Đà như 1 chiến địa dữ dội. Và mỗi lần vượt
thác của người lái đị là mỗi lần ơng phải chiến đấu với thần sông, thần đá…


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Sông Hương được tơ đậm ở nét đẹp trữ tình, thơ mộng, gợi cảm và nữ tính, ln
mang dáng vẻ của 1 người con gái xinh đẹp, mong manh có tình u say đắm. Khi
ở thượng nguồn, nó là cơ gái Digan phóng khống, man dại; khi ở cánh đồng Châu
Hóa, nó là cô thiếu nữ ngủ mơ màng; khi lại như người tài nữ đánh đàn giữa đem
khuya, hay là nàng Kiều tài hoa, đa tình mà lại chung tình, là người con gái dịu
dàng của đất nước.


Sông Hương được miêu tả qua chiều sâu văn hóa xứ Huế, nó như người mẹ phù sa
bồi đắp cho vùng đất giàu truyền thống văn hóa này từ bao đời nay.


Sơng Hương được cảm nhận qua lăng kính của tình u: thủy trình của sơng
Hương là thủy trình có ý thức tìm về người tình mong đợi. Khi chảy giữa Huế,
sơng Hương mềm hẳn đi như 1 tiếng ” vâng” khơng nói ra của tình u. Trước khi
đổ ra cửa biển, sơng Hương như người con gái dùng dằng chia tay người yêu, thể
hiện 1 nỗi niềm vương vấn với 1 chút lẳng lơ kín đáo.


Thơng qua hình tượng sơng Hương mang nét đẹp nữ tính, nhà văn thể hiện nét đẹp
lãng mạn, trữ tình của đất trời xứ Huế


<i>c. Trách nhiệm bản thân trong việc bảo vệ cảnh quan thiên nhiên của quê hương,</i>
<i>đất nước</i>


Học sinh có thể trình bày quan điểm cá nhân dựa trên những gợi ý sau: Thế hệ trẻ
cần có trách nhiệm bảo vệ cảnh quan đất nước qua hành động cụ thể như: u q,
bảo vệ mơi trường, quảng bá thắng cảnh…



<b>3. Kết luận</b>


Qua vẻ đẹp tương đồng của 2 dịng sơng, ta bắt gặp sự tương đồng độc đáo của 2
tâm hồn có tình u thiên nhiên tha thiết và niềm tự hào với vẻ đẹp của non sơng
đất nước Việt Nam.


Mỗi nhà văn đều có 1 phong cách nghệ thuật độc đáo trong việc thể hiện hình
tượng các dịng sơng, giúp người đọc có những cách nhìn phong phú, đa dạng về
vẻ đẹp của quê hương, đất nước mình.


<b>Văn mẫu Cảm nhận về hình tượng Sơng Đà và Sơng Hương</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

kí Sơng Đà. Cảm hứng gắng bó với mảnh đất và con người Tây Bắc đã im đậm
trong hình ảnh người lái đị nghệ sĩ và con sông Đà vừa hùng vĩ vừa nên thơ.


Câu chuyện vượt sông Đà đã được nhà văn kể lại bằng tất cả niềm phấn khởi về
sức mạnh con người chiến thắng thiên nhiên, với tất cả kịch tính, cao trào để tôn
vinh nghệ thuật chinh phục thác đá sông Đà. Con sông Đà dữ với thần sông tướng
đá bủa giăng thế trận vây lấy chiếc thuyền đơn độc được nhà văn miêu tả bằng
ngôn ngữ phong phú của tiểu thuyết chương hồi như gợi cuộc phá vây của mãnh
tướng Triệu Tử Long xông vào trận quân Tào Tháo, bên cạnh đó nhà văn có những
dịng mơ tả chân dung bằng giọng văn rất hóm hỉnh của riêng mình: “Mặt hịn đá
nào trơng cũng ngỗ ngược, hịn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước
chỗ này...”. Cuộc đối đầu giữa con người trên chiếc thuyền đơn độc với “boongke
chìm và pháo đài nổi” trong “cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa sẵn” có sức hấp
dẫn đặc biệt.


Có lẽ nhà văn đã hình dung ra khơng khí của những hội vật truyền thống khi miêu
tả các cuộc đấu sức, đấu trí và đấu sự nhanh nhẹn giữa người và đá nước. Cuộc đấu
có miếng, có mưu, cuối cùng phần chiến thắng thuộc về con người, bởi lẽ “Ơng đã


thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này”. Hình ảnh bình
thường của người lao động, vật lộn với sóng nước đã được Nguyễn Tuân nâng lên
ngang hàng danh tướng "biết mình biết ta trăm trận trăm thắng". Nhưng điều tác
giả tô đậm nét hơn ở ơng lái đị chính là chất nghệ sĩ tốt lên từ cơng việc đối mặt
với hiểm nguy đã trở thành bình thường. Ngay sau khoảnh khắc chiến thắng sức
mạnh của thác đá, sóng dữ, thì "sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ. Sơng nước lại
thanh bình".


Đây mới chính là ơng lái đị mang đậm nét Nguyễn Tuân. Con người chiến đấu với
sông Đà dữ cũng chỉ là để mưu sinh, "ngày nào cũng giành lấy cái sống từ tay
những cái thác", nên những con người này cũng u mến dịng sơng đã cho họ
những "cá anh vũ, cá dầm xanh", những hầm cá hang cá "túa ra đầy tràn ruộng".
Sơng Đà dữ thì có "diện mạo và tâm địa của kẻ thù số một", nhưng khi sơng nước
thanh bình, vẻ đẹp nên thơ gợi cảm của dịng sơng lại hiện về ngun vẹn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Đó là thời điểm cho câu chữ Nguyễn Tuân lai láng chất thơ ca ngợi vẻ đẹp của
dịng sơng, bằng cái nhìn và tình cảm của một người tự nhận sông Đà như một "cố
nhân". Không gian lắng đọng trong vẻ đẹp của "bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn
chuồn bươm bướm sông Đà". Vẻ đẹp ấy như trang nghiêm trong mạch Đường thi
cổ điển, vừa lắng đọng hoài vọng về một thuở lí Trần Lê, vừa bâng khuâng cảm
giác về sự sống nảy lộc đâm chồi: "Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên
mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh khơng một bóng người. Cỏ gianh đồi núi đang ra
những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm. Bờ
sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích
tuổi xưa".


Nhà văn đã để cho dòng cảm xúc dào dạt thốt lên thành lời đối thoại im lặng với
thiên nhiên, bờ bãi ven sông, dường như con người muốn hòa vào cùng cảnh vật,
để chiêm ngưỡng vẻ đẹp đầy sức cuốn hút của dịng sơng. Ngòi bút nhà văn đến
lúc này mới thật sự tung hoành trong sự say sưa khám phá cội nguồn, kể về lịch sử


dịng sơng gắn với cuộc sống và con người Tây Bắc, những người đã đón nhận
những tặng vật hào phóng của sơng Đà.


