Tải bản đầy đủ (.docx) (41 trang)

Tải Ôn thi Đại học môn văn theo chuyên đề: Vợ chồng A Phủ - Tài liệu luyện thi THPT Quốc gia môn Văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (287.76 KB, 41 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Ơn thi Đại học mơn Văn theo chuyên đề: </b>


<b>Vợ chồng A Phủ - Ngữ văn 12</b>



Vợ chồng A Phủ là một tác phẩm đặc sắc của nhà văn Tơ Hồi, chun đề này nhằm
cung cấp, phân tích cho các em các kiến thức về nội dung, nghệ thuật tác phẩm.


<b>Câu 1: Phân tích hình tượng nhân vật Mị trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của nhà</b>
văn Tơ Hồi


<i><b>Gợi ý trả lời</b></i>


<i>a. u cầu kĩ năng: HS biết vận dụng kĩ năng phân tích nhân vật trong tác phẩm tự sự,</i>
diễn đạt trôi chảy, kết cấu mạch lạc.


<i>b. Yêu cầu về kiến thức: HS trên cơ sở nắm nội dung tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” để</i>
phân tích hình tượng nhân vật Mị. Có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cần
làm nổi bật các điểm:


* Nội dung:


- Ấn tượng về nhân vật ở đầu tác phẩm: Ở nhà thống lí Pá Tra mà cô gái lúc nào cũng
buồn, lẫn vào giữa những đồ vật vô tri.


- Một số phận éo le, bị bắt làm con dâu gạt nợ nhà thống lí, có cuộc sống không bằng
thân con trâu, con ngựa.


- Một sức sống tiềm tàng, mãnh liệt:
+ Ý thức về cuộc sống tự do


+ Diễn biến tâm trạng Mị trong đêm tình mùa xuân.
+ Hành động cởi trói cho A Phủ.



* Nghệ thuật: Lời kể mộc mạc, lơi cuốn; phân tích tâm lí nhân vật sâu sắc; trục thời gian
giữa quá khứ và hiện tại đan xen…


* Đánh giá: Mị là nhân vật điển hình cho số phận của người phụ nữ miền núi phía Bắc
trước Cách mạng Tháng 8.


<b>Câu 2: Vợ chồng A Phủ của Tơ Hồi và Vợ nhặt của Kim Lân là hai truyện ngắn đều</b>
viết về số phận và vẻ đẹp tâm hồn của người lao động. Em hãy phân tích hai truyện ngắn
trên trong mối quan hệ đối sánh để nêu bật đặc sắc riêng của từng tác phẩm.


<i><b>Gợi ý trả lời</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

- Biết cách làm bài văn nghị luận văn học với kỹ năng chính là phân tích tác phẩm trong
sự đối sánh để thấy được những nét chung của 2 tác phẩm, đồng thời cũng nêu được vẻ
đẹp độc đáo của từng tác phẩm


- Bố cục bài làm rõ ràng, chặt chẽ; văn viết trơi chảy, có cảm xúc, khơng mắc lỗi diễn đạt.
<b>b.u cầu về kiến thức:</b>


Học sinh nắm vững và biết phân tích 2 tác phẩm đã cho ở đề bài trong sự đối sánh để đáp
ứng những nội dung cơ bản sau:


* Điểm chung ở 2 tác phẩm:


- Cả 2 tác phẩm đều là những sáng tác thuộc giai đoạn văn học cách mạng 1945-1975
- Nhân vật chính trong tác phẩm đều là những người lao động có cuộc sống bất hạnh, khổ
đau nhưng ở họ đều có những vẻ đẹp trong tâm hồn: Cho dù có bị cuộc sống vùi dập, bị
đẩy vào tình thế bi đát nhưng ở họ vẫn ln có niềm tin vào cuộc đời, vẫn ln hướng tới
một tương lai tươi sáng.



* Nét riêng: -Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tơ Hồi:


+ Miêu tả số phận: Tác phẩm là bức tranh chân thực về số phận đau khổ của những người
nông dân lao động miền núi dưới ách áp bức nặng nề của phong kiến, thực dân.


+ Phát hiện, khẳng định vẻ đẹp tâm hồn của người lao động: Tác phẩm chính là bài ca về
sức sống bất diệt, về khát vọng tự do hướng tới cuộc đời mới và cách mạng của những
người lao động miền núi vùng Tây Bắc của tổ quốc.


- Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân:


+ Miêu tả số phận: Tác phẩm đã khắc họa một cách chân thực, cảm động về thân phận bi
thảm, rẻ rúng của con người trong nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu 1945-Trong nạn đói,
con người có thể bị xem như một thứ hàng có thể nhặt được giữa đường…


+ Phát hiện, khẳng định vẻ đẹp tâm hồn của người lao động: Dù phải đối mặt với cái chết
đang cận kề, người lao động vẫn cưu mang, đùm bọc, che chở và giúp đỡ nhau để vượt
qua hồn cảnh khốn cùng, họ vẫn ln khao khát một tổ ấm gia đình, hướng tới tương lai
tươi sáng.


Qua phân tích những đặc sắc riêng ở từng tác phẩm, học sinh cần thấy vai trò và khả năng
sáng tạo của nhà văn, đồng thời cũng cần thấy được khuynh hướng chung trong cảm nhận
và miêu tả, khám phá đời sống của văn học cách mạng Việt Nam sau Cách mạng tháng
Tám năm 1945.


<b>Câu 3: Qua hai nhân vật Mị và A Phủ, hãy nêu giá trị hiện thực và nhân đạo của tác</b>
phẩm Vợ chồng A Phủ (Bài 1)


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Vợ chồng A Phủ là một trong ba tập trong Truyện Tây Bắc (in năm 1954) của nhà văn Tơ


Hồi. Tác phẩm kể về cuộc đời của đôi vợ chồng trẻ người Mèo là Mị và A Phủ. Mị bị
bắt về làm con dâu trừ nợ cho nhà thơng lí. A Phủ vì dám đánh A Sử, con trai thống lí
nên phải làm đày tớ đế trừ tiền phạt vạ. Cùng cảnh ngộ đau khổ, Mị đã cứu A Phủ. Hai
người trốn khỏi nhà Pá Tra, tìm đến tận Phiềng Sa, thành vợ, thành chồng, cùng nhau xây
dựng cuộc đời mới. Được cán bộ cách mạng giác ngộ, Mị cùng A Phủ trở thành du kích
bảo vệ khu giải phóng.


Đây là tác phẩm có giá trị hiện thực và nhân đạo đáng kể. Thông qua số phận Mị và A
Phủ, nhà văn đã dựng lại quãng đời đau khổ, tối tăm của người dân miền núi trước cách
mạng và phản ánh quá trình đến với cách mạng của họ.


Dưới thời thực dân phong kiến, bọn lang bạo chúa đất ở vùng cao mặc sức làm mưa làm
gió. Chúng nắm trong tay quyền lực của hành chính, tập tục và thần linh. Chúng có quyền
sinh, quyền sát. Bởi thế tính mạng người dân bị coi như cỏ rác. Điển hình cho tầng lớp
thống trị miền núi được miêu tả trong truyện là cha con tên thông lí Pá Tra với tính cách
bạo ngược và lối sống phè phỡn trên mồ hôi nước mắt người nghèo.


Cũng như bao tên chúa đất khác, thơng lí Pá Tra có đủ mọi thủ đoạn hiểm độc trong việc
áp bức, bóc lột dân chúng, đẩy họ vào cảnh bần cùng để rồi mặc nhiên trở thành nô lệ của
hắn. Mị và A Phủ là nạn nhân trong bao nạn nhân khác của cha con hắn.


Mị vốn là một cô gái mang đầy đủ phẩm chất tốt đẹp của phụ nữ vùng cao. Đẹp người ,
đẹp nết, Mị được nhiều trai bản yêu mến. Cuộc sống, tuổi thanh xuân, hứa hẹn với cơ bao
điều tốt lành. Nhưng chi vì món nợ của cha mẹ cơ vay thống lí từ ngày cưới cho đến lúc
mẹ cô chết vẫn chưa trả được nên Mị phải đem thân làm con dâu trừ nợ cho nhà thống lí.
Là người nhưng cơ bị coi như một thứ đồ vật vơ tri, vơ giác đế tính ra tiền trừ vào số nợ.
Những ngày Mị sống với cha con tên thơng lí là chuỗi dài đau thương vất vả. Danh nghĩa
là dâu nhà quan nhưng thực chất cô là đầy tớ không công, bị coi rẻ hơn cả con trâu, con
ngựa. Suốt ngày nai lưng ra làm quần quật, đêm đến cô lại phải thức hầu hạ thằng chồng
tàn ác.



Đau khổ, cực nhọc đã cướp mất tuổi xuân của Mị, biến cô thành kẻ nhẫn nhục, cam chịu.
Cô gái Mèo xinh đẹp, hồn nhiên, đa tình, đa cảm thuở nào đã chết. Chi còn lại người đàn
bà “lúc nào cũng vậy... cũng cúi mặt buồn rười rượi… ngồi ngay sợi gai bên tảng đá
trước cửa, cạnh tàu ngựa...”. Mị âm thầm “lùi lũi như con rùa ni trong xó cửa".


Mị không những bị đọa đày về thể xác mà còn bị đè nén về tinh thần, Mị chán sống
nhưng khơng được chết. Vì có chết thì món nợ truyền kiếp kia vẫn còn là người cha già
càng đau khổ hơn. Cuộc đời Mị bị ràng cột bằng quyền lực, bị trói buộc bằng tập tục mê
tín lâu đời của người dân miền núi.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

xác Mị, tâm hồn Mị lạnh lẽo, trống vắng, “nếu khơng có bếp lửa sưởi kia thì Mị cũng đến
chết kéo".


Ngọn lửa là người bạn duy nhất giúp cơ xua bớt phần nào bóng tối u ám đang vây phủ
cuộc đời cơ. Khơng có bạn bè cảm thương với nỗi khổ của mình, phải tìm đến ngọn lửa,
coi nó là bạn. Khổ biết chừng nào!.


Bao năm qua, Mị bị đọa đày trong nhà thông lí, mọi cảm xúc của cơ hầu như tê liệt. Tinh
thần phản kháng cũng vậy. Bây giờ Mị đã nghĩ rằng minh là con trâu, con ngựa của nhà
giàu, chỉ biết ăn cỏ và đi làm thôi. Con trâu, con ngựa nhà giàu đêm cịn được nghi, cịn
cơ khơng lúc nào ngớt việc. Trước kia. cô phản kháng dữ dội bằng cách định ăn lá ngón
tự tử, giờ cơ khơng nghĩ đến chuyện chết nữa vì quá quen với cái khổ rồi, vì cho rằng
sống mà như chết. Đời Mị cứ thế lặng lẽ trôi đi. Với Mị, cuộc sống chẳng cịn nghĩa lí,
khơng cịn gợi cho cơ ý thức gì về quá khứ, hiện tại, tương lai. Cái ác cùa bọn thống lí là
đã giết chết phần tốt đẹp của con người.


Cuộc đời A Phủ, người con trai Mèo cũng khơng kém phần chua xót. Khỏe mạnh, ngang
tàng, phóng khoáng, làm nương giỏi, săn thú tài, A Phủ được bao cô gái say mê, ao ước.
Nhưng hạnh phúc không dến với chàng trai nghèo khổ mồ cơi ấy. Vì dám đánh bại trăm


đồng bạc trắng, phải đi ở trừ nợ làm ngựa cho nhà thống lí: "Đời mày, đời con, đời cháu
mày tao củng bắt thể, giờ hết nợ tao mới thôi”.


Ngày này qua tháng khác, A Phủ phải làm việc cật lực, chăn dắt bầy bị đơng máy chục
con. Khơng may một con bị bị hổ ăn thịt. A Phủ bị trói đứng vào cột chờ chết, khơng
được ăn, không được uống.


Con người khi phách ngang tàng như A Phủ mà phổi lặng lẽ khóc cho thân phận tủi nhục
cua mình: "hai mắt A Phủ cũng vừa mở. Một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm
má đã xám đen lại”. Chút ý thức phản kháng trong anh đã bị hiện thực phũ phàng dập tắt.
Ngòi bút nhà văn tỏ ra sắc sảo trong việc miêu tả con người và cuộc sống vùng cao. Cha
con tên thống lí và lũ tay sai là hiện thân của giai cấp thống trị tàn ác, vô nhân đạo. Bọn
lý dịch, quan làng, thống quản... lợi dụng chuyện A Phủ đánh A Sử để kéo đến nhà thống
lí xử kiện và ăn cỗ “suốt từ trưa cho đến hết đêm". Mấy chục người “hút thuốc phiện rào
rào”. Cứ mỗi đợt chúng hút xong A Phủ lại phải quỳ ra giữa nhà để người nhà thống lí xơ
đến đánh: “cứ như thế suốt chiều, suốt đêm, càng hút càng tỉnh, càng đánh càng chửi,
càng hút..".


Giá trị hiện thực của truyện ngoài việc tái hiện đoạn đời khô ải của những người nô lệ
cịn nói lên một sự thật xót xa: người dân bị áp bức, đè nén quá lâu sẽ bị tê liệt tinh thần
phản kháng, sẽ bị đầu độc bởi tâm lí nơ lệ. Bạo lực cấu kết với thần quyền, với mê tín dị
đoan làm cho họ khơng cất đầu dậy nổi.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Trong giá trị hiện thực của tác phẩm đã ẩn chứa giá trị nhân đạo sâu xa. Có căm thù giai
cấp thơng trị và xã hội bất công, tác giả mới lên tiếng tố cáo mãnh liệt. Có cảm thương số
phận đau khổ của con người, tác giả mới viết nên những trang sách gây xúc động mạnh
mẽ như vậy.


Nhưng nhà văn không để nhân vật của mình bị dồn vào thế tuyệt vọng. Điều kì diệu là
dẫu trong cùng cực thế nào chăng nữa thì mọi thế lực tội ác cũng không hủy diệt được


sức sống con người. Cách nhìn nhận của Tơ Hồi trong tác phẩm này hết sức nhân bản.
Lay lắt, đói khổ, nhục nhã, Mị vẫn sống âm thầm, tiềm tàng, mãnh liệt. Từ trong sâu
thẳm tâm hồn người con gái bị đọa đày kia vẫn âm ỉ, le lói một ngọn lửa yêu đời, ham
sống. Mùa xuân về, Mị lén uống rượu và “lịng Mị thì đang sống về ngày trước. Tai Mị
văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng... Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui
sướng như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ lắm, Mị vẫn còn trẻ,Mị muốn đi chơi.. ”.
Nhưng rồi thực tại đen tối đã cố tình dập tắt tiếng sáo thiết tha và hình ảnh mùa xuân rực
rỡ. Phản ứng tự phát ban đẩu của Mị khơng thể giải phóng được cuộc đời có nhưng
những giây phút trỗi dậy ấy có ý nghĩa thức tỉnh. Giống như đốm lửa âm ỉ trong đám tro
than, có ngày sẽ bùng cháy dữ dội.


Ngày ấy đã đến với Mị trước cảnh A Phú bị trói, “Nhìn thấy tình cảnh như thế, Mị chợt
nhớ lại đêm năm trước A Sử trói Mị, Mị cũng phải trói đứng thế kia. Nhiều lần khóc,
nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, khơng lau đi được. Trời ơi, nó bắt trói đứng
người ta đến chết, nó bắt mình chết cũng thơi, nó bắt trời đến chết người đàn bà ngày
trước cũng ở cái nhà này... Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết
đói, chết rét, phải chết. Ta thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ cịn biết
đợi ngày rũ xương ở đây thôi, người kia việc gì mà phải chết thế.. ".