Cảm xúc từ thực tại của Nguyễn Tn cịn khơi nguồn cho những mơ ước mang
tính dự báo về tương lai, biến sức mạnh của dòng sơng trái tính trái nết thành
nguồn thủy điện dồi dào. Rõ ràng, thực tại cuộc sống mới đã giúp cho Nguyễn
Tn có những dự cảm chính xác, có niềm tin vững chắc vào những con người
đang xây dựng một chế độ mới, đem lại sinh khí mới cho cuộc sống ở sơng Đà.
Với Người lái đị sơng Đà này, Nguyễn Tn đã ghi dấu ấn khơng trộn lẫn của
mình ở thể loại tùy bút, bám sát hiện thực, say mê khám phá những nét ấn tượng,
những vẻ đẹp tiềm ẩn từ hiện thực. Hơn thế nữa, tác phẩm còn đánh dấu sự vững
vàng trong tư tưởng tình cảm của nhà văn, sự nhạy cảm tinh tế của một tâm hồn
nghệ sĩ yêu đất nước, yêu con người lao động, yêu và tin vào cách mạng, vào con
đường dân tộc đang hướng tới. Tấm lòng ấy, tài năng ấy của Nguyễn Tn thật
đáng trân trọng.


Ai đã đặt tên cho dịng sơng? là một bút kí đặc sắc, thể hiện phong cách tài hoa,
uyên bác, giàu chất thơ của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Bài kí đã ca ngợi dịng sơng
Hương như một biểu tượng của Huế.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

sa”; có khi biến ảo “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”; hoặc khi thì vui tươi, khi thì
như một mặt hồ yên tĩnh v.v… Tất cả được miêu tả bằng một tình cảm thiết tha với
Huế


Sức sống mãnh liệt, hoang dại, dịu dàng, đắm say, như “'một bản trường ca của
rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn”. Khi chảy qua miền địa hình hiểm trở,
sơng Hương mang vẻ đẹp dữ dội: “mãnh liệt qua ghềnh thác, cuộn xoắn như cơn
lốc xoáy vào đáy vực bí ẩn”, nhưng cũng có lúc lại “dịu dàng, đắm say giữa những
dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ qun rừng”. Giữa lịng Trường Sơn, sơng
Hương như một “cơ gái Di gan, phóng khống và man dại”, bởi rừng già đã hun


đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng. Nghệ thuật: so
sánh, tu từ, ẩn dụ và nhân hóa.


Sơng Hương khi về đến ngoại vi thành phố


Sắc đẹp dịu dàng, trí tuệ, người mẹ phù sa của một vùng văn hóa, xứ sở, dịng sơng
duy nhất chỉ đi qua thành phố Huế. Với vốn hiểu biết sâu sắc về địa lí, văn hóa,
lịch sử, tác giả miêu tả dịng sơng thật sinh động vói cảm nhận mang nhiều khác
biệt.


Sông Hương như người con gái đẹp ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy
hoa dại (hình ảnh thơ mộng gợi liên tưởng cổ tích đến nàng cơng chúa ngủ trong
rừng), Dịng sơng hiện lên với 'khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường
cong thật mềm. Lưu vực êm ả, thanh bình, vui tươi giữa những bãi bờ xanh biếc,
nhiều màu sắc trầm mặc, triết lí. Những lăng tẩm với “giấc ngủ nghìn năm của vua
chúa được phong kín trong lịng những rừng thơng u tịch và niềm kiêu hãnh âm u
của những lăng tẩm lan tỏa khắp cả một vùng thượng lưu”.


Với những quan sát tinh tế, ngơn ngữ giàu hình tượng, so sánh, ẩn dụ, sơng Hương
trong dư vang Trường Sơn, dịng sơng mềm như tấm lụa. “Những dãy đồi sừng
sững như thành quách, với những đỉnh cao đột khởi: Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu
Bảo”, những ngọn đồi đã tạo ra những mảng phản quang nhiều màu sắc trên nền
trời “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” rất lạ và đặc trưng như người Huế từng nhận
xét.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Thoảng đâu đó, mơ hồ mà vang vọng trong tâm thức Huế là tiếng chuông chùa
Thiên Mụ ngân nga, tiến gà từ xóm làng trung du bát ngát.


<b>Cảm nhận về hình tượng Sơng Đà và Sơng Hương - Bài làm</b>


<b>2</b>




Từ xưa đến nay thiên nhiên luôn là một nguồn cảm hứng vô tận với các nhà thơ,
nhà văn làm đề tài sáng tác. Nếu như những thi nhân, văn nhân trung đại hướng
tâm hồn mình với mây, hoa, tuyết, nguyệt, cầm, kì, thi, tửu - những thú vui tao nhã
ở đời thì những tác giả hiện đại lại hướng ngịi bút của mình về cảnh sắc thiên
nhiên của đất nước, của con người trong thời đại đổi mới.


Họ ln tìm thấy trên q hương có những vùng núi non tuyệt đẹp, những di sản
thiên nhiên đáng để con người trân trọng, luyến lưu. Và sơng nước chính là một
trong những cảnh thiên nhiên tươi đẹp ấy, dịng sơng với dịng nước chảy, với lịch
sử hình thành cũng như những đặc điểm độc đáo về địa lí đã khơi gợi trong lòng
các nhà văn những cảm xúc dạt dào nhất khiến họ phải cầm bút và sáng tạo nghệ
thuật. “Người lái đị Sơng Đà” –Nguyễn Tn và “Ai đã đặt tên cho dịng sơng?” –
Hồng Phủ Ngọc Tường được ra đời từ chính sự thơi thúc trước cái đẹp của các
nhà văn. Tuy được sáng tác ở những khoảng thời gian khác nhau nhưng ở cả hai
tác phẩm đều tái hiện thành cơng vẻ đẹp trữ tình, đằm thắm của những dịng sơng
q hương.


Viết về đề tài sơng nước đã có nhiều bài thơ, bài văn rất thành cơng. Ta đã được
chiêm ngưỡng một dịng sơng mênh mơng, hoang vắng, buồn man mác thấm đượm
nỗi nhớ nhà trong “ Tràng giang” của Huy Cận hay một khung cảnh đìu hiu, cách
biệt của thiên nhiên sông nước Kinh Bắc trong bài thơ “Bên kia sơng Đuống” của
Hồng Cầm. Nếu những bài thơ trên chỉ là điều kiện, chỉ là cái cớ để các nhà thơ
bày tỏ lịng mình thì đến với “Người lái đị sơng Đà” và “Ai đã đặt tên cho dịng
sơng?” người đọc mới cảm nhận được rõ nét về một tác phẩm viết về dịng sơng
thực sự. Dưới ngịi bút của các nhà văn hình ảnh dịng sơng “độc bắc lưu” và hình
ảnh dịng sơng của xứ Huế mộng mơ hiện lên mang nhiều nét chung độc đáo.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

đọc một cái nhìn đa dạng, tồn diện về vẻ đẹp của con sông yêu thương. Với dịng
sơng Hương, Hồng Phủ Ngọc Tường cũng thể hiện thành cơng vẻ đẹp hồn chỉnh


về nhiều góc độ của nó. Nhà văn đã ghi lại được vẻ đẹp phong phú của sông
Hương lúc ở thượng lưu, ở ngoại vi, ở giữa lòng thành phố Huế. Và như vậy dường
như vẫn chưa đủ, ơng cịn mang đến cho người đọc một cái nhìn đầy đủ hơn về
sơng Hương qua vẻ đẹp trong lịch sử, cuộc đời và thi ca. Có thể nói, cả hai nhà văn
đã tái hiện thật độc đáo và đa dạng vẻ đẹp của dịng sơng gắn bó tha thiết với mình
qua nhiều phương diện khác nhau. Chính điều đó đã tạo nên sức hấp dẫn, sự lơi
cuốn cho người đọc, để lại trong họ nhiều ấn tượng đậm nét.