Mị khơng cầm lịng được trước cảnh con người sắp bị hủy diệt. Mị động lòng thương,
thương người, thương thân, Mị nhớ đến những khổ sở, hãi hung mà mình đã phải chịu
đựng suốt mấy năm qua. Giọt nước mắt đau khổ của A Phủ như giọt nước làm tràn bình
nước đã đầy. Nó thức tỉnh nỗi đau lắng chìm trong lịng Mị. Cảm thương số phận A Phủ,
lòng căm thù cha con tên thống lí độc ác bùng lên, lấn át nỗi sợ hãi, dẫn Mị đến hành
động táo bạo ngoài ý thức: Cắt dây trói cứu A Phủ.


Đây là hành động bộc phát song nó là kết quả tất yếu của một quá trình dồn nén, bức xúc
về mặt tinh thần, bây giờ đã đến lúc giải thốt. Mị cắt dây trói cho A Phủ cũng là cắt đứt
những dây trói vơ hình đã cột chặt cơ vào qng đời tủi nhục bấy lâu nay. Cô vụt chạy
theo A Phủ bởi cô ý thức được sự sống còn của minh: “Ở đây thì chết mất". Mị đã chạy


theo tiếng gọi mãnh liệt của tự do, giải phóng mình ra khỏi nanh vuốt cha con tên thống
lí.


Hai con người cùng cảnh ngộ đã “lẳng lặng díu nhau lao chạy xuống núi” bỏ thật xa cái
địa ngục giam cầm, đày đọa họ mấy năm trời. Từ trong chết, họ vùng dậy tìm lẽ sống,
làm lại cuộc đời.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

đồng thời cướp cả mọi thứ và quyền tự do sống làm người, chẳng khác gì bọn cường hào
ác bá miền núi.


Chúng càn lên núi cao, đốt nhà, cướp của, bắt người. A Phủ bị chúng cướp mất đôi heo,
bị đánh, bị đi phu khiêng đá xây đồng... A Phủ căm thù, chửi bới giặc Pháp và đã nhận
thức được rằng mình là người tự do, của cải bị chúng cướp đi là mồ hơi, nước mắt cùa
mình. Phải nhớ lấy để mà trả thù.


Sống ở Phiềng Sa, vợ chồng A Phủ mới thực sự được làm người. Họ được cán bộ A Châu
giác ngộ cách mạng, từ một chàng trai nghèo khổ, nô lệ, A Phủ đã trở thành một du kích
dũng cảm, tự tin. Anh thực sự trở thành chỗ dựa tinh thần của Mị. Sống bên A Phủ, Mị
dần dần hết lo sợ, cô vững tin vào cuộc sống mới vào kháng chiến. Được đứng lên đánh
lại kẻ thù áp bức mình trong tư cách mình là con người, ý thức ấy mới thực sự có ý nghĩa
nhân đạo.


Q trình giác ngộ cách mạng cùa vợ chồng A Phủ tiêu biểu cho con đường đến với
Đảng, với cách mạng của đồng bào các dân tộc ít người ở miền núi ta. Qua tác phẩm, nhà
văn gián tiếp khẳng định chỉ có cách mạng mới phóng con người ra khói ách áp bức, bất
công, giúp con người vươn tới cuộc tự do, hạnh phúc, cuộc sống làm người. Tơ Hồi khi
tái hiện bức tranh hiện thực với những bản chất của nó khơng thể khơng miêu tả q trình
vận động, quy luật của cuộc sống. Đấy là giá trị nhân đạo sâu xa của tác phẩm.


Qua việc miêu tả sô phận của hai nhân vật Mị và A Phủ, nhà văn đã sống lại trước mắt


người đọc cả quãng đời tăm tối, cơ cực của người dân miền núi dưới ách thống trị dã man
của bọn quan lại, chúa đất phong kiến. Đồng thời khẳng định chỉ có sự vùng dậy của bản
thân theo dẫn dắt của cách mạng giải phóng được con người ra khỏi kiếp ngựa trâu, nơ lệ.
Đó chính là giá trị hiện thực và nhân đạo to lớn của tác phẩm. Giá trị này giúp truyện
đứng vững trước thử thách của thời gian và vẫn được nhiều thế hệ bạn đọc yêu thích.
<b>Câu 4: Nhân vật Mị trong truyện Vợ chồng A Phủ là một thành công của Tơ Hồi trong</b>
việc xây dựng con người thức tỉnh. Hãy chứng minh nhận định ấỵ?


<i><b>Gợi ý trả lời</b></i>


Truyện Vợ chồng A Phủ trong tác phẩm Truyện Tây Bắc (1953) là thành cơng tốt đẹp
đầu tiên của Tơ Hồi sau Cách mạng tháng Tám. Qua cuộc đời tủi nhục đau khổ của Mị
và A Phủ hai nô lệ của thống lí Pá Tra ở Hồng Ngài, Tơ Hồi đã phản ánh nỗi thống khổ
của người Mèo trong chế độ cũ và sự vùng dậy của họ để giành lấy tự do, hạnh phúc, một
lòng đi theo cách mạng và kháng chiến.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

giành lấy tự do và hạnh phúc, xây dựng một cuộc sống có ý nghĩa. Cùng với nhân vật A
Phủ, ta thấy rõ nhân vật Mị là “con người thức tỉnh giàu ý nghĩa nhân văn.


Cuộc đời Mị đầy bi kịch. Mị xinh đẹp, thổi sáo hay, nhiều chàng trai Mèo mê “ngày đêm
đã thổi sáo đi theo Mị”. Nhưng hạnh phúc tuổi xuân khônp đến với người con gái đáng
thương này. Mẹ Mị đã mất. Nhà nghèo, bố Mị đã già món nợ truyền kiếp mỗi năm phải
đem nộp lãi cho chủ nợ một nương ngô đã trở thành sợi dây oan nghiệt đối với Mị. Mị đã
bị A Sử (con trai thống lí Pá Tra "cướp được” đem về cúng trình ma. Bố Mị chỉ cịn biết
cất lời than trong nước mắt: “Chao ơi! Thế là cha mẹ ăn bạc của nhà giàu từ kiếp
trước,giờ người ta bắt bán con trừ nợ. Không thể làm thể nào khác được rồi!”.


Mị chịu kiếp con dâu gạt nợ đau khổ, túi nhục vô cùng. Đêm nào MỊ cũng khóc tự
thương cho số phận mình, Mị phải chết, Mị phải tự tử bằng lá ngón hái được ở trong rừng
- Hình ảnh Mị: “hai trịng mắt cịn đỏ hoe”, quỳ lại, úp mặt xuống đất, nức nở, hình ảnh


bố Mị “cũng khóc” cất lời than... đã cho thấy được bi kịch đầy nước mắt! Mị muốn ăn lá
ngón tự tứ và Mị không cam chịu kiếp nô lệ trong thân phận con dâu gạt nợ. Mị muốn
được sống trong một cuộc đời đáng sống, sống có ý nghĩa làm người. Sống trong nô lệ và
tủi nhục Ai tự tử còn hơn. Phán kháng ấy tuy tiêu cực, nhưng cho thấy Mị đã ý thức về
nhân phẩm của mình. Ý thức về nhân phẩm, phủ định thực tại đen tối là biểu của con
người thức tỉnh.


Mị muốn chết mà khơng chết được. Mị chết nhưng nợ quan vẫn cịn, bố Mị yếu q rồi.
Ai có thể làm nương ngơ giả được nợ thống lí! Mị chỉ cịn khóc. Mị phải ném nắm lá
ngón xuống đất. “Mị khơng đành lịng chết... cịn phải trở lại nhà thống lí”. Mị cam chịu
kiếp nơ lệ con dâu gạt nợ vì thương bố. Mị hiếu thảo và giàu hi sinh biết bao!


Quá trình thức tỉnh của con người thức tỉnh là những năm dài đen tối, những tháng ngày
tủi nhục đắng cay. Mị cũng vậy. Nơi Mị ở là một cái kui mít như cái chuồng nhốt thú, chỉ
có một lỗ vng bằng bàn tay ra. Có lúc Mị nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ
vuông ấy mà ra “đến bao giờ chết thì thơi”. Nhan sắc, tuổi xn của Mị bị tước đoạt, xéo,
bị chà đạp. Mị bị bóc lột tàn nhẫn, phải làm quần quật quanh năm lên núi hái thuốc phiện,
bẻ bắp, hái củi, bung ngô... lúc nào cũng gài một bó đay trong tay để tước thành sợi. Có
lúc lại thấy Mị quay sợi bên tảng đá trước cửa cạnh tàu ngựa. Bó đay ấy, tảng đá ấy như
cái xiềng, cái xích, cái dây oan nghiệt đối với Mị. Mị bị áp bức mà trở nên tê liệt dần.
Khơng ăn lá ngón tự tử nữa. Mị “tưởng mình cũng là con trâu, cũng là con ngựa". Mị
“cúi mặt”, “mặt buồn rười rượi''. Mị cam chịu “ở lâu trong cá khổi Mị quen khổ rồi”. Gần
như vô cảm vơ hồn, lâu dần “Mị càng khơng nói, lùi lũi như con rùa ni trong xó cửa’’.
Thân phận Mị có khác nào cô gái Thái bị ép duyên trong truyện thơ Tiễn dặn người yêu:


<i>Ngẫm thân em chỉ bằng thân con bọ ngựa</i>
<i>Bằng con chẫu chuộc thôi...</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Con người thức tỉnh được hồi sinh không chi với ngoại cành mà cịn tự tâm hồn mình, ỷ
thức mình. Mị đã thức tỉnh với những đêm tình mùa xuân ờ Hồng Ngài. Tết đến, mùa


xuân làng Mèo làm cho hoa thuốc phiện “đỏ au" thêm rực rỡ, những chiếc váy hoa phơi
trên mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ Những cuộc vui chơi của trai gái, trẻ con như
đánh pao, đánh quay, thổi sáo, thổi khèn và nhảy múa diễn ra náo nhiệt trên sân trước
nhà. Và tiếng sáo tiếng khèn “rủ bạn đi chơi” làm cho Mị “thiết tha bổi hổi”. Mị nhẩm
theo tiếng hát, tiếng sáo vọng lại:


<i>... Ta khơng có con trai con gái</i>
<i>Ta đi tìm người yêu...</i>


Tiếng sáo lay gọi, thức tỉnh tâm hồn Mị. Mị lén lấy hũ rượu, “cứ uống ừng ực từng bát".
Uống cho tan nỗi hận! uống cho vơi đi bao đau khố chứa chất trong lòng! Say “lịm mặt”,
Mị “sống về ngày trước". Mị nhớ lại thời con gái, Mị thổi sáo bao người mê. Tiếng sáo
gọi bạn tình đã nhập vào hồn Mị, “tai Mị văng vẳng tiếng sáo. Mị đã thật sự hồi sinh và
hồi xuân. Mị tự ý thức là “Mị trẻ lắm. Mị vẫn trẻ”. Mị cảm thấy “phơi phới”, trong lòng
“đột nhiên vui sướng” như những đêm Tết ngày trước thời con gái. Mị muốn đi chơi Tết.
Khao khát được sống trong tình yêu hạnh phúc như ngọn lửa bùng cháy tâm hồn Mị.
Mị được thức tỉnh về cảnh ngộ. MỊ thấy vơ lí, bất cơng đến tàn nhẫn đến cay đắng. Bao
nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết. Mị với A Sứ “khơng có lịng với nhau mà
vẫn phải ở với nhau!”. Thật là trớ trêu! Mị muốn ăn lá ngón cho chết. Mị ứa nước mắt.
Tiếng sáo gọi bạn yêu đang “lửng lơ bay ngồi đường. Đó là tâm lí của Mị trong đêm
tình mùa xuân. Tiếng sáo lay tỉnh. Mị đang “vùng vẫy“ cố thoát cảnh ngộ đau khổ và tủi
nhục!


Mị đã phản kháng, đã hành động. Mị xắn mỡ bỏ vào đĩa đèn cho sáng. Với tay lấy váy
hoa, rút thêm cái áo, quấn lại tóc. Mị “sắp đi chơi". Hành động Mị ngang nhiên diễn ra
trước mắt thằng A Sứ. Mị chẳng thèm trả lời câu hỏi của hắn: “Mày muốn đi chơi à?”. Mị
đã bị thằng A Sử trói vào cột buồng bằng cả một thúng sợi đay. làm cho Mị “không cúi,
không nghiêng đẩu được nữa”. Mậc dù lúc mê lúc tinh, lúc khắp người “bị dây trói thít
lại, đau nhức", nhưng Mị vẫn “nồng nàn. tha thiết nhớ’, “vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi
theo những cuộc chơi, những đám chơi”. Điều đó cho thấy, Mị được thức tỉnh về tình


yêu, về hạnh phúc, khao khát của Mị rất mãnh liệt trong đêm tình mùa xn cho thấy
ngịi bút phân tích tâm lí và hành động Mị, con người thức tỉnh của Tơ Hồi rất tinh tế,
sâu sắc. Trang văn thấm đượm tinh thần nhân văn cao cả.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

đêm. Mỗi đêm, nghe tiếng phù phù thổi A Phủ “mở mắt”...; thấy ngọn lửa sưởi bùng lên,
A Phủ “trừng mắt”. Mị nhìn sang, rồi “thản nhiên” thổi lửa, hơ tay. Cho dù “nếu A Phủ là
cái xác chết đứng đấy, cũng thể thôi”. Tâm hồn Mị đã héo hắt, đã tàn lụi, đã giá lạnh đến
cùng cực! Thật đáng sợ.


Nhưng rồi cảnh ngộ, tình thướng và lịng căm thù đã thức tỉnh ý thức Mị, tâm hồn Mị.
Qua “ngọn lửa bập bùng”, MỊ “lé mắt trơng sang” Mị xúc động nhìn thấy “một dòng
nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm mắt đã xám đen lạị" của A Phủ. Mị nhớ lại đêm
năm trước, A Sử cũng trói đứng Mị như thế Mị khẽ thốt lên lời than: “Trời ơi!...”. Mị
nguyền rủa cha con thống lí: chúng nó thật độc ác”. Bao cảnh thương tâm đồng hiện
trong tâm hồn Mị: bắt trói đứng người ta đến chết, nó bắt mình chết cũng thơi, nó bắt trói
chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này”. Mị tự thương cảnh ngộ mình; thương
A Phủ trên bờ vực thẳm, khi tử thần đã gõ cửa: “Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia
chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết”. Mị nghĩ về thân phận mình, tưởng như là
cam chịu: “Ta là thân đàn bà, nó đã bát ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ cịn bỉếi đợi ngày
rũ xương ở đây thôi...”. Mị ý thức được A Phủ không thể chết, “việc gì mà phải chết thế”.
Con đường thức tỉnh của con người thức tỉnh là con đường vòng, có lúc ngập ngừng do
dự, có lúc quyết liệt. Mị cũng thế, Mị tưởng tượng A Phù trốn thoát, Mị sẽ bị trói trên cái
cọc oan nghiệt ấy! Đám than vạc hẳn lửa. Hình như bóng tối cho Mị sức mạnh, “trong
tình cảnh này, làm sao Mị cũng khơng thấy sợ...”.