Để có được tác phẩm hay như vậy, để làm nổi bật được vẻ đẹp trữ tình của hình
tượng dịng sơng đó, tất cả đều phải trải qua ngịi bút tài hoa, uyên bác của các nhà
văn. Ở mỗi nhà văn lại có cách diễn đạt và cảm nhận riêng, song họ lại bắt gặp,
đồng điệu tâm hồn trong sự khả năng quan sát tinh tế thông qua những liên tưởng,
so sánh đầy tính tạo hình, biểu cảm. Vẻ đẹp của dịng sơng cũng vì thế mà càng
đậm nét hơn, ấn tượng hơn. Cả hai con sông đều được ví như những người con gái
trẻ trung mang trong mình những vẻ đẹp trong sáng, tinh khôi “ Con Sông Đà tn
dài tn dài như một áng tóc trữ tình; đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây
Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai” ; “người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa
cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại”… Bằng vốn hiểu biết phong phú, bằng sự liên
tưởng, tưởng tượng độc đáo các nhà văn đã vẽ lên bức tranh thiên nhiên miền sông
nước với vẻ đẹp trữ tình đằm thắm tạo nên ấn tượng mạnh mẽ trong tâm hồn người
đọc đồng thời làm sống dậy trong họ tình cảm yêu thương, niềm tự hào với vẻ đẹp
của quê hương, xứ sở, của Tổ quốc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

cho dịng Sơng Đà trở nên sinh động “đóng đinh” vào trong lịng người đọc. Con
sơng Đày ghềnh thác tung bọt trắng xóa nhìn từ trên xuống ngoằng ngo như một
cái dây thừng. Rồi có lúc nó lại giống như một thiếu nữ mà có lẽ nói đúng hơn là
một tiên nữ giáng trần khiến cho người ta phải mê mẩn: “Sông Đà tuôn dài tuôn
dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc
bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương
xuân”.



Cũng giống như rất nhiều những câu văn sau đó nữa, câu văn ngân vang lên như
một bài thơ, dịng sơng giờ đây trở nên thật hiền lành, nó như một nét vẽ đẹp tô
điểm cho bức tranh của núi rừng Tây Bắc. Và vẻ đẹp của Sông Đà không bao giờ
nhàm chán. Ở mỗi thời điểm khác nhau người ta lại thấy Sơng Đà trong một dáng
vẻ, hình hài khác nhau: “Mùa xn dịng xanh ngọc bích chứ nước Sơng Đà không
xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm Sông Lơ. Mùa thu nước sơng Đà lừ lừ
chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một
người bất mãn, bực bội gì mỗi độ thu về…” Dường như ở con sơng Đà khơng có
chỗ cho những cái sơ sài, tất cả đều phải là tuyệt đỉnh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

không chớp mắt mà như hỏi tơi bằng cái nói riêng của con vật lành: “Hỡi ơng
khách Sơng Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương?”. Đàn cá
dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông, bụng trắng như bạc rơi thoi. Tiếng cá đập nước
sông đuổi mất đàn hươu vụt biến”. Cuộc đối thoại tưởng tượng của nhà văn khiến
cho thiên nhiên hiện hình với tất cả vẻ hoang sơ của nó, dường như nằm ngồi
những biến động, âm thanh của cuộc sống con người. Có lẽ ở nơi đây chỉ có thiên
nhiên làm chủ vẻ đẹp của chính mình và con người chỉ đóng vai trị là một “ông
khách” thưởng ngoạn cái đẹp. Giữa con người và thiên nhiên có một mối quan hệ
hịa hợp, thân thiện. Mọi chuyển động dường như đều cố gắng để không làm ảnh
hưởng đến cái dòng chảy tĩnh lặng như thời tiền sử ấy. Quá khứ và hiện tại đan xen
khẳng định vẻ đẹp bất biến theo thời gian.


Ngòi bút và ngôn ngữ của Nguyễn Tuân tràn đầy âu yếm và nâng niu. Mỗi câu chữ
đều quyện chặt tình yêu với con sông thể hiện sinh động qua biện pháp nhân hóa.
Màu sắc và hình ảnh hiện lên đẹp như một bức tranh. Nhà văn đã khiến cho bức
tranh ấy mang một vẻ đẹp hoàn hảo, độc đáo và đầy ấn tượng. Có dịng sơng, có
nước sơng, có cảnh vật hai bên bờ sơng nhưng đó phải là con sơng như một áng tóc
trữ tình, bờ sơng như một bờ tiền sử, như một nỗi niềm cổ tích ngày xưa. Sơng Đà
đẹp! đó là điều khơng thể phủ nhận. Nhưng với Nguyễn Tn dịng sơng mang một


vẻ đẹp hồn mĩ. Nó khơng chỉ đơn giản là một dịng sơng chảy tràn qua núi rừng
Tây Bắc mà trở thành một sinh thể sống động, một linh hồn tinh tế và nhạy cảm.
Dòng sông Đà hùng vĩ, hiểm trở là kẻ thù, là thách thức, là một kẻ “hằng năm đời
đời kiếp kiếp làm mình làm mẩy với con người” ; vượt qua đoạn thượng nguồn nó
đã trở thành một cố nhân. Và khi trước cảnh: “Dải Sông Đà bọt nước lênh đênh
-Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình” Sơng Đà trở thành “người tình nhân chưa quen
biết”… Cứ thế, bằng ngịi bút tài hoa của mình, Nguyễn Tuân dẫn dắt người đọc
chiếm lĩnh vẻ đẹp của con sông bằng tất cả niềm say mê, tình u với sơng núi,
giang san. Nhà văn đã hát lên những lời ngợi ca say sưa về vẻ đẹp trữ tình tuyệt
vời của Sơng Đà như một khúc ca hùng tráng, ngập tràn yêu thương đối với một
vùng thiên nhiên tươi đẹp của đất nước.


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

Tại nơi rừng đại ngàn sông Hương “như một cô gái Di-gan phóng khống và man
dại” đây là một liên tưởng thú vị và độc đáo. Với hình ảnh so sánh này, nhà văn đã
khắc vào tâm trí người đọc một ấn tượng mạnh mẽ về vẻ đẹp hoang dại nhưng
cũng rất tình tứ của con sơng. Khơng những thế tác giả cịn nhân hóa dịng sơng
khiến nó hiện lên như một con người có cá tính, tâm hồn “rừng già đã hun đúc cho
nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng”. Ra khỏi rừng già, sông
Hương trở thành một “người mẹ phù sa” của một vùng văn hóa xứ sở. Nó khơng
chỉ giúp người đọc có thêm một góc nhìn, một sự hiểu biết về vẻ đẹp hùng vĩ, man
dại, đầy chất thơ của sơng Hương mà cịn mang đến một cái nhìn sâu sắc hơn
muốn ghi công: sông Hương như một đấng sáng tạo đã góp phần tạo nên, gìn giữ
và bảo tồn văn hóa của một vùng thiên nhiên, xứ sở. Sơng Hương chính là một
khởi nguồn, một sự bắt đầu của một khơng gian văn hóa- văn hóa Huế.


Khi ở ngoại vi thành phố Huế nhà văn đã cảm nhận “sông Hương như một người
gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại” được người tình
mong đợi đến đánh thức. Từ đây thủy trình của con sơng khi nó bắt đầu về xi tựa
như một cuộc tìm kiếm có ý thức trong một câu chuyện tình u lãng mạn, nhuốm
màu cổ tích. Dịng sơng lúc này mang một dáng vóc mới đầy khát khao và lãng


mạn “sơng Hương đã chuyển dịng một cách liên tục, vịng giữa khúc quanh đột
ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm”. Hành trình đến với “người tình
mong đợi” của “người gái đẹp” khá gian truân và nhiều thử thách khi nó phải vượt
qua một loạt chướng ngại vật: điện Hòn Chén, vấp Ngọc Trản, đất bãi Nguyệt
Biều, Lương Qn… nhưng chính trong q trình ấy nó lại có cơ hội khoe tất cả vẻ
đẹp của mình - vẻ đẹp gợi cảm với những đường cong tuyệt mĩ. Hoàng Phủ Ngọc
Tường cịn thấy được ở dịng sơng này một vẻ đẹp khác nữa sâu lắng hơn, bí ẩn
hơn đó là vẻ trầm mặc như triết lí, như cổ thi của sông Hương đi giữa thiên nhiên.
Sông Hương cũng chuyển mình ngày đêm bên những lăng tẩm thành quách của
vua chúa thời Nguyễn, con sơng hiền hịa ở ngoại vi thành phố Huế như đang nép
mình bên giấc ngủ nghìn năm của những vua chúa phong kín trong lịng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

giới như sông Xen của Pa ri, sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét, sơng Nê-va của Nga,…
Từ đó mà ơng đã tơn vinh vẻ đẹp độc đáo của dịng sơng Hương vào buổi đêm về,
“vẫn lập lòe trong đêm sương, những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mô tê
xưa cũ mà khơng một thành phố hiện đại nào cịn nhìn thấy được”. Nhà văn quý
điệu chảy lững lờ của sơng Hương qua thành Huế. Ơng cho rằng “Đây là điệu slow
tình cảm dành riêng cho Huế, có thể cảm nhận được bằng thị giác qua trăm nghìn
ánh hoa đăng bồng bềnh vào những đêm hội rằm tháng bảy… chao nhẹ trên mặt
nước như những vấn vương của một nỗi lịng.”


Có thể nói rằng Hồng Phủ Ngọc Tường chính là một nhà văn hố Huế thực sự,
ơng khơng chỉ nhìn sông Hương trôi ở trong hiện tại, ngày ngày mang phù sa và
nguồn nước ngọt trao tặng vô tư cho những cánh đồng Châu Hóa, cho cuộc sống
người dân xứ Huế; mà ơng cịn nhìn sơng Hương như là khởi nguồn cho những giá
trị tinh thần lịch sử. Sông Hương trong quá khứ qua các triều đại phong kiến vàng
son, nó đã từng mang cái tên Linh giang, dịng sơng viễn châu đã chiến đấu oanh
liệt bảo vệ biên giới phía nam Tổ quốc nước Đại Việt. Nó đã từng vẻ vang soi
bóng kinh thành Phú Xuân của anh hùng Nguyễn Huệ, rồi nó đi suốt qua hai cuộc
kháng chiến chống Pháp và Mỹ góp phần làm nên những chiến công lẫy lừng vang


dội cả thế giới như lời đại tướng Võ Nguyên Giáp đã phát biểu: “Lịch sử Đảng đã
ghi bằng nét son tên của thành phố Huế, thành phố tuy nhỏ nhưng đã cống hiến rất
xứng đáng cho Tổ quốc”.


Từ hiện thực kiêu hùng của Huế, mà Hoàng Phủ Ngọc Tường cho rằng: “Sơng
Hương là dịng sơng của thời gian ngân vang, của sử thi viết dưới màu cỏ lá xanh
biếc”. Mặt khác, sông Hương cũng là cội nguồn của thi ca nghệ thuật. Có biết bao
văn nhân, thi sĩ đã từng rung động với dịng sơng Hương như Nguyễn Du, Cao Bá
Quát, Tản Đà, Tố Hữu. Nhà văn đã tin rằng “có một dịng sơng thi ca về sông
Hương và tôi hy vọng đã nhận xét một cách cơng bằng về nó khi nói rằng dịng
sơng ấy khơng bao giờ lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ”. Cao Bá Qt
đã từng nhìn sơng Hương mà thốt lên rằng: “Trường giang như kiếm lập thanh
thiên”. Thu Bồn nhìn dịng nước lững lờ của sơng Hương mà bâng khuâng:


<i>“Con sông dùng dằng con sông không chảy</i>
<i>Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”</i>


Và với Nguyễn Trọng Tạo, Hương Giang lãng đãng một bầu khí quyển huyền
thoại thi ca giúp nhà thơ thăng hoa những vần thơ mê đắm:


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

<i>Hèn chi thơm thảo nỗi buồn</i>


<i>Niềm riêng nhuộm tím hồng hơn đến giờ</i>
<i>Con sơng nửa thực nửa mơ</i>


<i>Nửa mong Lí Bạch, nửa chờ Khuất Nguyên”</i>


Qua những trang kí tài hoa của Hồng Phủ Ngọc Tường sơng Hương hiện ra với
những vẻ đẹp dịu dàng, tinh tế, góp phần làm cho Huế trở nên một bức tranh sơn
thuỷ hữu tình. Hơn thế, sơng Hương cịn là dịng sơng lịch sử, văn hố, thơ ca,


nghệ thuật. Nó đã là một phần trong đời sống tâm linh của người Huế trầm mặc,
sâu sắc.


Cùng là vẻ đẹp trữ tình, cùng được thể hiện qua ngòi bút tài hoa, uyên bác nhưng ở
sông Đà, Nguyễn Tuân chủ yếu thể hiện vẻ đẹp hoang dại của thiên nhiên nhằm
thỏa mãn thú ham xê dịch, cịn sơng Hương lại tập trung tái hiện vẻ đẹp văn hóa
giàu chất trữ tình của dịng Hương giang. Sơng Đà được miêu tả từ góc nhìn địa lí
cịn sơng Hương lại được nhìn trên phương diện văn hóa, lịch sử. Tất cả điều đó đã
tạo nên một ấn tượng độc đáo riêng của mỗi tác giả trong tâm hồn bạn đọc; đồng
thời mang đến cho họ một cái nhìn mới mẻ, đa dạng về vẻ đẹp của thiên nhiên Tổ
quốc.


Qua hai tác phẩm “Người lái đị Sơng Đà”- Nguyễn Tn và “Ai đã đặt tên cho
dịng sơng?”- Hồng Phủ Ngọc Tường, ta có thể cảm nhận thật rõ nét vẻ đẹp trữ
tình đầy thơ mộng, hấp dẫn của hai con sơng q hương. Nó khơng chỉ mang nét
đẹp của thiên nhiên mà nó cịn mang nhiều giá trị văn hóa, địa lí, lịch sử độc đáo.
Qua đó thể hiện vẻ đẹp đa dạng, phong phú của cảnh sắc q hương, bộc lộ tình
u thiết tha, gắn bó với đất Việt của các nhà văn.