Hành động của con người thức tỉnh là “hành động tự phủ định, hành động tự giải thoát"
(J.P.Sartre). Mị đã toan ăn lá ngón để tự tử, đó là ra lệnh: “.Rồi MỊ đứng lặng trong bóng
tối. Đó là “khoảnh khắc bi kịch”. Ở lại là chết trong đau đớn như người đàn bà nọ. Chạy
trốn cịn có thể sống Mị nói liên tiếp hai câu như kêu cứu và đuổi chạy theo A Phủ: “A
Phủ cho tôi đi…ở đây thì chết mất...”. Mị và A Phủ dìu nhau cùng chạy trốn đến Phiền


Sa khu du kích. Phiền Sa là chốn nương thân cho họ. Cách mạng và kháng chiến mới là
đất hứa, đất thánh cho người thức tỉnh. Mị cắt dây trói A Phủ cũng là tự cắt dây trói để
giải thốt mình. Như con chim sổ lồng,thốt khỏi bóng tối vươn tới ánh sáng, từ nơ lệ tủi
nhục mà giành dược tự do, hạnh phúc, cùng với A Phủ nên vợ nên chồng, rồi trở thành
chiến sĩ du kích.


Mị là nhàn vật thức tinh. Tơ Hồi đã phân tích tinh tế, sâu sắc mọi diễn biến về tâm lí và
hành động Mị trong q trình thức tỉnh với tất cả sự thương xót và đồng cảm sâu sắc. Mị
là nhân vật thức tỉnh có sức mạnh phản kháng và sức sống tiềm tàng. Nhân vật Mị đã góp
phần thể hiện giá trị nhân văn của truyện Vợ chồng A Phủ.


Và ta càng thấm thía về cái giá của tự do. Cái mùi vị của tự do là “cái vị ngọt ngào và có
mùi tanh đồng” như Hêminguê đã nói.


<b>Câu 5: Sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong truyện Vợ chồng A Phủ.</b>


<i><b>Gợi ý trả lời</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

Hồi đã từng nói: “Tơi coi Việt Bắc, Tây Bắc cũng như một quê hương đề tài của tôi...”
(Văn nghệ số 14/10/1995). Tập truyện Tây Bắc là nét son chói lọi đầu tiên của sự nghiệp
văn chương Tơ Hồi viết về đề tài miền Tây. Một chuyến đi dài, Tơ Hồi theo bộ đội vào
giải phóng Tây Bắc(1952) . Ơng đã viết thành cơng tác phẩm Truyện Tây Bắc, trong đó
có truyện Vợ chồng A Phủ. Qua truyện ngắn này, Tơ Hồi đã phản ánh nỗi thống khổ và
sự vùng dậy của người Mèo ở Tây Bắc, một lòng quyết tâm đi theo kháng chiến để giành
lấy tình yêu, hạnh phúc.


Những trang viết về Mị - một trong hai nhân vật chính của truyện là vơ cùng cảm động.
Mị tuy bị chà đạp, bị giày xéo trong bể khổ cuộc đời, nhưng cơ có một sức sống tiềm tàng
ki lạ! Mị là một cô gái trẻ và đẹp, duyên dáng, hiếu thảo, thổi sáo hay, “có biết bao người
mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”. Nhà nghèo, năm nào Mị cũng phải trả nợ lãi một


nương ngơ cho thống lí Pá Tra. Bố đã già, Mị thương bố lắm. Cơ đã nói với bố: “Con nay
đã biết cuốc nương ngô, con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con
cho nhà giàu”. Món nợ truyền kiếp mà bố Mị vay của thống lí như một oan trái cuộc đời.
Mị đã bị A Sử con trai thống lí đánh lừa bắt về cúng trình ma. Mị trờ thành con dâu gạt
nợ... Đau xót q! “Chao ơi! Thế là cha mẹ ăn bạc của nhà giàu từ kiếp trước, bây giờ
người ta bắt bán con trừ nợ. Không thể làm thế nào khác được rồi!”. Tiếng than của bố
Mị nói lên một sự thật cay đắng: Mị là con dâu gạt nợ của thống lí Pá Tra - điều đó như
một định mệnh bi thảm!


Những năm đằng đẵng làm dâu gạt nợ, Mị bị đối xử hết sức tàn tệ, chẳng khác gì một con
vật. Phải làm quần quật quanh năm, suốt tháng. Lên núi hái thuốc phiện, giặt đay, xe đay,
đi nương bẻ bắp, lúc hái củi bung ngô, lúc nào Mị cũng phái gài một bó đay trong cánh
tay để tước thành sợi. Mị chẳng khác nào con trâu, con ngựa nhà thống lí. Khổ cực quá
chừng: “Con ngựa, con trâu làm cịn có lúc, đêm nó cịn được đứng gãi chân, đứng nhai
cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả đêm cả ngày”.


Tuổi trẻ, sắc đẹp của Mị bị tước đoạt, vùi dập. Cô như một đóa hoa rừng chóng héo tàn,
lúc nào cũng “cúi mặt, mặt buồn rười rượi'’. Buồng Mị ở như một cái chuồng nhốt thú,
kín mít, tối om, chỉ có một lỗ nhỏ bằng bàn tay, nhìn ra ngồi “chí thấy trăng trắng,
không biết là sương hay là nắng”. Đau khổ quá “Mị nghĩ rằng mình cứ chi ngồi trong cái
lỗ vng ấy mà trơng ra, đến bao giờ chết thì thôi!’’. Nỗi ám ảnh ấy thật ghê sợ. Mị như
một linh hồn chết.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

ngựa “chi biết ăn cỏ, biết đi làm mà thôi!”. Một đời con gái, một kiếp người bị vùi dập
đến tê dại như thế thì sự đau khổ đã tột cùng rồi!


Một bất ngờ khác lại đến với người đọc. Lần thứ hai, Mị lại vùng dậy. Ngày Tết đến, Mị
đã lén lấy hũ rượu “uống ừng ực từng bát” rồi say, “lịm mặt’' ngồi xem bọn nhảy đồng,
người hát, nhưng “lịng Mị thì đang sống về ngày trước”. Con gái vùng rẻo cao, ai mà
chẳng uống rượu? Chắc là Mị đã từng uống rượu, nhưng cách uống rượu “ừng ực từng


bát” thì đây là lần đầu tiên. Mị uống cho quên hết mọi đau khổ? Mị uống cho hả giận?
Hay Mị mượn bát rượu để thức tỉnh lịng mình sống lại cùng với mùa xuân, với những
đêm tình mùa xuân thời con gái? Nếu những năm tháng đã qua, bếp lửa và ngọn lửa đã
sưởi ấm lịng Mị, đã làm ngi đi, vơi đi bao đau nhục cuộc đời, thì giờ đây, tiếng sáo,
tiếng hát của trai gái Mèo tha thiết gọi bạn tình đã khơi dậy trong lòng Mị bao khao khát:


<i>Anh ném pao, em không bắt</i>
<i>Em không yêu, quả pao rơi rồi...</i>


Đã tự ý thức về mình. Mị thấy lịng phơi phới, vui sướng như thời cịn trẻ bước vào
những đêm tình mùa xn. Mị thấy mình "trẻ lắm... vẫn cịn trẻ”. Mị thấy mình cơ đơn.
Mị phải đi chơi. Bao nhiêu cơ gái khác đã có chồng vẫn đi chơi . Thật là vơ lí, hơn nữa
Mị thấy mình với A Sử “khơng có lịng với nhau vẫn phải ở với nhau’’. Mị khóc. Mị
thương mình đau khổ. Mị ghê tởm thằng A Sử “cịn muốn rình bắt mẩy người con gái
nữa về làm vợ...” Mị muốn ăn lá ngón cho chết ngay! Một sức sống tiềm tàng trong lòng
Mị như hòn than hồng âm ỉ cháy. Bạo lực, Mị cũng chẳng sợ. Mị xắn mỡ bỏ vào đĩa đèn
cho sang rồi cơ quấn lại tóc, với lấy váy hoa, rút thêm cái áo, chuẩn bị đi chơi hành động
Mị diễn ra trước mắt thằng A Sứ. Như thách thức. Không trả lời khi hắn hỏi: “Mày muốn
đi chơi à?”. Sự vùng dậy của Mị lần này lại phải trả giá! Thằng con trai của nhà thống lí
vơ cùng tàn ác đã trói đứng Mị trong buồng tối bằng một thúng sợi đay và cịn quấn cả
tóc Mị lên cột làm cô 'không cúi không nghiêng được đầu nữa”. Nhưng sức sống vẫn
tiềm ẩn trong người con gái Mèo này. Suốt đêm bị trói đứng “dây trói thít lại, đau nhức
lúc mê lúc tỉnh, Mị “nồng nàn tha thiết nhớ” và cô bồi hồi: “Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa
Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi". Tâm trí Mị chập chờn “có lúc vùng bước
đi”, nhưng bị trói, đi sao được? Nghe tiếng ngựa gãi chân, nhai cỏ “Mị thổn thức nghĩ
mình khơng bằng con ngựa”.


Chúng ta đã từng đọc truyện thơ Tiễn dặn người yêu trong đó cô gái Thái bị ép duyên đau
khổ than thân: “Ngẫm thân em chỉ bằng thân con bọ ngựa — con chẫu chuộc thơi...”. Nỗi
cay đắng của MỊ cịn gấp trăm gấp nghìn lần thế! Được cởi trói do một sự tình cờ, cơ lại


phải vào rừng hái lá thuốc,đêm ngồi hầu hạ, xoa thuốc dấu cho A Sử. Đau ê ẩm, mỏi quá,
Mị “gục đầu thiếp đi” lại bị tên khốn kiếp “đạp chân vào mặt”. Tơ Hồi đã ghi lại một
cách cảm động sự vùng dậy lần thứ hai của Mị với bao vùi dập, đau đớn MỊ vẫn chưa gục
ngã trước số phận!


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

vì tội để hố bắt mất bị đã bị Pá Tra trói vào cọc bằng một cuộn dây mây, “quấn từ chân
lên vai, chỉ còn cổ và đầu hơi lúc lắc được”. Làm sao bắt được con hổ? A Phủ nhất định
bị thế mạng. Suốt mấy ngày đêm bị trói “A Phủ chỉ đứng nhắm mắt” Má A Phủ đã xám
lại. A phủ sắp chết! Giữa đêm khuya từ bếp lửa nhìn sang, Mị nhìn những giọt nước lăn
bị trên má A Phủ mà xót xa, động lịng: “Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết...”.
Mị căm thù nguyền rủa cha con thống lí: “Chúng nó thật độc ác…Người kia việc gì mà
phải chết thế”. MỊ khơng cịn biết sợ hãi nữa. Cô đã dùng dao nhỏ cắt lúc, cắt nút dây
mây, cởi trói cho A Phủ, cứu thốt A phủ như một lời khích lệ: “Đi ngay!”. Mị đã vùng
chạy theo A Phú. Cơ đã nói:” A phủ cho tơi đi... ở đây thì chết mất!”. Lương tâm thức
tỉnh. Mị cứu A Phủ và cũng là tự cứu mình. Thật là dữ dội và khủng khiếp. Tình huống
truyện tạo nên tính bi kịch của số phận. Bao nhiêu máu và nước mắt, Mị mới giành được
tự do. Mị thương người, tự thương mình. Khát vọng về tự do và hạnh phúc, là nguồn sức
mạnh vùng dậy cua Mị.


Trốn khỏi Hổng Ngài, Mị và A Phủ đi suốt một mùa mưa, vượt qua những triền núi đá tai
mèo, họ nên vợ nên chồng khi đến khu du kích Phiềng Sa. Hành động cắt dây trói cứu A
Phủ và cùng A Phủ chạy trốn là điểm đỉnh sự vùng dậy của Mị là sự thể hiện sức sống
tiềm tàng của người con gái Mèo trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ. Khát vọng về tự
do, hạnh phúc, về quyền sống của con người đã cho nhân vật Mị nhiều sức mạnh đế vùng
dậy. Sức sống tiềm tàng cùa Mị đủ khẳng định một chân lí: Bạo lực khơng đè bẹp được
khát vọng tự do! Sức sống tiềm tàng của Mị mang tính điển hình sâu sắc, thể hiện một
cách cụ thể, chân thực và sống động cho sự vùng dậy của người Mèo trên con đường đi
tìm hạnh phúc, tự do và họ đã đến với cách mạng và kháng chiến.


Nhân vật mị được nhà văn Tơ Hồi niiêu tả và khám phá trong chiều sâu tâm hồn, trong


những biến thái “thăng trầm, gấp khúc” của tâm trạng. Miêu tả thành công sức sống tiềm
tàng của nhân vật Mị, ngòi bút nghệ thuật của Tơ Hồi đã làm cho truyện ngắn Vợ chồng
A Phủ sáng bừng giá trị nhân đạo. Người đọc mãi mãi thấm thía về cái giá của tình u
tuổi trẻ và hạnh phúc, tự do.


<b>Câu 6: Phân tích hai nhân vật Mị và A Phủ giai đoạn ở Hồng Ngài trong Vợ chồng A</b>
Phủ của Tơ Hồi để làm nổi bật giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm.


<i><b>Gợi ý trả lời</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

bảo vệ đất nước. Như vậy, phản ánh hiện thực, tác phẩm Vợ chồng A Phủ đã chọn hai đề
tài chính: đề tài về cuộc sống bị áp bức, tủi nhục của người dân miền núi dưới chế độ nô
lệ thực dân và cùng với nó là bộ mặt tàn bạo của bọn “thổ ti lang đạo” cuối cùng là đề tài
về sự thức tỉnh của đồng bào các dân tộc vùng cao Tây Bắc vùng dậy chiến đấu để giải
phóng và tự giải phóng.


Trước hết, Vợ chồng A Phủ là một bức tranh chân thực về số phận bi thảm của người dân
nghèo miền núi dưới ách áp bức của bọn chúa đất phong kiến thực dân được phản ánh
qua cuộc đời Mị và A Phủ.


Mị là một có gái trẻ đẹp, giàu lòng yêu đời, chăm chỉ và hiếu thảo. Mị đã từng được u
và có những đêm tình mùa xn hạnh phúc. Nhưng vì món nợ truyền kiếp của cha mẹ mà
Mị bị cướp về làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Mị bị biến thành nông nô, bị
chà đạp cả về nhân phẩm lẫn thể xác Quãng đời sống trong nhà thống lí là một quãng đời
đau thương, tăm tối, áp bức nặng nề đã biến một cô gái hồn nhiên, đa cảm thành hiện
thân của nhẫn nhục, cam chịu. Mị sống câm lặng lầm lũi, quanh năm vùi đầu vào những
công việc khổ sai. Mị cịn bị ràng buộc bởi mê tín thần quyền. Một khi đã đem ra “cúng
trình ma” thì người đàn bà phải tn theo sự trói buộc vơ hình suốt cả một đời. Cho nên,
biết khổ, biết nhục, biết mình bị đày đọa nhưng khơng dám phản kháng chống lại sự đày
đọa khổ nhục ấy. Hơn nữa, những con người như Mị thật bé nhỏ trước thế lực tàn bạo của


cường quyền. Bị giam hãm trong “địa ngục trần gian'’ của nhà thống lí Pá Tra, Mị chết
mịn theo ngày tháng, Mị “lúc nào cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”, “ lùi lũi như như
con rùa nuôi trong xó cửa”. Bị cầm tù trong ngục thất tinh thần, Mị khơng cịn nhớ đến cả
tuổi của mình nữa, Mị đang bị tê liệt dần cả về cảm xúc, ý thức, tâm hồn, tình cảm. Cái
ác của bọn thống trị là khơng những bóc lột -. đày đọa con người về vật chất, thể xác mà
còn giết chết dần ở con người những giá trị nhân bản tốt đẹp. Con người bị biến thành
công cụ, thành những con vật chịu sự sai khiến.


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

nhân phẩm của họ. Việc A Phủ bị bắt làm nô lệ nhà thống lí Pá Tra càng tăng thêm sức tố
cáo của tác phẩm.


Hết ngày này qua ngày khác, A Phủ phải làm việc cật lực, chăn dắt đàn bò, hàng mấy
chục con. Chẳng may một con bò bị hổ vồ mất, A Phủ bị đánh trói vào cột chờ chết.
Trong tay bọn thống trị. tính mạng con người thật bằng một con vật.


Cuộc đời nô lệ khổ đau của Mị và A Phủ là điển hình cho thân phận người nghèo miền
núi dưới chế độ cũ. Bần cùng hóa con người, chà đạp lên nhân phẩm đối xử với con
người không bằng con vật, đó là bản chất của chế độ “thổ ti lang đạo”.


Giá trị hiện thực của tác phẩm còn thể hiện trong những nội dung miêu tả cảnh tàn bạo
của bọn chúa đất phong kiến và bè lũ thực dân. Điều này được thể hiện sâu sắc qua hình
ảnh cha con thống lí Pá Tra trong mối quan hệ với Mị và A Phủ.


Nhà Pá Tra giàu có. nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuôc phiện. Hắn làm giàu bằng việc
bóc lột sức lao động, bằng chế độ lao dịch, bằng cho vay lãi nặng rồi bắt người ta để trừ
nợ. Cha con thống lí cịn rất nhẫn tâm. Tơ hồi đã rất nhiều lần nói tới cảnh đánh người,
trói người của Pá Tra và A Sử bằng những chi tiết rất thực:” A Sử lầm lì trói đứng Mị vào
cột nhà, tóc Mị xõa xuống, A Sử cuốn ln tóc lên cột rồi y tắt đèn, đóng cửa lại.” Cái kĩ
càng rành rẽ trong hành động biểu hiện sự tàn ác tới thản nhiên của A Sử. Mị phải thức
suốt đêm xoa thuốc dấu cho A Sử, mỗi lần buồn ngủ quá thiếp đi “ A Sử bèn đạp chân


vào mặt Mị”, Thống lí pá tra thì quyết định trói A Phủ cho tới chết , mà trói như thế nào?
A Phủ phải mang dây cho thống lí trói từ chân lên tận đầu. Không chỉ tàn ác thản nhiên
chúng còn phản dán hại nước cấu kết với thực dân làm giàu để áp bức bóc lột người dân.
Dưới thời phong kiến thực dân bọn lang đạo chúa đất ở vùng cao mặc sức làm mưa làm
gió.


Phản ánh hiện thực khốn khổ của nhân dân Tây Bắc Tơ Hồi khơng tơ vẽ khơng nói q
sự thật. Tất cả đều được hiện lên như một bức tranh chân thực sống động. Tài năng và
cũng là đóng góp của Tơ Hồi là đã làm cho bức tranh hiện thực về miền núi cao Tây Bắc
trở nên hết sức phong phú với những chi tiết phong phú và sinh động về cuộc sống con
người. Đó là vì Tơ hồi có một thời gian đi thực tế và cũng ăn cùng sống với nhân dân
nên mới có một vốn sống thực tế đáng quí như thế.


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

Nhưng những giây phút trỗi dậy ấy có ý nghĩa thức tỉnh để dẫn tới hành động cắt dây trói
giải cứu A Phủ ở đoạn tiếp đó.


Trước cảnh A Phủ bị trói, bắt gặp “ dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám
đen lại” Mị thốt lên trong lịng”Trời ơi! Nó bắt trói người ta đến chết. Chúng nó thật độc
ác.”. giọt nước mắt tuyệt vọng của A Phủ đã đánh thức tình thương trắc ẩn của Mị, cùng
với những phản kháng âm ỉ đã dẫn Mị tới hành động táo bạo: cắt dây trói cứu A Phủ và
vùng chạy theo A Phủ. Đây là hành động cứu người và tự cứ mình của Mị.


Nhà văn đã rất thấu hiểu nỗi khổ của người dân miền núi, từ đó thấy được sự thức tỉnh,
sự vùng dậy của họ, trước hết là thốt khỏi dây trói của cường quyền và thần quyền. Rồi
họ dừng lại ở Phiềng Sa, thành vợ chồng và đi theo cách mạng.


Quá trình giác ngộ cách mạng của vợ chồng A Phủ. Tiêu biểu cho con đường đến với
Đảng, đến với cách mạng của đồng bào các dân tộc ít người ở miền núi Tây Bắc. Tơ Hồi
khi tái hiện bức tranh hiện thực với những nét bản chất của nó, khơng thể khơng miêu tả
q trình vận động mang tính qui luật của cuộc sống. Đây cũng là giá trị nhân đạo và tiến


bộ của Vợ chồng A Phủ.


<b>Câu 7: Trong bóng tối, Mị đứng im lặng... nghĩ mình khơng bằng con ngựa. Phân tích</b>
đoạn văn, nêu cảm nhận về nhân vật Mị (số phận, sức sống) và về ngòi bút miêu tả tinh
tế, sâu sắc của Tơ Hồi.


<i><b>Gợi ý trả lời</b></i>


Nếu đoạn đời sống trong địa ngục trần gian ở Hồng Ngài là sự giao tranh âm ỉ quyết liệt
giữa số phận bi thảm và sức sống tiềm tàng của Mị, thì cảnh Mị bị A Sử trói đứng vào cột
nhà trong bóng tối có thể xem như là hình ảnh thu nhỏ cơ đúc và thấm thía của cuộc giao
tranh đó. Chỉ có điều nó lại diễn ra trong tâm trạng chập chờn nửa mê, nửa tỉnh của cơ
gái, và Tơ Hồi, như đã nhập thân vào nhân vật để viết nên một đoạn văn thật tinh tế, sâu
sắc “Trong bóng tối... khơng bằng con ngựa”.


Giữa đoạn văn là một câu rất ngắn, chỉ có bốn chữ: Mị vùng bước đi Trên là âm thanh
tiếng sáo, dưới là tiếng chân ngựa. “Mị vùng bước đi” như một cái bản lề khép mở hai thế
giới, hai tâm trạng: thế giới của ước mơ với tiếng sáo rập rờn trong đầu và thế giới của
hiện thực với tiếng chân ngựa đạp vào vách, tâm trạng của một cô Mị đang mê man chập
chờn theo tiếng sáo gọi bạn tình. Tình và tâm trạng của một cơ Mị đã tỉnh đang “thổn
thức nghĩ mình khơng bằng con ngựa”. Thật cơ đúc mà thấm thía. Kiệm lời mà hàm chứa
biết bao ý nghĩa.


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

còn nồng nàn, trong đầu Mị vẫn rập rờn tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những
đám chơi. “Em không yêu, quả pao rơi rồi Chính cái tiếng sáo ấy đã gọi Mị vùng bước đi
về với cuộc sống thật của mình đã bị cướp mất trong cái địa ngục trần gian này. Mới biết
sức sống tiềm tàng, mãnh liệt đến nhường nào. Sức sống ấy khiến cô quên đi tất cả sự
thực xung quanh, khơng thấy, khơng nghe A Sử nói, khơng biết cả mình đang bị trói chỉ
cịn biết có tiếng sáo, chỉ còn sống với tiếng sáo, mê man chập chờn - trong tiếng sáo.
Xây dựng nên cái tâm trạng mê man như một kẻ mộng du đi theo tiếng sáo. Tơ Hồi đã


nói lên rất rõ và sâu sắc cái sức sống mãnh liệt đang trào dâng trong lịng cơ lúc bấy giờ.
Và tiếng sáo đã thành một biểu trưng sâu sắc và gợi cảm cho ước mơ và sức sống của Mị.
Tiếng chân ngựa: hiện thực - số phận của Mị “Mị vùng bước đi”. Nhưng tay chân đau
không cựa được. Tiếng sáo tắt ngay ước mơ tan biến, và hiện thực trần trụi, phũ phàng
hiện ra: chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đập vào vách. Mị đã tỉnh hẳn khi dây trói thít chặt
lại, đau nhức, và cay đắng nhận ra số phận của mình khơng bằng con ngựa. Cái dây trói
kia chỉ làm đau thể xác. nhưng cái tiếng chân ngựa này mới thực sự xốy sâu vào nỗi đau
tinh thần của Mị khi nó gợi lên một sự so sánh thật nghiệt ngã, xót xa: thân người mà
không bằng thân trâu ngựa?! Tiếng chân ngựa đá vào vách một biểu trưng giàu ý nghĩa
cho hiện thực và số phận của Mị.


Với ngòi bút miêu tả tinh tế, sâu sắc của Tơ Hồi trong miêu tả tâm trạng nhân vật ở hai
cảnh đối lập nhau: mê man chập chờn theo tiếng sáo như một kẻ mộng du dẫn đến hành
động “vùng tỉnh lại và cay đắng xót xa “thổn thức nghĩ mình khơng bằng con ngựa hai
tám trạng ấy tiếp nối nhau trong sự phát triển biện chứng để hoàn chỉnh chân dung và số
phận nhân vật. Sâu sắc trong những chi tiết giàu ý nghĩa, đặc biệt là hai biểu trưng “ tiếng
sáo” và “tiếng chân ngựa” đối lập nhau và đầy ấn tượng.


Đoạn văn ngắn mà bật nối được bức tranh tối - sáng của nhân vật (số phận và sức sống)
một cách sinh động, gợi cảm và có chiều sâu, khiến ta càng hiểu thêm nhân vật, bút pháp
Tơ Hồi và nhất là tấm lòng đồng cảm yêu thương của nhà văn đối với nhân vật của
mình. Đó là một trong những đoạn văn hay nhất, in đậm phong cách Tơ Hồi trong
truyện ngắn này.


<b>Câu 8: Phân tích nhân vật Mị trong truyện Vợ chồng A Phủ của Tơ Hồi</b>


<i><b>Gợi ý trả lời</b></i>


Tơ Hồi là nhà văn Hà Nội, sinh năm 1920, tự học mà thành tài. Khi bước vào tuổi “xưa
nay hiếm”, ơng đã có gần 200 tác phẩm. Trang văn xuôi của ông giàu chất thơ; ông viết


hay về phong tục sinh hoạt, có tài tả cảnh với lối kể chuyện sinh động, hóm hỉnh, đậm đà.
Ơng viết thành cơng về truyện thiếu nhi, đề tài miền núi. Dế Mèn phiêu lưu kí, Truyện
Tây Bắc, Tuổi trẻ Hồng Văn Thụ, Miền Tây... là những tác phẩm đặc sắc của ông được
bạn đọc gần xa rất thích.


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

và sự vùng dậy của họ để giành lấy tự do, hạnh phúc- một lịng quyết tâm đi theo kháng
chiến.


Truyện gồm có hai phần:


Phần 1: Mị và A Phủ ở Hồng Ngài.


Phần 2: Mị và A Phủ ở khu du kích Phiềng Sa. Phần thứ nhất là cảm động nhất. khi tác
giả nói về bi kịch và sự vùng dậy của nhân vật Mị.


Cuộc đời của Mị đầy nước mắt. Khi Mị biết cuốc nương, thì mẹ Mị mất rồi, bố Mị đã già.
Món nợ truyền kiếp đang đè nặng lên tâm hồn Mị rồi hai bố con Mị cũng phải trả nợ lãi
một nương ngơ cho thống lí Pá tra. Mị làm nương giỏi, thổi sáo hay,nhiều chàng trai mê
ngày đêm thổi sáo đi theo Mị. Hạnh phúc, tình yêu và tuổi xuân của Mị đã bị chà đạp. Mị
đã bị A Sử- con trai Pá Tra bắt cóc đem về “cúng trình ma”. Mị trở thành con dâu gạt nợ
nhà thống lí. Bố Mị chỉ cịn biết khóc và cất lời than: ''Chao ôi! cha mẹ ăn bạc của nhà
giàu từ kiếp trước, bây giờ người ta bắt bán con trả nợ. Không thể làm thể nào khác được
rồi!”.Mị thành con dâu gạt nợ của nhà thống lí Pá Tra từ cái Tết ấy... Bố Mị đã già, lại
càng cô đơn khi Mị trở thành con trâu, con ngựa nhà thống lí. Như hoa xuân chưa kịp nở
đã bị héo tàn, Mị đau khổ quá chừng “Mặt buồn rười rượi”


Nơi Mị ở là một cái buồng “kín mít” chỉ có một ơ cửa sổ bằng bàn tay trơng ra ngồi chỉ
thấy trăng trắng, không biết là sương hay nắng! Mị phải làm quần quật suốt đêm ngày,
lúc hái củi, lúc bung ngô. lúc đi nương, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để
tước thành sợi. Bao giờ cũng thế suốt năm suốt đời như thế! Đau khổ quá, Mị như kẻ vô


cảm vô hồn, ngày ngày “Càng khơng nói, lùi lũi như con rùa ni trong xó cửa”.


Bao mùa xn đã trơi qua, Mị tưởng mình cũng như con trâu con ngựa “chỉ biết việc ăn
cỏ, biết đi làm mà thôi”. Như một linh hồn chết “Mị cúi mặt khơng nghĩ ngợi nữa". Hình
ảnh Mị cúi mặt quay sợi đay bên tảng đá, đầy án ảnh. gợi lên trong lịng ta nhiều thương
xót mênh mơng về một kiếp người oan khổ - con dâu gạt nợ!


Mị là một người con hiếu thảo, giàu đức hi sinh. Hàng tháng trời, đêm nào Mị cũng khóc.
Mị khơng muốn làm kiếp con dâu gạt nợ. Mị phải ăn lá ngón để tự tử. Mị trốn về nhà,
quỳ lạy bố’ “úp mặt xuống đất, nức nở”. Mị chết nợ quan vẫn còn, bố đã già, đã ốm yếu
quá rồi, lấy ai làm nương giả được nợ? Mị không nỡ chết! Mị khơng thể chết! Thương bố
đã già yếu. Mị chết thì bố Mị “còn khổ hơn bao nhiêu lần bây giờ nữa". Quẳng nắm lá
ngón xuống đất, Mị nghe bố nói, bưng mặt khóc, Mị đành trở lại nhà Thống lí, chịu mọi
cay cực, đau khổ. Thương cha mà Mị nhận hết mọi đau khổ về| mình. Lịng hiếu thảo,
đức hi sinh của người con gái vùng rẻo cao thật là đẹp đáng quý trọng.