<b>Cảm nhận về hình tượng Sông Đà và Sông Hương - Bài làm</b>


<b>3</b>



Viết về dịng sơng, khơng ai dài hơi và độc đáo như Nguyễn Tn với con sơng Đà
hung bạo và trữ tình, thâm hiểm mà bao dung. Hoàng Phủ Ngọc tường cũng góp
vào đề tài ấy một hình ảnh con sơng Hương hiền hịa và man dại, dịu dàng mà
cuồng nhiệt, khơng kém phần đặc sắc. Trong dòng chảy bất tận, người đọc nhận
thấy sơng Hương sơng Đà có những điểm hợp lưu kì thú.


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

Trong đoạn trích “Người lái đị sơng Đà”, Nguyễn Tn tập trung tơ đậm nét hung
bạo, dữ dội của sơng Đà, hình dung dịng sơng ấy như kẻ thù hiểm độc và hung ác.


Trước hết, nét hung bạo ấy có thể thấy rõ qua diện mạo khác thường của dịng
sơng. Đó là cảnh “đá bờ sông dựng đứng vách thành” mà “mặt sông chỉ đúng lúc
ngọ mới có mặt trời”, vách đá chen lịng sơng như một cái “yết hầu” hay “có chỗ
con nai con hổ có thể vọt từ bờ bên này sang bờ bên kia”. Một nét đẹp thực hùng vĩ
của bờ đã ven sơng Đà! Cùng với đó là hình ảnh của sóng nước trên mặt ghềnh Hát
lóng“dài hàng cây số, nước xơ đá, đá xơ sóng, sóng xơ gió, cuồn cuộn luồng gió
gùn ghè suốt năm”.


Trong tùy bút “Sơng Đà”, Nguyễn Tuân đã có biệt tài miêu tả gió và ở đây để tả
gió ơng đã sử dụng từ ngữ vơ cùng độc đáo “gùn ghè”. Ta tự hỏi sao tác giả không
dùng chữ“gầm ghè” mà lại phải là “gùn ghè”? Đọc câu văn tên ta cảm nhận được
cái “gùn ghè”ấy vừa mang sắc thái “gầm ghè” vừa gợi được thời gian dài đắng
đẵng tạo nên sự ám ảnh da diết, ám ảnh về hinh tượng con sông Đà đầy hung bạo.
Và điều đặc biệt khiến người đọc không thể bỏ qua đó là những cái hút nước sơng
Đà đầy dữ dội: “Trên sơng bỗng có những cái hút nước, giống như cái giếng bê
tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu”. Xen lẫn vào đó có cả những ấn
tượng đáng sợ: “Trên mặt cái hút xốy tít đáy, cũng đang quay lừ lừ… Nhiều bè gỗ
rừng đi nghênh ngang vơ lí là những cái giếng ấy nó lơi tuột xuống… thuyền trồng
cây chuối ngược rồi vụt biến đi”.


Nhà văn cho người đọc thêm một góc nhìn khi đặt mình vào vị trí một nhà quay
phim để thấy hết cảm giác về những hút nước dữ dội ấy. Con sông Đà hung bạo
bởi những thác nước dữ dội khiến người ta sợ hãi khi nghe tiếng nước từ xa rồi
nhìn thấy khi đến gần. Từ xa là những âm thanh đặc biệt: “Tiếng thác nước nghe
như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, như là khiêu khích”. Khi đến gần “nó
rống lên như một nghìn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng nứa nổ
lửa”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

Khác với Nguyễn Tuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường tự chọn cho mình lối chơi “độc
bạch”, thiên nhiều về tư duy hướng nội, lắng đọng suy tư để miêu tả hình tượng


sơng Hương. Chính vì thế, sơng Hương được tơ đậm ở nét trữ tình, thơ mộng, gợi
cảm và nữ tính, ln mang dáng vẻ của một người con gái xinh đẹp, mong manh
có tình u say đắm.


“ở thượng nguồn sông Hương như một cô gái Di gan phóng khống và man dại…
rừng già đã hun đúc cho nó bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và phóng khống”.
Tác giả đã miêu tả sơng Hương ở thượng nguồn với sức sống mãnh liệt, hoang dại
nhưng cũng dịu dàng, say đắm. Dịng sơng đã được thổi bằng ngọn gió tâm hồn dạt
dào, nhạy cảm, liên tưởng tự do, phong phú. Khi ra khỏi rừng, sông Hương được
thay đổi tính cách “sơng như chế ngự được bản năng con gái để mang một vẻ đẹp
dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa cho một vùng văn hóa xứ sở”.


Sơng Hương đã trở thành niềm tự hào của Huế vì vậy khi nhắc về nó thơng thường
người ta hình dung đến gương mặt kinh thành đầy trữ tình như Hồng Phủ Ngọc
Tường đã tìm tận về nguồn cội để phát hiện bản chất của cô gái Di – gan, sự cá
tính mạnh mẽ, bản lĩnh, gan dạ vững vàng… Đó là một phát hiện đấy lí thú về một
dịng sơng quen thuộc. Miêu tả sơng Hương, nhà văn khơng nhìn nhận nó trong tư
thế độc lập mà đặt trong mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với kinh thành Huế. Dịng
sơng mang linh hồn và cảm xúc như một tình nhân trên hành trình tìm kiếm tình
u đích thực.


Qua đoạn chảy xi tìm đường trở về thành phố, sông Hương đã vượt qua những
giới hạn khắc nghiệt để chứng tỏ tình u với Huế. Nó lặng lờ, duyên dáng qua
những khúc chuyển mình đầy mềm mại. “Nó kéo một nét thẳng thực yên tâm”, “nó
uốn một cánh cung nhẹ sang cồn Hến như một tiếng vân khơng nói của tình u”.
Đã có bao đêm sơng Hương tình tự bên thành phố thân yêu của mình để rồi đến lúc
phải rời đi nó lại chẳng muốn chia xa mà bịn rịn, quyến luyến. Sông Hương gặp lại
thành phố Huế ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ như để nói một lời thề chung thủy
với mảnh đất cố đô. Lời thề ấy vang vọng khắp lưu vực sơng Hương thành giọng
hị dân gian, là tấm lịng của người dân Châu Hóa xưa mãi chung tình với q


hương, xứ sở. Một cái nhìn nghệ sĩ tài hoa, đa tình mà có lẽ chỉ riêng Hồng Phủ
Ngọc Tường mới có được!


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

Trước hết, sơng Đà và sơng Hương đều được các tác giả miêu tả như một nhân vật
trữ tình có tâm hồn, tích cách với những đặc trưng riêng biệt. Sông Đà vốn được
biết đến là một con sông dữ dội lắm thác nhiều ghềnh nhưng dưới ngịi bút tài hoa,
u thích cái đẹp của Nguyễn Tuân, sông Đà hiện lên như kẻ thù số một của con
người. Đá sông biết bày thạch thủy trận chiến đấu với người lái đò, biết sử dụng
binh pháp, mưu lược để lật đổ những chiếc thuyền. Có khi sơng Đà lại được nhìn
như người con gái với mái tóc dài dun dáng, u kiều.