Cứ tưởng rằng “ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Nhưng Mị còn trẻ .Tết lai đến,
ngồi đầu núi đã có ai đó “thổi sáo rủ bạn đi chơi”. Nghe tiếng vọng lại. Mi “Thiết tha
bồi hồi”. Những đêm tình mùa xuân đã tới. Mị nhẩm thầm bài hát của người đang thổi
sáo:


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

<i>Ta đi tìm người yêu</i>


Mị “nổi loạn” lén lấy hũ rượu “cứ uống ừng ực từng bát”. Mị say, ngồi lịm mặt... Mị nhớ
lại thời con gái. Mị thấy lòng mình “phơi phới trở lại”, rồi đột nhiên “vui sướng như
những đêm tết ngày trước”. Tiếng sáo, tiếng hát gọi bạn tình của trai gái làng Mèo đã
“đánh thức” bao nỗi khát khao về tình yêu hạnh phúc của người phụ nữ bất hạnh này! Mị
có ý thức mãnh liệt: “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi...”. Có biết bao người
có chồng cịn đi chơi ngày tết. Mị cav đắng nghĩ đến thân phận mình: “A Sứ với Mị
khơngc có lịng với nhau mà vẫn phải ở với nhau”. Nước mắt Mị ứa ra. Nếu có nắm ngón


trong tay. Mị sẽ ăn cho chết ngay! Tiếng sáo gọi bạn yêu lại làm lòng Mị bồi hồi:


<i>Anh ném pao, em không bắt</i>
<i>Em không yêu, quả pao rơi rồi.</i>


Mị xắn mỡ bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng. Mị quấn lại tóc. Mị với tay lấy cái váy hoa...
những hành động ấy diễn ra ngay trước mặt thằng A Sử. Mị phải trả giá đau đớn. Thẳng
A Sử đã trói đứng Mị suốt đêm trong buồng bằng thúng sợi đay. Hắn cịn quấn ln tóc
lên cột, làm cho Mị “không cúi, không nghiêng đầu được nữa”. Suốt đêm, Mị “lúc mê,
lúc tỉnh”. Mị sợ quá, cựa quậy xem mình cịn sống hay đã chết”. Có lúc Mị “vùng bước
đi” chập chờn theo tiếng sáo. nhưng chân tay đang bị trói “đau khơng cựa được”, “đau
nhức”, “đau đứt từng mảnh thịt”. Nghe tiếng ngựa nhai cỏ, gãi chân, Mị đau khổ thổn
thức nghĩ mình khơng bằng con ngựa”.


Tơ Hồi miêu tả tâm trạng, phân tích tâm lí của Mị một cách sâu sắc tinh tế qua tiếng sáo
đêm tình mùa xuân. Mị khao khát tình yêu, khao khát hạnh phúc biết bao! Mị có một sức
sống tiềm tàng mãnh liệt. Ông đã vạch trần bộ mặt ghê tởm của thằng A Sử và chỉ rõ:
việc bắt Mị làm con dâu gạt nợ là một tệ nạn xã hội vô cùng dã man. Hành động “nổi
loạn” của Mị đã cho thấy khơng có uy quyền nào, con ma nào có thể làm lụi tàn được, vùi
dập được nỗi khát khao tình u, hạnh phúc trong lịng người phụ nữ trẻ, người con dâu
gạt nợ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

thống lí: “Chúng nó thật độc ác!”. Mị vừa lo vừa sợ phải thế mạng cọc ấy một khi A Phủ
trốn thoát. Nghĩ thế, trong tình cảnh này “làm sao Mị cũng khơng thấy sợ...”. Bếp lửa tàn,
nhà tối bưng, Mị như có thêm sức mạnh, Mị dùng dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây, cởi
trói cho A Phủ. Một cảnh dữ dội khủng khiếp xảy ra. Như ra lệnh, Mị giục A Phủ: “Đi
ngay!” rồi Mị nghẹn lại.A Phủ vùng chạy! Mị đứng lặng trong bóng tối, Mị bẵng đi nói
thở trong hơi gió lạnh buốt: “A Phủ cho tơi đi!... ở đây thì chết mất!”. A Phủ chỉ kịp nói
với người đàn bà chê chồng vừa cắt dây trói cứu mình: “Đi với tôi!”. Mị và A Phủ cùng
nhau chạy trốn khỏi Hồng Ngài “cái đêm hơm ấy, đêm gì?”. Đó là cái hãi hùng mà rất


đáng nhớ đối với Mị và A Phủ.


Hành động Mị cắt dây trói cứu A Phủ rồi cùng chạy trốn là một tình huống dữ dội phản
ánh bước nhảy vọt về ý thức và tâm lí của nhân vật Mị. Mị vừa cứu mình, vừa thương
người, Mị căm thù cái ác đã chà đạp lên cuộc đời . Mị cắt dây trói cứu A Phủ cũng là cắt
đứt. sợi dây oan nghiệt đã biến người thành nô lệ súc vật nhục nhã, đau thương. Mị đã
giành được tự do và hạnh phúc. Mị và A Phủ nên vợ nên chồng. Mị có một sức sống tiềm
tàng kì lạ!


Nhân vật Mị trong truyện Vợ chồng A Phủ là một thành cơng của Tơ Hồn Mị là một cơ
gái dun dáng, hiếu thảo giàu tình thương và có một sức sống tiềm tàng mạnh mẽ. Tính
cách Mị được miêu tả trong quá trình phát triển theo quy luật cuộc sống. Mị chỉ biết
khóc, Mị ăn lá ngón... Mị lầm lũi... Mị khao khát hạnh phúc, tình yêu. Tâm hồn Mị được
hồi sinh, được đánh thức cùng mùa xuân cùng tiếng sáo gọi bạn tình trong đêm tình mùa
xuân. Mị bị trói, bị vùi dập. Mị đã vùng lên cắt dây trói cứu A Phủ rồi cùng chạy trốn. Đó
là trang đời đầy máu và nước mắt của Mị, là bi kịch và sự vùng dậy của người con gái
trong thân phận con dâu gạt nợ ở vùng rẻo cao ngày xưa. Cuộc đời của Mị đã từ đau
thương, nô lệ trở thành con người hạnh phúc, tự do.


Sự đổi đời của Mị đã tô đậm giá trị nhân đạo của truyện Vợ chồng A Phủ từ tủi nhục cay
đắng của kiếp con dâu gạt nợ. Mị đã vùng dậy giành được tự do, hạnh phúc. Cái hương vị
cuộc đời ấy thật đáng quý và đáng giá biết bao Tơ Hồi đã dành cho nhân vật Mị sự cảm
thương sâu sắc đầy tình người.


<b>Câu 9: Sức sống tiềm tàng cửa nhân vật Mị trong truyện Vợ chồng A Phủ</b>


<i><b>Gợi ý trả lời</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

Những trang viết về Mị - một trong hai nhân vật chính của truyện là vô cùng cảm động.
Mị tuy bị chà đạp, bị giày xéo trong bể khổ cuộc đời, nhưng cô đã có một sức sống tiềm


tàng kì lạ!


Mị là một cơ gái trẻ và đẹp, duyên dáng, hiếu thảo, thổi sáo hay, “có biết bao nhiêu người
mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”. Nhà nghèo, năm nào bố Mị cũng phải trả nợ lãi
một nương ngơ cho thống lí Pá Tra. Bố đã già, Mị thương bố lắm. Cô đã nói với bố: “Con
nay đã biết cuốc nương ngơ, con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố. Bố đừng bán
con cho nhà giàu”. Món nợ truyền kiếp mà bố Mị vay của thống lí như một oan trái cuộc
đời. Mị đã bị A Sử - con trai thống lí đánh lừa bắt về cúng trình ma. Mị trở thành con dâu
gạt nợ... Đau xót q! “Chao ơi! Thế là cha mẹ ăn bạc của nhà giàu từ kiếp trước, bây giờ
người ta bắt bán con trừ nợ. Không thể làm thế nào khác được rồi!”. Tiếng than của bố
Mị nói lên một sự thật cay đắng: Mị là con dâu gạt nợ của thống lí Pá Tra - điều đó như
một định mệnh bi thảm!


Những năm đằng đẵng làm dâu gạt nợ, Mị bị đối xử hết sức tàn tệ, chẳng khác gì một con
vật. Phải làm quần quật quanh năm, suốt tháng. Lên núi hái thuốc phiện, giặt đay, xe đay,
đi nương bẻ bắp, lúc hái củi bung ngô, lúc nào Mị cũng phải gài một bó đay trong cánh
tay để tước thành sợi. Mị chẳng khác nào con trâu, con ngựa nhà thống lí. Khổ cực q
chừng: “Con ngựa, con trâu làm cịn có lúc, đêm nó cịn được đứng gãi chân, đứng nhai
cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả đêm cả ngày”.


Tuổi trẻ, sắc đẹp của Mị bị tước đoạt, vùi dập. Cơ như một đóa hoa rừng chóng héo tàn,
lúc nào cũng “cúi mặt, mặt buồn rười rượi'’. Buồng Mị ở như một cái chuồng nhốt thú,
kín mít, tối om, chỉ có một lỗ nhỏ bằng bàn tay, nhìn ra ngồi “chỉ thấy trăng trắng,
khơng biết là sương hay là nắng”. Đau khổ quá “Mị nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi trong cái
lỗ vng ấy mà trơng ra, đến bao giờ chết thì thơi!’’. Nỗi ám ảnh ấy thật ghê sợ. Mị như
một linh hồn chết.


Cứ tưởng rằng Mị cam chịu số phận. Nhưng cô ta đã hết sức vùng vẫy cố thoát khỏi cái
dây oan nghiệt của số phận. Hàng mấy tháng liền, đêm nào Mị cũng khóc. Mị trốn về
nhà, trịng mắt đỏ hoe. Gặp bố “Mị quỳ lạy, úp mặt xuống đất, nức nở". Lần đầu tiên, Mị


phản kháng lại số phận tủi nhục, hái lá ngón toan ăn để tự tử. Nhưng Mị chết đi, ai sẽ làm
nương ngô giả được nợ thống lí, khi bố Mị đã “ốm yếu quá rồi”. Thương bố, Mị “khơng
đành lịng chết”. Mị bưng mặt khóc, ném nắm lá ngón xuống đất “đành trở lại nhà thống
lí”, cam chịu kiếp ngựa trâu, sống lùi lũi như con rùa trong xó cửa. Biết bao mùa xn
trơi qua! Biết bao nhiêu nước mắt Mị đã chảy xuống. Cũng như bao người đàn bà khác
trong nhà thống lí “một đời con người chỉ biết đi theo đuôi con ngựa của chồng”. Mị cam
chịu số phận: “ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi’’... Mị thấy mình chỉ là con trâu, con
ngựa “chỉ biết ăn cỏ, biết đi làm mà thôi!”. Một đời con gái, một kiếp người bị vùi dập
đến tê dại như thế thì sự đau khổ đã tột cùng rồi!


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

chẳng uống rượu? Chắc là Mị đã từng uống rượu, nhưng cách uống rượu “ừng ực từng
bát” thì đây là lần đầu tiên. Mị uống cho quên hết mọi đau khổ? Mị uống cho hả giận?
Hay Mị mượn bát rượu để thức tỉnh lịng mình sống lại cùng với mùa xuân, với những
đêm tình mùa xuân thời con gái? Nếu những năm tháng đã qua, bếp lửa và ngọn lửa đã
sưởi ấm lòng Mị, đã làm nguôi đi, vơi đi bao đau nhục cuộc đời, thì giờ đây, tiếng sáo,
tiếng hát của trai gái Mèo tha thiết gọi bạn tình đã khơi dậy trong lịng Mị bao khao khát:
Anh ném pao, em không hát Em không yêu, quả pao rơi rồi...


Mị đã tự ý thức về mình. Mị thấy lịng phơi phới, vui sướng như thời con gái bước vào
những đêm tình mùa xuân. Mị thấy mình "trẻ lắm... vẫn cịn trẻ”. Mị thấy mình cô đơn.
Mị phải đi chơi. Bao nhiêu cô gái khác đã có chồng vẫn đi chơi . Thật là vơ lí, hơn nữa
Mị thấy mình với A Sử “khơng có lòng với nhau nhưng vẫn phải ở với nhau’’. Mị khóc.
Mị thương mình đau khổ. Mị ghê tởm thằng A Sử “cịn muốn rình bắt mấy người con gái
nữa về làm vợ...” Mị muốn ăn lá ngón cho chết ngay! Một sức sống tiềm tàng trong lòng
Mị như hòn than hồng âm ỉ cháy. Bạo lực, Mị cũng chẳng sợ. Mị xắn mỡ bỏ vào đĩa đèn
cho sáng, rồi cô quấn lại tóc, với lấy váy hoa, rút thêm cái áo, chuẩn bị đi chơi. Hành
động Mị diễn ra trước mắt thằng A Sứ. Như thách thức. Không trả lời khi hắn hỏi: “Mày
muốn đi chơi à?”. Sự vùng dậy cua Mị lần này lại phải trả giá! Thằng con trai của nhà
thống lí vơ cùng tàn ác đã trói đứng Mi trong buồng tối bằng một thúng sợi đay và cịn
quấn cả tóc Mị lên cột, làm cho cơ “không cúi không nghiêng được đầu nữa”. Nhưng sức


sống vẫn tiềm ẩn trong lòng người con gái Mèo này. Suốt đêm bị trói đứng “dây trói thít
lại, đau nhức”, lúc mê lúc tỉnh, Mị “nồng nàn tha thiết nhớ” và cô bồi hồi: “Mị vẫn tiếng
sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi". Tâm trí Mị chập chờn “có lúc
vùng bước đi”, nhưng bị trói, đi sao được? Nghe tiếng ngựa gãi chân, nhai cỏ “Mị thổn
thức nghĩ mình khơng bằng con ngựa”.


Chúng ta đã từng đọc truyện thơ Tiễn dặn người u trong đó cơ gái Thái bị ép duyên đau
khổ than thân: “Ngẫm thân em chỉ bằng thân con bọ ngựa — con chẫu chuộc thơi...”. Nỗi
cay đắng của Mị cịn gấp trăm gấp nghìn lần thế! Được cởi trói do một sự tình cờ, cô lại
phải vào rừng hái lá thuốc, đêm ngồi hầu hạ, xoa thuốc dấu cho A Sử. Đau ê ẩm, mỏi
quá, Mị “gục đầu nằm thiếp đi” lại bị tên khốn kiếp “đạp chân vào mặt”. Tơ Hồi đã ghi
lại một cách cảm động sự vùng dậy lần thứ hai của Mị với bao vùi dập, đau đớn ê chề !
Mị vẫn chưa gục ngã trước số phận!


</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

trói cho A Phủ, cứu thốt A Phủ. Như một lời khích lệ: “Đi ngay!”. Mị đã vùng chạy theo
A Phủ. Cơ đã nói: “ A Phủ cho tơi di... ở đây thì chết mất!”. Lương tâm thức tỉnh. Mị cứu
A Phú và cũng là tự cứu mình. Thật là dữ dội và khủng khiếp. Tình huống truyện tạo nên
tính bi kịch của số phận. Bao nhiêu máu và nước mắt, Mị mới giành được tự do. Mị
thương người, tự thương minh. Khát vọng về tự do và hạnh phúc, là nguồn sức mạnh
vùng dậy cua Mị.


Trốn khỏi Hồng Ngài, Mị và A Phủ đi suốt một mùa mưa, vượt qua những triền núi đá tai
mèo, họ nên vợ nên chồng khi đến khu du kích Phiềng Sa. Hành động cắt dây trói cứu A
Phủ và cùng A Phủ chạy trốn là điểm đỉnh sự vùng dậy cùa Mị, là sự thể hiện sức sống
tiềm tàng của người con gái Mèo trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ. Khát vọng về tự
do, hạnh phúc, về quyền sống của con người đã cho nhân vật Mị nhiều sức mạnh để vùng
dậy. Sức sống tiềm tàng của Mị đủ khẳng định một chân lí: Bạo lực khơng đè bẹp được
khát vọng tự do! Sức sống tiềm tàng của Mị mang tính điển hình sâu sắc, thể hiện một
cách cụ thể, chân thực và sống động cho sự vùng dậy của người Mèo trên con đường đi
tìm hạnh phúc, tự do và họ đã đến với cách mạng và kháng chiến.



Nhân vật Mị được nhà văn Tơ Hồi miêu tả và khám phá trong chiều sâu tâm hồn, trong
những biến thái “thăng trầm, gấp khúc” của tâm trạng. Miêu tả thành công sức sống tiềm
tàng của nhân vật Mị, ngòi bút nghệ thuật của Tơ Hồi đã làm cho truyện ngắn Vợ chồng
A Phủ sáng bừng giá trị nhân đạo. Người đọc mãi mãi thấm thía về cái giá của tình u
tuổi trẻ và hạnh phúc, tự do.


<b>Câu 10: Nhân vật Mị là một thành cơng của Tơ Hồi trong việc xây dựng con người thức</b>
tỉnh. Hãy chứng minh nhận định ấy?


<i><b>Gợi ý trả lời</b></i>


Truyện Vợ chồng A Phủ trong tác phẩm Truyện Tây Bắc (1953) là thành công tốt đẹp
đầu tiên của Tơ Hồi sau Cách mạng tháng Tám. Qua cuộc đời tủi nhục đau khổ của Mị
và A Phủ, hai nô lệ của thống lí Pá Tra ở Hồng Ngài, Tơ Hoài đã phản ánh nỗi thống khổ
của người Mèo trong chế độ cũ và sự vùng dậy của họ để giành lấy tự do, hạnh phúc, một
lòng đi theo cách mạng và kháng chiến.


Nhân vật Mị trong truyện Vợ chồng A Phủ là một thành cơng của Tơ Hồi trong việc xây
dựng con người thức tỉnh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

2. Cuộc đời Mị đầy bi kịch. Mị xinh đẹp, thổi sáo hay, nhiều chàng trai Mèo mê “ngày
đêm đã thổi sáo đi theo Mị”. Nhưng hạnh phúc tuổi xuân không đến với người con gái
đáng thương này. Mẹ Mị đã mất. Nhà nghèo, bố Mị đã già. Món nợ truyền kiếp, mỗi năm
phải đem nộp lãi cho chủ nợ một nương ngô đã trở thành sợi dây oan nghiệt đối với Mị.
Mị đã bị A Sử (con trai thống lí Pá Tra) "cướp được” đem về cúng trình ma. Bố Mị chỉ
cịn biết cất lời than trong nước mắt: “Chao ơi! Thế là cha mẹ ăn bạc của nhà giàu từ kiếp
trước, bây giờ ta bắt bán con trừ nợ. Không thể làm thể nào khác được rồi!”.


Với Mị, kiếp con dâu gạt nợ đau khổ, tủi nhục vô cùng. Đêm nào Mị cũng khóc. Tự


thương cho số phận mình, Mị phải chết, Mị phải tự tử bằng lá ngón hái được ở trong rừng
- Hình ảnh Mị: “hai trịng mắt còn đỏ hoe”, quỳ lại, úp mái xuống đất, nức nở, hình ảnh
bố Mị “cũng khóc” cất lời than... đã cho thấy một bi kịch đầy nước mắt! Mị muốn ăn lá
ngón tự tử và Mị khơng cam chịu kiếp nô lệ trong thân phận con dâu gạt nợ. Mị muốn
được sống trong một cuộc đời đáng sống, sống có ý nghĩa làm người. Sống trong nô lệ và
tủi nhục thì tự tử cịn hơn. Phản kháng ấy tuy tiêu cực, nhưng cho thấy Mị đã ý thức về
nhân phẩm của mình. Ý thức về nhân phẩm, phủ định thực tại đen tối là biểu hiện của con
người thức tỉnh.


Mị muốn chết mà không chết được. Mị chết nhưng nợ quan vẫn còn, bố Mị đã già yếu
quá rồi. Ai có thể làm nương ngơ giả được nợ thống lí! Mị chỉ cịn biết khóc. Mị phái
ném nắm lá ngón xuống đất. “Mị khơng đành lịng chết... Mị đành phải trở lại nhà thống
lí”. Mị cam chịu kiếp nơ lệ con dâu gạt nợ vì Mị thương bố. Mị hiếu thảo và giàu hi sinh
biết bao!


3. Quá trình thức tỉnh của con người thức tỉnh là những năm dài đen tối, là những tháng
ngày tủi nhục đắng cay. Mị cũng vậy. Nơi Mị ở là một cái buồng kín mít như cái chuồng
nhồi thú, chỉ có một lỗ vng bằng bàn tay ra. Có lúc Mị nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi
trong cái lỗ vuông ấy mà ra “đến bao giờ chết thì thơi”. Nhan sắc, tuổi xn của Mị bị
tước đoạt, xéo, bị chà đạp. Mị bị bóc lột tàn nhẫn, phải làm quần quật quanh năm. Lên
núi hái thuốc phiện, bẻ bắp, hái củi, bung ngô... lúc nào cũng gài một bó đay trong tay để
tước thành sợi. Có lúc lại thấy Mị quay sợi bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Bó đay
ấy, tảng đá ấy như cái xiềng, cái xích, cái thịng lọng oan nghiệt đối với Mị. Mị bị áp bức
mà trở nên tê liệt dần. Khơng nghĩ đến việc ăn lá ngón tự tử nữa. Mị “tưởng mình cũng là
con trâu, cũng là con ngựa". Mị “cúi mặt”, “mặt buồn rười rượi''. Mị cam chịu “ở lâu
trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Gần như vô cảm vô hồn, lâu dần “Mị càng khơng nói,
lùi lũi như con rùa ni trong xó cửa’’. Thân phận Mị có khác nào cơ gái Thái bị ép
duyên trong truyện thơ Tiễn dặn người yêu:


<i>Ngẫm thân em chỉ bằng thân con bọ ngựa</i>


<i>Bằng con chẫu chuộc thôi...</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

4. Con người thức tỉnh được hồi sinh khơng chỉ với ngoại cảnh mà cịn tự tâm hồn mình,
ý thức mình. Mị đã thức tỉnh với những đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài. Tết đến, mùa
xuân làng Mèo làm cho hoa thuốc phiện “đỏ au" thêm rực rỡ, những chiếc váy hoa phơi
trên mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ. Những cuộc vui chơi của trai gái, trẻ con như
đánh pao, đánh quay, thổi sáo, thổi khèn và nhảy múa diễn ra náo nhiệt trên sân trước
nhà. Và tiếng sáo tiếng khèn “rủ bạn đi chơi” làm cho Mị “thiết tha bồi hồi”. Mị nhẩm
theo tiếng hát, tiếng sáo vọng lại:


<i>...Ta khơng có con trai con gái</i>
<i>Ta đi tìm người yêu...</i>


Tiếng sáo lay gọi, thức tỉnh tâm hồn Mị. Mị lén lấy hũ rượu, “cứ uống ừng ực từng bát".
Uống cho tan nỗi hận! uống cho vơi đi bao đau khổ chứa chất trong lòng! Say “lịm mặt”,
Mị “sống về ngày trước". Mị nhớ lại thời con gái, Mị thổi sáo bao người mê. Tiếng sáo
gọi bạn tình đã nhập vào hồn Mị, “tai Mị văng vẳng tiếng sáo. Mị đã thật sự hồi sinh và
hồi xuân. Mị tự ý thức là “Mị trẻ lắm, Mị vẫn trẻ”. Mị cảm thấy “phơi phới”, trong lòng
“đột nhiên vui sướng” như những đêm Tết ngày trước thời con gái. Mị muốn đi chơi Tết.
Khao khát được sống trong tình yêu hạnh phúc như ngọn lửa bùng cháy tâm hồn Mị.
Mị được thức tỉnh về cảnh ngộ. Mị thấy vơ lí, bất cơng đến tàn nhẫn, đến cay đắng. Bao
nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết. Mị với A Sử “khơng có lịng với nhau mà
vẫn phải ở với nhau!”. Thật là trớ trêu! Mị muốn ăn lá ngón cho chết. Mị ứa nước mắt.
Tiếng sáo gọi bạn u đang “lửng lơ bay” ngồi đường. Đó là tâm lí của Mị trong đêm
tình mùa xn. Tiếng sáo lay tỉnh. Mị đang “vùng vẫy“ cố thoát cảnh ngộ đau khổ và tủi
nhục!


Mị đã phản kháng, đã hành động. Mị xắn mỡ bỏ vào đĩa đèn cho sáng. Với tay lấy váy
hoa, rút thêm cái áo, quấn lại tóc. Mị “sắp đi chơi". Hành động Mị ngang nhiên diễn ra
trước mắt thằng A Sử. Mị chẳng thèm trả lời câu hỏi của hắn: “Mày muốn đi chơi à?”. Mị


đã bị thằng A Sử trói vào cột buồng bằng cả một thúng sợi đay, làm cho Mị “không cúi,
không nghiêng đầu được nữa”. Mặc dù lúc mê lúc tỉnh, lúc khắp người “bị dây trói thít
lại, đau nhức", nhưng Mị vẫn “nồng nàn. tha thiết nhớ, “vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi
theo những cuộc chơi, những đám chơi”. Điều đó cho thấy, Mị được thức tỉnh về tình
u, về hạnh phúc, lòng khao khát của Mị rất mãnh liệt. Đêm tình mùa xn cho thấy
ngịi bút phân tích tâm lí và hành động Mị, con người thức tỉnh của Tơ Hồi rất tinh tế,
sâu sắc. Trăng vàng thấm đượm tinh thần nhân văn cao cả.


</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25>

Phủ bị trói đã mấy ngày đêm. Mỗi đêm, nghe tiếng phù phù thổi bếp, A Phủ “mở mắt”...;
thấy ngọn lửa sưởi bùng lên, A Phủ “trừng mắt”. Mị nhìn sang, rồi “thản nhiên” thổi lửa,
hơ tay. Cho dù “nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi”. Tâm hồn Mị đã héo
hắt, đã tàn lụi, đã giá lạnh đi đến cùng cực! Thật đáng sợ.


Nhưng rồi cảnh ngộ, tình thương và lịng căm thù đã thức tỉnh ý thức Mị, tâm hồn Mị.
Qua “ngọn lửa bập bùng”, Mị “lé mắt trơng sang” Mị xúc động khi nhìn thấy “một dòng
nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm mắt đỏ xám đen lại" của A Phủ. Mị nhớ lại đêm
năm trước, A Sử cũng trói đứng Mị như thế. Mị khẽ thốt lên lời than: “Trời ơi!...”. Mị
nguyền rủa cha con thống lí: “Chúng nó thật độc ác”. Bao cảnh thương tâm đồng hiện
trong tâm hồn Mị: bắt trói đứng người ta đến chết, nó bắt mình chết cũng thơi, nó bắt trói
đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này”. Mị tự thương cảnh ngộ mình,
thương A Phủ trên bờ vực thẳm, khi tử thần đã gõ cửa: “Cơ chừng này chỉ đêm mai là
người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết”. Mị nghĩ đến thân phận mình,
tưởng như là cam chịu: “Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta để trình ma nhà nó rồi thì chỉ cịn
biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi...”. Mị ý thức được, A Phủ khơng thể chết, “việc gì mà
phải chết thế”. Con đường thức tỉnh của con người thức tỉnh là con đường vịng, có lúc
ngập ngừng do dự, có lúc quyết liệt. Mị cùng thế, Mị tưởng tượng A Phủ trốn thoát, Mị
sẽ bị thế mạng trên cái cọc oan nghiệt ấy! Đám than vạc hẳn lửa. Hình như bóng tối cho
Mị sức mạnh, “trong tình cảnh này, làm sao Mị cũng không thấy sợ...”.


Hành động của con người thức tỉnh là “hành động tự phủ định, hành động tự giải thốt"


(J.P.Sartre). Mị đã toan ăn lá ngón để tự tử, đó là ra lệnh: “Đi ngay!”. Rồi Mị đứng lặng
trong bóng tối. Đó là “khoảnh khắc bi kịch”. Ở lại địa ngục, là chết trong đau đớn như
người đàn bà nọ. Chạy trốn cịn có thể sống. Mị nói liên tiếp hai câu như kêu cứu và đuổi
chạy theo A Phủ: “A Phủ cho tơi đi, ở đây thì chết mất...”. Mị và A Phú dìu nhau cùng
chạy trốn đến Phiền Sa khu du kích. Phiền Sa là chốn nương thân cho họ. Cách mạng và
kháng chiến mới là đất hứa, đất thánh cho người thức tỉnh. Mị cắt dây trói A Phủ cũng là
tự cắt dây trói để giải thốt mình. Như con chim sổ lồng, Mị từ bóng tối vươn tới tới ánh
sáng, từ nô lệ tủi nhục mà giành được tự do, hạnh phúc, cùng với A Phủ nên vợ nên
chồng, rồi trở thành chiến sĩ du kích.


Mị là nhân vật thức tỉnh. Tơ Hồi đã phân tích tinh tế, sâu sắc mọi biến thái về tâm lí và
hành động Mị trong q trình thức tỉnh với tất cả tình thương xót và đồng cảm sâu sắc.
Mị là nhân vật thức tỉnh có sức mạnh phản kháng và sức sống tiềm tàng. Nhân vật Mị đã
góp phần thể hiện giá trị nhân đạo của truyện Vợ chồng A Phủ.


Và ta càng thấm thía về cái giá của tự do. Cái mùi vị của tự do là “cái vị ngọt ngào và có
mùi tanh đồng" như Hêminguê đã nói.


<b>Câu 11: Phân tích diễn biến tâm lí của nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân.Mị muốn</b>
đi chơi nhưng bị A Sử trói đứng vào cột


</div>
<span class='text_page_counter'>(26)</span><div class='page_container' data-page=26>

1.Mị đã bước vào cái đêm đáng ghi nhớ ấy, thoạt tiên, như một tâm hồn câm lặng. Cái cô
Mị xưa kia trẻ đẹp, khao khát yêu đương và cũng đã được u đương, cơ Mị ấy tưởng
như đã chìm hẳn vào dĩ vãng. Chỉ cịn một người đàn bà “khơng nói, lùi lũi như con rùa
ni trong xó cửa”, người đàn bà bị cầm tù trong một ngục thất tinh thần (hình ảnh cái
buồng có một cửa sổ lỗ vng bằng bàn tay, lúc nào trông ra cũng chỉ thấy mờ mờ trăng
trắng). Đã bao năm rồi, người đàn bà ấy chẳng biết đến mùa xuân, chẳng đi chơi Tết.
2.Vậy mà vào đúng cái đêm tình mùa xuân năm ấy, Mị thốt nhiên lại muốn đi chơi, và đã
sửa soạn đi chơi thực sự. Vì sao vậy? Khó có thể cho là tại đất trời. Thời tiết mùa xuân
năm nào chẳng đại loại là như thế.



Lí giải sự đột biến khác thường của Mị trong đêm ấy, là một thử thách thật sự đối với Tơ
Hồi. Hãy xem bằng cách nào mà nhà văn vượt qua thử thách.


-Với một người như Mị, muốn đi chơi nghĩa là muốn phá phách, nghĩa là nổi loạn. Cũng
với một người như Mị để có thể nổi loạn, thì phải có cái gì có khả năng làm quên đi hiện
tại để sống trở về những tháng năm xưa.


Cái đó là men rượu mà Tết năm ấy, Mị đã lén “uống ực từng bát”. “Rồi say Mị lịm mặt
ngồi đấy ., nhưng lịng Mị thì đang sống về ngày trước”... Rõ nhất là tiếng sáo. Mỗi lần
tiếng sáo trở lại truyện là mỗi lần nó được biến đổi đi từ âm thanh của hiện tại dần dần
thành tiếng của những mùa xuân trước. Từ chỗ ở ngoài Mị, ở xa Mị, dần dần như tiếng ai
mời gọi, hồn ai chờ đợi ngoài đường, để cuối cùng rập rờn trong đầu người thiếu phụ.
Tiếng sáo dìu hồn Mị hay là bước đi của hồn Mị được ghi dấu bằng tiếng sáo.