Cùng với đó, sơng Hương được Hoàng Phủ Ngọc Tường khắc họa như một người
con gái, người mẹ phù sa, người tình với Huế. Sơng Hương cùng với dịng chảy
của nó như những nét tâm trạng khơng nói nên lời trong tình u của người con
gái. Chính vì vậy mà người đọc mỗi trang văn dù miêu tả thiên nhiên nhưng ta vẫn
thấy thấm đượm hồn người sâu sắc.


Khơng chỉ vậy, cả hai dịng sơng đều được nhìn nhận, đánh giá ở hai phương diện
đối lập hung bạo – trữ tình để thấy chúng là những sinh thể thống nhất. Bên cạnh
vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội trước đó, sơng Đà cũng mang những nét thơ mộng, trữ tình
đầy mới lạ.


Nhìn từ trên cao xuống “con sơng tn dài, tn dài như một áng tóc trữ tình, đầu
tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và
cuồn cuộn mù khói Mèo đốt nương xuân”. Mảnh đất uốn lượn nơi đầu nguồn Tây
Bắc đã gợi liên tưởng đến dáng hình người thiếu nữ với mái tóc dài thướt tha. Màu
nước sông Đà thay đổi theo mùa: “mùa xuân dịng xanh màu ngọc bích, mùa thu
nước sơng Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

Một đặc điểm biệt không thể khơng kể đến đó là ngịi bút miêu tả tài hoa, uyên bác


của hai nhà văn khi viết về hai dịng sơng. Cả hai đều được miêu tả trên phương
diện văn hóa, thẩm mĩ. Sơng Đà là nơi hội tụ hai nét đẹp tiêu biểu, đặc trưng của
thiên nhiên Tây Bắc vừa hùng vĩ, dữ dội vừa trữ tình, nên thơ.


Cịn sơng Hương, đó cịn là dịng sơng của âm nhạc, dịng sơng của thi ca, lịch sử
gắn liền với những nét đặc sắc về văn hóa, vẻ đẹp của người dân xứ Huế. Người
đọc còn được thưởng thức và chiêm ngưỡng cái đẹp trên nhiều lĩnh vực qua ngòi
bút đầy uyên bác của nhà văn. Từng khía cạnh được miêu tả đều cho thấy vốn tri
thức phong phú, sâu sắc. Tất cả làm nên vẻ đẹp ấn tượng đặc sắc cho mỗi tác
phẩm.


Vậy do đâu mà ở cả hai hình tượng dịng sơng lại có những điểm chung và nét
riêng độc đáo ấy? Phải chăng bởi tấm lòng say mê trước vẻ đẹp đất nước, tự hào
trước thắng cảnh non sông mà hai nhà văn đã thấy ở hai dịng sơng đó nhiều điểm
chung như vậy? Cùng với đó, cá tính sáng tạo của mỗi nhà văn đã khiến cho hai tác
phẩm dù có chung đề tài nhưng vẫn mang những nét độc đáo hấp dẫn riêng không
thể trộn lẫn. Một nghệ sĩ lãng tử ham xô dịch, ưa cảm giác mạnh; một triết nhân
lịch lãm. Họ như vắt kiệt cả “bầu máu nóng”, đem cả tâm hồn và tài năng của mình
để viết nên những áng văn chương cịn mãi với mn đời.


Cùng đổ ra biển lớn, cùng hịa nước vào đại dương mênh mơng nhưng chắc chắn
người đọc sẽ khơng thể nào qn những hành trình riêng mà sông Đà, sông Hương
đã chảy trong thế giới văn học. Chính những điểm gặp gỡ ấy càng làm nổi bật nét
riêng độc đáo của mỗi hình tượng, mỗi nhà văn; nét độc đáo làm nên sức sống và
linh hồn cho tác phẩm.


<b>Cảm nhận về hình tượng Sơng Đà và Sông Hương - Bài làm</b>


<b>4</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

Trước hết những con sông Việt Nam hiện lên qua vẻ đẹp của sơng Đà và sơng


Hương qua vẻ đẹp về hình dáng. Vẻ đẹp ấy được bút pháp và tài nghệ của hai nhà
văn tài hoa ấy thể hiện rất tinh tế và làm cho người đọc liên tưởng được những
hình ảnh hấp dẫn.


Trước hết là hình dáng sơng Đà, với sự tài hoa uyên bác của mình nhà văn Nguyễn
Tuân đã mang đến trước mắt ta những vẻ đẹp vô cùng đẹp của con sơng chỉ chảy
riêng một hướng đó. Chính vẻ đẹp trữ tình của nó đã làm đẹp hơn và lấn át đi
những vẻ đẹp hung bạo kia. Có thể nói vẻ đẹp hung bạo của nó khiến cho người ta
khiếp sợ bao nhiêu thì vẻ đẹp trữ tình này lại khiến cho người đọc yêu nó, say cái
đẹp của nó bấy nhiêu.


Sơng Đà từ trên cao nhìn xuống nó mang vẻ đẹp của một người thiếu nữ Tây Bắc.
Nhìn từ trên cao ấy sơng Đà "tn dài tn dài như một áng tóc trữ tình... đốt
nương xn". Phải chăng đó chính là mái tóc của người thiếu nữ Tây Bắc đẹp như
làn nước vậy. Đặc biệt từ trên cao xuyên qua những đám mây ấy nhìn xuống vẻ
đẹp ấy thật sự giống như mái tóc mượt mà của người con gái xứ Hoa Ban ấy.
Không những thế mái tóc ấy cịn hiện lên đẹp hơn khi "Đầu tóc chân tóc ẩn hiện
trên mây trời Tây Bắc". Hình ảnh mang đến cho ta một sự hấp dẫn và nên thơ lạ
thường. Con sông hung bạo với những trận bày thạch đá ấy, những thác nước dữ
tợn ấy mà giờ đây lại hiền hịa như mái tóc của người con gái vậy. Thế rồi tác giả
quan sát kĩ nhìn dịng sông cũng giống cả một dây thừng ngoằn nghèo nữa. Đó
chính là vẻ đẹp thướt tha kiều diễm của sơng Đà.


Khơng những thế sơng Đà cịn như một người cố nhân lâu ngày gặp lại chốc hiền
hòa rồi lại bất ngờ cáu kỉnh lên đấy thôi. Tác giả vẽ lên những hình ảnh của người
cố nhân ấy, nó mang vẻ đẹp như "vui như nắng giịn tan sau kì mưa rầm, vui như
nối lại chiêm bao đứt quãng". Có thể thấy với bút pháp tài hoa của mình Nguyên
Tuân đã mang đến cho người đọc một người cố nhân đẹp.


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

Đến con sơng Hương của Hồng Phủ Ngọc Tường cũng mang đến cho chúng ta


một nét đẹp của nó khơng kém phần sơng Đà. Sơng Hương xứ Huế cũng có những
nét đẹp hung bạo nhưng nhà thơ khơng nói đến nó quá nhiều mà tập trung vào vẻ
đẹp trữ tình của nó. Trước khi về đến thành phố thì dịng sơng Hương cũng đã là
một bản trường ca của rừng già, nó đi qua những bãi đỗ quyên đỏ rực.