-Như thế là sức sống, lòng ham sống đã thức dậy trong lòng người thiếu phụ.
Nhưng sự vượt khỏi hoàn cảnh hiện tại của nhân vật không hề đơn điệu, dễ dàng


Một thời gian dài. Mị sống trong sự giao tranh giữa qúa khứ và hiện tại. Q khứ đẩy đưa
đi, hiện tại thì níu lại. (Nên lịng phơi phới mà Mị vẫn theo qn tính bước vào buồng,
ngồi xuống giường, trông ra cái cửa sổ lỗ vng mờ mờ trắng trắng. Và lịng ham sống
trào dậy đầu tiên trong ý nghĩa muốn chết ngay chứ không buồn nhớ lại...).


Nhưng sức sống cứ lớn dần, sức ám ảnh của tuổi xuân cứ mạnh dần, cho tới khi nó dường
như chiếm trọn tâm hồn Mị. Phải tới lúc đó, Mị mới hành động như một kẻ mộng du,
khơng thấy, khơng nghe A Sử nói.


3.Rồi Mị bị A Sử trói trong trạng thái mơ hồ. Mãi về sau, Mị mới cảm thấy cái hiện tại
tàn khốc khi vùng bước đi mà tay chân không cựa được. Nhưng nếu cái mơ khơng đến
một lần, ngay tức khắc thì sự tỉnh ra cũng vậy. Lại một giai đoạn chập chờn nữa giữa hơi


rượu, tiếng sáo với cái đau nhức của dây trói và tiếng chân ngựa đạp vào vách. Nhưng
bây gờ thì theo chiều ngược lại, tỉnh dần ra, đau đớn dần lên, tê dại dần đi để dần dần trở
lại với vị trí của con rùa lùi lũi trong xó cửa.


</div>
<span class='text_page_counter'>(27)</span><div class='page_container' data-page=27>

thêm tin, thêm yêu mến con người. Thứ hai, chế độ phong kiến là chế độ buộc trói, giam
hãm chống lại con người và sự sống. Chế độ ấy đáng căm thù, lên án cả từ phía nhân
danh quyền sống của con người. Một tình tiết nghệ thuật giàu chất nhân đạo và chất thơ.
<b>Câu 12: Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ của Tơ</b>
Hồi thể hiện trong cảnh ngộ khi cô bị bắt làm con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra đến
khi trốn khỏi Hồng Ngài.


<i><b>Gợi ý trả lời</b></i>


1.Giới thiệu chung tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tơ Hồi và nhân vật Mị:


- Vợ chồng A Phủ là một trong ba truyện ngắn của tập truyện Truyện Tây Bắc được Tơ
Hồi sáng tác trong những ngày tham gia chiến dịch giải phóng Tây Bắc 1952.


- Mị là một trong những hình tượng nhân vật thành công tiêu biểu trong văn xuôi của Tơ
Hồi thời kì 1945 - 1975 viết về đề tài miền núi.


2.Sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị:


- Nhân vật Mị là hiện thân của số phận đau thương nhưng vẫn tiềm tàng sức sống và đã
thức tỉnh.


- Không chấp nhận làm con dâu gạt nợ nhà thống Lí, Mị có ý định tự tử, cơ muốn dùng
cái chết để phản đối số phận tủi nhục của mình.


- Vì thương cha, vì khơng chịu nhục khơng trả được món nợ truyền kiếp, Mị đã phải sống


câm lặng trơ gan như tảng đá trước cửa cạnh chuồng ngựa nhà thống lí, sống lùi lũi như
con rùa ni trong xó cửa. Mị thấy cuộc đời mình cịn thua con trâu, con ngựa vì “con
ngựa, con trâu làm cịn có lúc, đêm nó cịn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con
gái trong nhà này thì vùi vào việc làm cả đêm cả ngày". Mị lại ở trong một cái buồng "kín
mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng
trắng, không biết là sương hay là nắng. Mị nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vng
ấy mà trơng ra đến bao giờ chết thì thơi". Nhưng khơng vì thế mà sức sống trong con
người Mị bị thui chột, mà vẫn tiềm ẩn đâu đó, chỉ chực chờ có cơ hội là bùng lên và bùng
lên mãnh liệt.


- Khi mùa xuân về, như quy luật vạn vật hồi sinh, sức trẻ trong Mị bừng trỗi dậy, Mị
khêu đèn lên cho sáng căn buồng của mình, cơ lén lấy hũ rượu uống ừng ực từng bát. Mị
bồi hồi nghe tiếng sáo, Mị vẫn thấy mình cịn trẻ, Mị muốn đi chơi. Dù bị A sử trói chân
tay khơng cựa quậy được, Mị vẫn lắng tai nghe tiếng sáo và thả hồn theo những cuộc
chơi.


</div>
<span class='text_page_counter'>(28)</span><div class='page_container' data-page=28>

<b>Câu 13: Phân tích hình tượng nhân vật Mị trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tơ Hồi.</b>


<i><b>Gợi ý trả lời</b></i>


Năm 1952, Tơ Hồi theo bộ đội chủ lực, tiến qn vào miền Tây, dự chiến dịch giải
phóng Tây Bắc. Nhà văn đã kể về những ngày tháng ấy, “cái kết quả lớn nhất và trước
nhất của chuyến đi là đất nước và con người miền Tây đã để thương để nhờ cho tơi nhiều
q.... Đó là một ám ảnh mạnh mẽ thúc đẩy tôi sáng tác” (Một số kinh nghiệm viết văn
của tôi). Truyện Vợ chồng A Phủ đã được ra đời trong hoàn cảnh ấy. Tác phẩm viết về
đồng bào Mèo trong quá trình đấu tranh giành quyền sống tự do, hạnh phúc đã phải nếm
trải bao đau thương, tủi nhục, cay đắng. Họ đấu tranh để được giải phóng khi gặp cách
mạng. Sự đổi đời của nhân dân Tây Bắc trong bối cảnh cuộc kháng chiến của dân tộc.
Đến Tây Bắc, Tơ Hồi có thêm những người bạn mới là Mị và A Phủ, và cách kể chuyện
sắc sảo của nhà văn, họ đã trở thành những nhân vật văn học sinh động, những số phận


được sáng tạo, nâng lên từ cuộc sống. Mị và A Phủ là hai hình tượng có tính sóng đơi, bổ
sung cho nhau. Họ có cuộc đời riêng nhưng cùng chung cảnh ngộ. Trong đó, Mị được
nhà văn chú ý miêu tả, khắc họa hết sức rõ nét bằng cách khai thác đời sống nội tâm của
nhân vật.


Mị là một cô gái miền núi xinh đẹp và có tài thổi sáo. “Mi uốn chiếc lá trên môi, thổi lá
cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị hết
núi này sang núi khúc". Nhiều người say mê Mị “Trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu
buồng Mị”. Nhưng vì nghèo, Mị khơng có được hạnh phúc như mình mong ước.,về làm
dâu để trừ nợ cho cha mẹ trong nhà thống lý Pá Tra. Mị sống như một kẻ nô lệ, bị chiếm
đoạt sức lao động, nhan sắc và cả cuộc đời con gái bị vùi dập đau đớn, Mị muốn tự tử
nhưng vì thương cha, Mị khơng đành lịng chết. Thế là sự phản kháng yếu ớt tuyệt vọng
ấy đã tiêu tan.


Quay trở lại nhà thống lý, người con gái hiếu thảo ấy đành bng xi cho số phận theo
một quy luật thích nghi nghiệt ngã: “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi". Thậm chí cịn
khổ hơn cả con trâu con ngựa. “Con trâu, con ngựa làm cịn có lúc, đêm nó còn được
đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc củ đêm cả ngày”.
Và từ dó Mị sống như cái xác khơng hồn, “Mị cúi mặt khơng nghĩ ngợi gì nữa", lúc nào
“cơ ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi".


Nhà thống lý Pá Tra giàu có, kẻ hầu người hạ rất nhiều, Mị là con dâu nhưng cũng chỉ là
nô lệ, chỉ là một cơng cụ lao động biết nói. Hơn thế nữa, Mị chẳng biết nói với ai, Mị như
một con vật không cần ánh sáng. “Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa ni
trong xó cửa". Mị hồn tồn đối lập với khơng gian bao la rộng mở của bầu trời vùng núi,
rộn ràng âm thanh và rực rỡ màu sắc. “Ớ cái buồng Mị nằm, kín nút, có một chiếc cửa số
một lỗ vng bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng không biết là
sương hay là nắng". Và Mị sẽ sống ở đó cam chịu “’đến bao giờ chết thì thơi".


</div>
<span class='text_page_counter'>(29)</span><div class='page_container' data-page=29>

không thể dập tắt được sức sống, muốn sống trong yêu thương vẫn âm ỉ cháy trong đáy


sâu tiềm thức của Mị.


Những đêm tình mùa xuân tới, nghe tiếng sáo thổi gọi bạn đầu làng, tiếng sáo thiết tha
bồi hồi, Mị hát thầm theo tiếng sáo. Những lúc này “lòng Mị đang sống về ngày trước".
Quá khứ của thời con gái hiện về, sung sướng tự do. Mị lén lấy rượu uống "ực từng bát"
để quên buồn, quên đi thực tại hay để có đủ can đảm phản kháng thực tại? Mị quyết định
đi chơi, “Mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách", một sức sống
tiềm ẩn đã bùng lên mạnh mẽ, Mị còn trẻ lắm, Mị phải sống như khát vọng thúc giục.
Nhưng sự trỗi dậy ấy, một lần nữa, lại bị sự ràng buộc khắc nghiệt của hồn cảnh, A sử
trói đứng Mị vào cột nhà một cách tàn nhẫn, lạnh lùng. Trong tình trạng đau đớn về thể
xác ấy, lạ thay, “ Mị vẫn nghe tiếng xáo đưa Mị theo những cuộc chơi, những đám chơi".
Đến nỗi Mị đã quên đi cảnh bị trói bi thẳm của hiện tại, “Mị vùng bước đi, nhưng tay
chân đau không cựa được".


Như vậy, trong cái thâm u, tối tăm của cuộc đời Mị, ln có những cơn sóng ngầm phản
kháng. Và cơn sóng mạnh mẽ cuối cùng là hành động cắt dây trói cho A Phủ. Với đoạn
văn hay nhất của truyện này, Tơ Hồi đã tỏ ra rất chặt chẽ trong bố cục, tài tình trong việc
sắp xếp các tình huống, thể hiện tâm lí, hành động của nhân vật một cách hợp lý, thuyết
phục.


Anh Phủ bị trói đứng bên góc nhà, gần nơi Mị thường thức dậy sớm để sưởi lửa. Đã mấy
đêm liền, Mị thấy A Phủ đứng đó “mát mở trừng trừng, mới biết A Phủ còn sống”. “Mị
vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay". Lúc này, Mị chỉ biết có mình và ngọn lửa, Mị còn thờ ơ
với tất cả. Nhưng rồi trong cái đêm cuối cùng ở Hồng Ngài ấy, qua “ngọn lửa bập bùng
sáng lên", Mị đã thấy “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai mõm má đã xám đen
lụi" trên khn mặt A Phủ. Dịng nước mắt ấy đã khơi gợi cho Mị nhớ về ngày trước. Mị
cũng bị trói đứng như thế, Mị khóc “nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, khơng biết
lau đi được". Dịng nước mắt của Mị ngày trước và dòng nước mắt của A Phủ lúc này
tưởng chừng như hịa làm một, nó tạo thành sự cảm thông đau đớn và bùng cháy một thái
độ căm thù mãnh liệt. “Chúng nó thật độc ác". Trước đây vđi sự mê tín mơng muội, Mị


chịu n phận trong cuộc sống đau khổ, bây giờ Mị cũng nghĩ thế. “Ta là thân đàn bà, nó
đã dắt ta về trình ma nhà nó thì chỉ biết đợi ngày rũ xương ở đây thơi ... Người kia việc gì
mà phải chết thế”. Nhưng nếu giải cứu cho A Phủ đi, Mị sẽ bị trói vào đây, chỉ nghĩ đến
điều ấy, Mị đã cảm thấy sợ. Nói như Nam Cao trước kia, đó là “cái sợ cố hữu" của những
người nông dân nô lệ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(30)</span><div class='page_container' data-page=30>

A Phủ chạy đi, “Mị đứng lặng trong bóng tối". “Rồi Mị cũng vụt chạy ra" ,chi tiết nhỏ
này đã thể hiện được cả cơn sóng gió trong tâm hồn Mị lúc này .Trước khi cứu A Phủ,
chưa bao giờ Mị nghĩ rằng mình sẽ đi theo A Phủ. Nhưng đứng trước cái chết, bản năng
sinh tồn trong con người Mị trỗi dậy, nó mạnh hơn tất cả, mạnh hơn thái độ cam chịu
nhẫn nhục, nó có mạnh hơn cả “con ma nhà thống Lý". Trước tình huống này Mị chỉ cịn
một con đường, phải chạy theo A Phủ để được sống, Mị có biết đâu, khi cầm con dao cắt
sợi dây mây để cở trói cho A Phủ cũng chính là lúc Mị tự cởi trói cho cuộc đời mình. Họ
đã cứu sống nhau, đã tự giải phóng cuộc đời bằng sự quật khởi của chính mình.


Đến Phiềng Sa, có vợ chồng Mị mới biết được thế nào là hạnh phúc, gia đình Mị và A
Phủ cịn phải chiến đấu với bọn thực dân dưới dự dìu dắt của A Châu vì Mị đã biết được
ai là kẻ thù của mình. Mị cũng khơng cịn sợ con ma nhà thống lý. Mị ngẩng khuôn mặt
lên khi làm việc và lại hát những bài tình ca mỗi độ xuân về. Sự đổi đời của Mị và A Phủ
khi đến Phiềng Sa cũng chính là sự đổi đời của nhân dân Tây Bắc trong cuộc kháng chiến
hào hùng của dân tộc.


Viết Vợ chồng A Phủ, Tơ Hồi đã chứng tỏ sự lão luyện của một nhà văn hiện thực trong
việc xây dựng điển hình, khẳng định một cách nhìn mới về hiện thực. Đó cũng chính là
kết quả của một q trình chuyển biến đến độ chín muồi của tư tưởng, tình cảm nhà văn.
Vợ chồng A Phủ là một câu chuyện có giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc, tác phẩm đã
khái quát được con đường đi, sự đổi đời của nhân dân Tây Bắc sau Cách mạng bằng
những thủ pháp nghệ thuật độc đáo, sống động và đặc sắc là một tấm lòng sâu nặng đối
với các dân tộc miền núi anh em.



<b>Câu 14: Qua hai nhân vật Mị và A Phủ, hãy nêu giá trị hiện thực và nhân đạo của tác</b>
phẩm Vợ chồng A Phủ của Tơ Hồi.


<i><b>Gợi ý trả lời</b></i>


<i>Vợ chồng A Phủ là một trong ba truyện trong tập Truyện Tây Bắc (in năm 1954) của nhà</i>
văn Tơ Hồi.