Trước hết vẻ đẹp ấy giống như một cô gái Di-gan phong khống và man dại, nó
dịu dàng đằm thắm hơn bao giờ hết. Nó khơng cịn là bản trường ca của rừng già
nữa mà nó mang vẻ đẹp của sụ hiền lành đáng u. Khơng những thế nó còn mang
vẻ đẹp của người mẹ phù sa nơi đây. Sông mang về những phù sa màu mỡ để
mang đến cho những cánh động Châu Hóa kia.


Tiếp theo vẻ đẹp của dịng sơng Hương cịn được thể hiện khi nó vào ngoại vi
thành phố. Nhìn sơng Hương "như người gái đẹp ngủ mơ màng giữa cánh đồng
Châu Hóa đầy cỏ dại". Sông Hương cũng giông sông Đà mang một nét đẹp của
người con gái. Thế nhưng ở đây sông Hương mang khơng đẹp như mái tóc người
con gái mà đẹp bởi những đường cong quyến rũ. Để vào được đến thành phố sông
Hương phải trải qua không biết bao nhiêu đoạn gấp khúc quanh co qua những đồi
thiên Mụ... Và chính những đường gấp khúc ấy nó đã tạo nên những đường cong
đẹp đẽ cho sông Hương.


Vẻ đẹp thứ hai của cả hai con sơng đó chính là màu sắc. Những sắc nước ấy đã
mang lại những điều tuyệt đẹp cho sơng Việt Nam.


Với sơng Đà thì sắc nước thay đổi theo mùa. Mùa xuân sắc nước sông Đà xanh
màu xanh ngọc bích. Mùa thu nước sơng Đà "lừ lừ chín đỏ như mặt của một người
bầm đi vì rượu bữa" hay là tức giận ai điều gì. Sơng Đà chưa bao giờ có màu đen
như Pháp đã lếu láo đặt tên nó trên bản đồ.


Cịn sắc nước sơng Hương biến đổi theo ngày sớm xanh trưa vàng chiều tím. Đó là
những màu sắc đi liền với Huế. Chính vị thế mà ngay cả màu của sông cũng mang


hồn Huế.


</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

<b>Cảm nhận về hai hình tượng Sơng Đà và Sông Hương - Bài</b>


<b>làm 5</b>



Thiên nhiên muôn đời này vẫn là người bạn thiết thân của các văn sĩ nói chung và
những nhà văn Việt Nam nói riêng. Bởi vậy, hình ảnh thiên nhiên của non sơng đất
nước đi vào những trang văn của các tác giả văn học thật đáng u đáng mến biết
nhường nào. Những dịng sơng Việt Nam trong văn học cũng được nhìn nhận dưới
vẻ đẹp thơ mộng và trữ tình quyến rũ đến kì lạ. Chỉ qua hai tùy bút Người lái đị
sơng Đà (Nguyễn Tuân) và Ai đã đặt tên cho dịng sơng? (Hồng Phủ Ngọc
Tường) ta đã cảm nhận được điều đó.


Diễn đạt vẻ đẹp trữ tình của sơng Đà, Nguyễn Tuân đã dùng những trang văn đậm
chất thơ, lắng sâu xúc cảm trữ tình. Con sơng Đà “tn dài như áng tóc trữ tình…”
câu văn dài chất chứa niềm yêu say mê của tác giả đối với sông Đà. Biện pháp so
sánh khơng chỉ gợi chiều dài của dịng sơng mà cịn cảm nhận về dáng hình, dịng
chảy của nó. Sơng Đà trong một sự vận động, chảy trơi miên man, vô tận. Sông Đà
hung dữ đã được thay bằng hình ảnh một con sơng mềm mại, uốn lượn, được hình
dung như mái tóc của người thiếu nữ. Hình ảnh gợi cảm, dun dáng, tình tứ, có
khả năng tạo ra những trường liên tưởng rộng lớn qua trí tưởng tượng sinh động
của nhà văn. Sông Đà là linh hồn Tây Bắc, nước mây, đất trời như nối liền một dải
“đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc… cuồn cuộn mù khói núi Mèo
đốt nương xuân” Cảnh vật thơ mộng và huyền ảo. Câu văn xuôi vừa giàu chất tạo
hình vừa thấm đượm chất thơ. Nguyễn Tuân nhìn sơng Đà ở nhiều góc độ, soi
chiếu nó ở nhiều phương diện, để rồi ở phương diện nào cũng tìm ra những nét đẹp
của nó, khi thì nhìn say sưa, khi lại xuyên qua cảnh vật, khi lại bay tạt ngang sơng
Đà, khi nhìn từ trên xuống, khi nhìn từ dưới lên…Sông Đà được cảm nhận như
một sinh thể sống có linh hồn. Sắc nước sơng Đà có khi là màu xanh trong suốt,
rực sáng đến diễm lệ, có khi là sắc đỏ đậm đặc đến bầm tím. Những hình ảnh ấy


tác động mạnh mẽ vào giác quan của người đọc, tạo những trường liên tưởng mà
khi tiếp nhận, người đọc ln có cảm giác bất ngờ, lí thú.


</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

câu thơ của Lí Bạch với khơng gian rực rỡ của sơng Đà. Từ ánh sáng của dịng
sơng mà bắt thành ánh nắng tháng ba Đường thi thì quả là tài hoa. Tình tri kỉ của
người xưa như truyền những xúc cảm “đằm đằm, đầm ấm” cho Nguyễn Tuân gặp
lại sông Đà.


Bờ sông Đà được miêu tả bằng những câu văn đậm xúc cảm hoài niệm: “hoang
dại… cổ tích tuổi xưa”. Sơng Đà đẹp vẻ đẹp cổ kính, gần gũi, tha thiết. Cái hoang
dại của dịng sơng được so sánh với nét hoang sơ của bờ tiền sử, cái trẻ trung của
dịng sơng được so sánh với nỗi niềm hồn nhiên của cổ tích. Nguyễn Tn rất có
tài khi sử dụng biện pháp so sánh. Lần so sánh nào cũng khiến người ta ngỡ ngàng,
thán phục, say mê. Câu văn đưa người đọc trở về với một thời q vãng xa xưa,
sơng Đà được khốc lên tấm áo lung linh, huyền ảo, gợi nên một nét đẹp yên bình,
thơ mộng, gần gũi và thân thiết.


Sơng Đà giống như một phần lịch sử dân tộc, là hồn thiêng của đất nước mang
theo khát vọng ngàn đời của con người. Không phải đến Nguyễn Tuân mới phát
hiện ra vẻ đẹp sơng Đà mà nét đẹp của dịng sơng ngàn đời vẫn thế. Những câu văn
giúp người đọc cảm nhận dòng chảy của thời gian lịch sử. Dịng sơng từ q khứ
đến hiện tại, trơi chảy đến tương lai. Dịng chảy của sơng Đà là dịng chảy của lịch
sử, đất nước. Những câu văn đậm chất thơ, chứa chan xúc cảm trữ tình. Phải chăng
chất thơ ấy chính là chất thơ “hoài cựu” (Nguyễn Đăng Mạnh) dưới nét bút tài hoa
của người nghệ sĩ. Những câu văn đắm chìm trong quá khứ rồi lại ngỡ ngàng, giật
mình khi quay trở lại hiện tại. Âm thanh của tiếng cịi xúp lê chính là tín hiệu của
cuộc sống mới, thể hiện những nét đẹp hiện đại. Giữa bức tranh đầy chất thơ của
đôi bờ sơng Đà, giữa dịng chảy êm đềm của thời xưa cũ, không gian tĩnh lặng
khôn cùng, nhà văn thèm nghe thấy một tiếng cịi sương. Đó khơng chỉ là một âm
thanh đơn thuần mà còn là âm thanh của nỗi niềm, ước mơ, khát vọng trong nhà


văn. Khát vọng về hình ảnh một ngày mai tươi sáng của vùng đất Tây Bắc đã được
thắp lên trong một âm điệu lạc quan, u đời. Ngịi bút của Nguyễn Tn khơng
chỉ làm người ta kinh ngạc bởi sự dữ dội của dịng sơng mà cịn làm người ta u
thích bởi chất trữ tình của dịng sơng ấy.


</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

Hương Giang lại gợi cho người đọc một cảm giác khác, cảm giác của một cái gì đó
dịu nhẹ cứ len lỏi miên man rồi từ từ thấm vào hồn người, làm trỗi dậy một cách
trầm tĩnh cái tình yêu mê man, say đắm đối với dịng sơng mang nét đẹp văn hóa
xứ sở. Sơng Hương – con sơng đã đi vào thi ca với vẻ quyến rũ lạ kỳ:


<i>“Cầu cong như chiếc lược ngà</i>
<i>Sơng dài mái tóc cung nga bng hờ”</i>


Dưới ngịi bút của Hồng Phủ Ngọc Tường sơng Hương đã trở thành một con
người, một người con gái đẹp có tâm hồn, có cá tính, dịu dàng một vẻ sang trọng,
đằm thắm một vẻ đẹp đầy văn hóa.


</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25>

được sử dụng để khắc họa vẻ đẹp của dòng sơng một cách hồn mĩ. Đến chân đồi
Thiên Mụ thì Hương Giang cùng tiếng chuông chùa cùng với sự thâm trầm uy
nghiêm của những lăng tẩm của vua chúa Nguyễn đã tạo cho sơng Hương một vẻ
đẹp văn hóa đặc biệt mà bất kể một dịng sơng nào của Việt Nam đều khơng có
được. Vẻ đẹp ấy được tác giả chọn tả bằng một câu văn dài như ngân lên trong hồn
người đọc, tạo một dư âm, một ấn tượng khơng thể phai mờ trong tâm trí người
đọc. Đó là vẻ đẹp trầm mặc nhất của sông Hương như triết lí, như cổ thi, kéo dài
mãi đến lúc mặt nước phẳng lặng của nó gặp tiếng chng chùa Thiên Mụ ngân
nga từ bờ bên kia giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà.


Nếu như Nguyễn Tuân đã tạo cho sơng Đà vẻ trữ tình và hung dữ để nhằm mục
đích tơn vinh con người trong lao động, Hồng Cầm tạo cho thi ca một dáng “nằm
nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì” của dịng sơng Đuống để tạo nên


hình ảnh quê hương yêu dấu trong những ngày đau thương thì Hồng Phủ Ngọc
Tường lại tạo cho thi ca một dịng sơng văn hóa. Vẻ đẹp của Hương Giang được
tạo nên bởi truyền thống, bản sắc văn hóa của xứ Huế, với vùng ngoại ô Kim Long
hay những khu nhà vườn Vĩ Dạ xanh mướt một màu thiên nhiên tràn đầy sức sống,
những khu vườn thơ mộng ẩn chứa trong lịng nó những con người phúc hậu,
những nếp sống cổ xưa với những nét sinh hoạt tinh tế đầy văn hóa. Và cái điệu
chảy lững lờ như lưu luyến vấn vương của dòng Hương Giang đã tạo nên một môi
trường tuyệt vời cho những đêm ca Huế, những đêm hội hoa đăng, những thú vui
đố thơ, thả thơ trên những con thuyền giữa dịng sơng. Mặt nước n tĩnh như
khơng trơi đã nâng niu góp phần gìn giữ những sinh hoạt văn hóa cổ truyền của
Huế, tạo vẻ đẹp riêng thu hút và quyến rũ khách thập phương. Điệu slow tình cảm
dành riêng cho Huế ấy thật hợp cảnh hợp tình với những ngơi chùa cổ, những lăng
tẩm uy nghi của chốn kinh thành xưa.


</div>
<span class='text_page_counter'>(26)</span><div class='page_container' data-page=26>

mỗi trang truyện Kiều, thiên nhiên của mảnh đất kinh xưa đã để lại một cái bóng
mơng lung nhưng rất dễ nhận ra trong thơ Nguyễn Du”. Sông Hương trong cảm
hứng của Hồng Phủ Ngọc Tường khơng chỉ mang vẻ đẹp thơ mộng của một vùng
văn hóa truyền thống, khơng chỉ dịu dàng một vẻ sơn thủy hữu tình mà cịn là một
dịng sơng anh hùng như bao dịng sơng khác của q hương Việt Nam, sơng mang
trong mình bao điều bí ẩn của lịch sử. Nếu những trang miêu tả dòng chảy của
dịng sơng là những trang trữ tình nhất thì những trang nói về lịch sử là những
trang đáng tự hào nhất. Dịng sơng “tươi trẻ và quyến rũ”, lung linh sắc màu trong
những ngày thanh bình lại trở thành người anh hùng sát cánh cùng dân tộc đánh
giặc. Việt Nam là đất nước có mạng lưới sơng ngịi dày đặc, mỗi người Việt Nam
đều được sinh ra và lớn lên bên một dịng sơng như lời bài hát: “Trong ta, ai cũng
có một dịng sơng” hay lời thơ của một nhà thơ trẻ:


<i>“Sinh ra ở đâu mà ai cũng anh hùng</i>
<i>Tất cả trả lời bên một dịng sơng</i>



“Q hương Việt Nam mườn mượt những cánh đồng Mỗi con người gắn bó một
dịng sơng”


Dù là một ngịi, một con kênh nhỏ vơ danh hay là dịng sơng Hồng ngầu đỏ phù sa,
dịng sơng Lơ gắn bó với những chiến cơng lịch sử của dân tộc đều đã là nguồn
cảm hứng và ít nhất một lần đi vào tác phẩm thi ca của dân tộc. Và con sông Đà
trong “Người lái đị sơng Đà” của Nguyễn Tn, dịng sơng Hương trong “Ai đã
đặt tên cho dịng sơng” của Hồng Phủ Ngọc Tường đã có được vinh dự mang
trong mình vẻ đẹp thơ mộng trữ tình tiêu biểu cho những dịng sơng Việt Nam
trong văn học. Qua hai thiên tùy bút, vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của những dịng
sơng Việt Nam hiện lên vừa chân thực vừa mơ màng chẳng những thể hiện tài
năng của các tác giả mà còn khẳng định tình yêu thiết tha, sâu nặng của những nhà
văn Việt Nam đối với non sông đất nước.




---Mời các bạn tham khảo thêm các bài viết dưới đây của chúng tôi:


Soạn văn 12 ngắn gọn


Tác giả - Tác phẩm Ngữ Văn 12


Phân tích tác phẩm lớp 12


</div>
<span class='text_page_counter'>(27)</span><div class='page_container' data-page=27></div>

<!--links-->

×