Tác phẩm kể về cuộc đời đôi vợ chồng trẻ người Mèo là Mị và A Phủ. Mị bị bắt về làm
con dâu trừ nợ cho nhà thơng lý. A Phủ vì dám đánh A Sử, con trai thống lý nên phải làm
đầy tớ để trừ tiền phạt vạ. Cùng cảnh ngộ đau khổ, Mị đã cứu A Phủ. Hai người trốn khỏi
nhà Pá Tra, tìm đến tận Phiềng Sa, thành vợ, thành chồng, cùng nhau xây dựng cuộc đời
mới. Được cán bộ cách mạng giác ngộ, Mị cùng A Phủ trở thành du kích bảo vệ khu giải
phóng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(31)</span><div class='page_container' data-page=31>

tả trong truyện là cha con thống lý Pá Tra với tính cách bạo ngược và lối sống phè phỡn
trên mồ hôi nước mắt người nghèo.


Cũng như bao tên chúa đất khác, thống lý Pá Tra có đủ mọi thủ đoạn hiểm độc trong việc
áp bức, bóc lột dân chúng, đẩy họ vào cảnh bần cùng để rồi mặc nhiên trở thành nô lệ của
hắn. Mị và A Phủ là nạn nhân trong bao nạn nhân khác của cha con hắn.


Mị vốn là một cô gái mang đầy đủ phẩm chất tồt đẹp của phụ nữ vùng cao. Đẹp người,
đẹp nết, Mị được nhiều trai bản yêu mến. Cuộc sống, tuổi thanh xuân, hứa hẹn với cơ bao
điều tốt lành. Nhưng chỉ vì món nợ của cha mẹ cô vay thống lý từ ngày cưới cho đến lúc
mẹ cô chết vẫn chưa trả được nên Mị phải đem thân làm con dâu trừ nợ cho nhà thống lý.
Là người nhưng cô bị coi như một thứ đồ vật vơ tri, vơ giác để tính ra tiền trừ vào số nợ.
Những ngày Mị sống với cha con tên thống lý là chuỗi dài đau thương, vất vả. Danh
nghĩa là dâu nhà quan nhưng thực chất cô là đầy tớ không công, bị coi rẻ hơn cả con trâu,
con ngựa. Suốt ngày nai lưng ra làm quần quật, đêm đến cô lại phải thức hầu hạ thằng


chồng tàn ác.


Đau khổ, cực nhọc đã cướp mất tuổi xuân của Mị, biến cô thành kẻ nhẫn nhục, cam chịu.
Cơ gái mèo xinh đẹp, hồn nhiên, đa tình đa cảm thuở nào đã chết. Chỉ còn lại người đàn
bà “lúc nào cũng vậy... cũng cúi mặt buồn rười rượi... ”, "ngồi quay sợi gai bên tảng đá
trước cửa, cạnh tàu ngựa... Mị âm thầm “lùi lũi như con rùa ni trong xó cửa".


Mị khơng những bị đọa đày về thể xác mà còn bị đè nén về tinh thần. Mị chán sống
nhưng khơng được chết. Vì cơ chết thì món nợ truyền kiếp kia vẫn cịn và người cha già
càng đau khổ hơn. Cuộc đời Mị bị ràng buộc bằng quyền lực, bị trói buộc bằng tập tục
mê tín lâu đời của người dân miền núi.


Cách đối xử bất công, tàn bạo của cha con tên thống lý làm cho Mị ngập chìm trong đau
khổ triền miên. Cơ lặng lẽ ra vào như cái bóng, khơng một người bạn chia sẻ tâm tình. Cơ
chỉ cịn biết làm bạn với ngọn lửa “trong những đêm đông dài và buồn". Thân xác Mị,
tâm hồn Mị lạnh lẽo, trống vắng, “nếu không có bếp lửa sưởi kia thì Mị cũng đến chết
héo"... Ngọn lửa là người bạn duy nhất giúp cô xua bớt phần nào bóng tối u ám đang vây
phủ cuộc đời cơ. Khơng có người bè bạn, cảm thương với nỗi khổ của mình, tìm đến
ngọn lửa, coi nó là bạn. Khổ biết chừng nào!


Dưới ngòi bút của tác giả, cuộc đời bế tắc của Mị chẳng khác gì hình ảnh căn buồng cơ ở,
kín bưng, tối mị, chỉ thơng với bên ngoài bằng lỗ cửa sổ bé như bàn tay, ở trong nhìn ra,
khơng biết là đêm hay ngày, sương hay nắng...


</div>
<span class='text_page_counter'>(32)</span><div class='page_container' data-page=32>

khơng cịn gợi cho cơ ý thức gì về quá khứ, hiện tại, tương lai. Cái ác của bọn thống trị là
đã giết chết phần tốt đẹp của con người.


Cuộc đời A Phủ, người con trai Mèo cũng khơng kém phần nào chua xót. Khỏe mạnh,
ngang tàng, phóng khống, làm nương giỏi, săn thú tài, A Phủ được bao cô gái say mê, ao
ước. Nhưng hạnh phúc không đến với chàng trai nghèo khổ, mồ cơi ấy. Vì dám đánh lại


A sử con trai thống lí Pá Tra và bị Pá Tra phạt vạ một trăm đồng bạc trắng nên phải đi ở
trừ nợ, làm trâu ngựa cho nhà thống lý: “Đời mày, đời con, đời cháu mày tao cũng bắt
thế, bao giờ hết nợ tao mới thôi”.


Ngày này qua tháng khác, A Phủ phải làm việc cật lực, chăn dắt bầy bị, ngựa đơng mấy
chục con. Khơng may một con bị bị hổ ăn thịt, A Phủ bị trói đứng vào cột chờ chết,
khơng được ăn, khơng được uống.


Con người khí phách ngang tàng như A Phủ mà phải lặng lẽ khóc cho thân phận tủi nhục
của mình: “hai mắt A Phủ cũng vừa mở. Một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai mõm
má đã xám đen lại". Chút ý thức phản kháng trong anh đã bị hiện thực phũ phàng dập tắt.
Cuộc sống đau khổ, nô lệ của Mị và A Phủ điển hình cho thân phận người dân nghèo
miền núi dưới chế độ cũ. Bần cùng hóa con người, chà đạp lên nhân phẩm, tình yêu, hạnh
phúc là chuyện thường thấy ở cả miền xi lẫn miền ngược.


Ngịi bút nhà văn tỏ ra sắc sảo trong việc miêu tả con người và cuộc sống vùng cao. Cha
con tên thống lý và lũ tay sai là hiện thân của giai cấp thống trị tàn ác, vô nhân đạo. Bọn
lý dịch, quan làng, thống quản... lợi dụng chuyện A Phủ đánh A Sử để kéo đến nhà thống
lý xử kiện và ăn cỗ “suốt từ trưa cho đến hết đêm". Mấy chục người “hút thuốc phiện rào
rào". Cứ mỗi đợt chúng hút xong, A Phủ lại phải quỳ ra giữa nhà để người nhà thống lý
xô đến đánh: “Cứ như thế suốt chiều, suốt đêm, càng hút càng tỉnh, càng đánh càng chửi,
cùng hút... "


Giá trị hiện thực của truyện ngoài việc tái hiện đoạn đời khổ ải của những người nơ lệ
cịn nói lên một sự thật xót xa: người dân bị áp bức, đè nén quá lâu sẽ bị lê liệt tinh thần
phản kháng, sẽ bị đầu độc bởi tâm lý nô lệ. Bạo lực câu kết với thần quyền, với mê tín dị
đoan làm cho họ khơng cất đầu dậy nổi.


Nhưng trong cuộc đời, mọi cái đều có giới hạn. Có áp bức, có đấu tranh, Mị và A Phủ
cũng như bao người khác sẽ vùng lên tự giải phóng, giành quyền làm người tự do. Đoạn


đời sau của Vợ chồng A Phủ chứng minh quy luật muôn đời ấy.


Trong giá trị hiện thực của tác phẩm đã ẩn chứa giá trị nhân đạo sâu xa. Có căm thù giai
cấp thống trị và xã hội bất công, tác giả mới lên tiếng tố cáo mãnh liệt. Có cảm thương số
phận đau khổ của con người, tác giả mới viết nên những trang sách gây xúc động mạnh
mẽ như vậy.


</div>
<span class='text_page_counter'>(33)</span><div class='page_container' data-page=33>

Lay lắt, đói khổ, nhục nhã, Mị vẫn sống âm thầm, tiềm tàng, mãnh liệt. Từ trong sâu
thẳm tâm hồn người con gái bị đọa đày kia vẫn âm ỉ, le lói một ngọn lửa yêu đời, ham
sống. Mùa xn về, Mị lén uống rượu và "lịng Mị thì đang sống về ngày trước, tai Mị
văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng... Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui
sướng như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ, Mị muốn đi chơi...".
Nhưng rồi thực tại đen tối đã cố tình dập tắt tiếng sáo thiết tha và hình ảnh mùa xuân rực
rỡ. Phản ứng tự phát ban đầu của Mị khơng thể giải phóng được cuộc đời cơ nhưng
những giây phút trỗi dậy ấy có ý nghĩa thức tỉnh. Giống như đốm lửa âm ỉ trong đám tro
tàn, có ngày sắp bùng cháy dữ dội.


Ngày ấy đã đến với Mị trước cảnh A Phủ bị trói. “Nhìn thấy tình cảnh như thế, Mị chợt
nhớ lại đêm năm trước A Sử trói Mị, Mị cũng phải trói đứng thế kia. Nhiều lần khóc,
nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, khơng biết lau đi được. Trời ơi, nó bắt trói đứng
người ta đến chết, nó bắt mình chết cũng thơi, nó bắt trói đến chết người đàn bad ngày
trước cũng ở cái nhà này... Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết
đói, chết rét, phải chết. Ta thân, đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ con
biết đợi ngày rũ xương ở đây thơi... người kia việc gì mà phải chết thế...”.


Mị khơng cầm lịng được trước cảnh con người sắp bị hủy diệt. Mị động lòng thương.
Thương người, thương thân, Mị nhớ đến những khổ sở, hãi hùng mà mình phải chịu đựng
suốt mấy năm qua. Giọt nước mắt đau khổ của A Phủ như giọt nước làm tràn đầy bình
nước. Nó thức tỉnh nỗi đau lắng chìm trong lòng Mị. Cảm thương số phận A Phủ, lòng
căm thù cha con tên thống lý độc ác bùng lên, lấn át nỗi sợ hãi, dẫn Mị đến hành động táo


bạo ngồi ý thức: cắt dây trói cứu A Phủ.


Đây là hành động bộc phát song nó là kết quả tất yếu của một quá trình bị dồn nén, bức
xúc về mặt tinh thần, bây giờ đã đến lúc giải thoát. Mị cắt dây trói cho A Phủ cũng là cắt
đứt tung những dây trói vơ hình đã cột chặt cơ vào quãng đời tủi nhục bấy lâu nay. Cô
vụt chạy theo A Phủ bởi cô ý thức được sự sống cịn của mình: “ ở đây thì chết mất". Mị
đã chạy theo tiếng gọi mãnh liệt của tự do, giải phóng mình ra khỏi nanh vuốt cha con tên
thống lý.


Hai con người cùng cảnh ngộ đã “lâng lâng dìu nhau lao chạy xuống dốc núi” bỏ thật xa
cái địa ngục giam cầm, đày đọa họ mấy năm trời. Từ trong cái chết, họ vùng dậy tìm lẽ
sống, làm lại cuộc đời.


Chạy trốn khỏi Hồng Ngài, thoát khỏi ách áp bức của thống lý Pá Tra, Vợ chồng A Phủ
lại gặp phải kẻ thù mới không kém phần nguy hiểm là giặc Pháp. Chúng là lũ cướp nước
đồng thời cướp cả mọi thức và quyền tự do được sống làm người, chẳng khác gì bọn
cường hào ác bá miền núi.


</div>
<span class='text_page_counter'>(34)</span><div class='page_container' data-page=34>

Sống ở Phiềng Sa, vợ chồng A Phủ mới thật sự được làm người. Họ được cán bộ A Châu
giác ngộ cách mạng. Từ một chàng trai nghèo khổ, nơ lệ, A Phủ đã trở thành một du kích
dũng cảm, tự tin. Anh thật sự trở thành chỗ dựa tinh thần của Mị. Sống bên A Phủ, Mị
dần dần hết lo sợ, cô vững tin vào cuộc sống mới, vào kháng chiến. Được đứng lên đánh
lại kẻ thù áp bức mình trong tư cách mình là con người, ý thức ấy mới thực sự có ý nghĩa
nhân đạo.


Q trình giác ngộ cách mạng của vợ chồng A Phủ tiêu biểu cho con đường đến với
Đảng, với cách mạng của đồng bào các dân tộc ít người ở miền núi nước ta. Qua tác
phẩm, nhà văn gián tiếp khẳng định chỉ có cách mạng mới giải phóng con người ta ra
khỏi ách áp bức, bất công, giúp con người vươn tới cuộc sống tự do, hạnh phúc, cuộc
sống làm người. Tơ Hồi khi tái hiện bức tranh hiện thực với những bản chất của nó


khơng thể khơng miêu tả q trình vận động, quy luật của cuộc sống. Đấy là giá trị nhân
đạo sâu xa của tác phẩm.


Qua việc miêu tả số phận của hai nhân vật Mị và A Phủ, nhà văn đã làm sống lại trước
mắt người đọc cả quãng đời tăm tối, cơ cực của người dân miền núi dưới ách thống trị dã
man của bọn quan lại, chúa đất phong kiến. Đồng thời khẳng định chỉ có sự tự vùng dậy
của bản thân theo dẫn dắt của cách mạng mới giải phóng được con người ra khỏi kiếp
ngựa trâu, nơ lệ. Đó chính là giá trị hiện thực và nhân đạo to lớn của tác phẩm. Giá trị này
giúp truyện đứng vững trước thử thách của thời gian và vẫn được nhiều thế hệ bạn đọc
yêu thích.


<b> Câu 15: Qua cuộc đời của hai nhân vật trung tâm Mị và A Phủ, hãy tìm hiểu giá trị hiện</b>
thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tơ Hồi.


<i><b>Gợi ý trả lời</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(35)</span><div class='page_container' data-page=35>

và giá trị nhân đạo thông qua việc miêu tả cuộc đời và số phận của hai nhân vật trung tâm
là Mị và A Phủ.


Trong Vợ chồng A Phủ, Tơ Hồi kể về cuộc đời đầy gian truân và đau khổ của hai vợ
chồng người Mèo là A Phủ và Mị. Họ vốn là những người nô lệ trong nhà thống lý Pá
Tra; Mị bị bắt về làm con dâu gạt nợ, A Phủ vì dám đánh bại con trai nhà thống lý nên
cũng phải làm người ở để đền tội với chủ. Trong cảnh ngộ tối tăm ấy, họ đã gặp gỡ, đồng
cảm và giúp nhau thốt khỏi nhà Pá Tra tìm đến vùng Phiềng Sa. Tại đây họ đã trở thành
vợ chồng. Giữa lúc bọn lính Pháp đến đánh phá và cướp bóc ở Phiềng Sa, cán bộ của
Đảng đã tìm đến để giúp đồng bào các dân tộc tự bảo vệ cuộc sống của mình. Mị và A
Phủ gặp A Châu, một cán hộ của Đảng, kết làm anh em rồi thành đội viên du kích. Nhớ
lại thời điểm sáng tác Vợ chồng A Phủ, nhà văn Tơ Hồi viết “Câu chuyện Vợ chồng A
Phủ của tôi đã xây dựng được bằng mắt thấy tai nghe và cảm tình về những con người và
sự việc ấy trong cuộc chiến đấu giải phóng quê hương của các dân tộc thiểu số anh em ở


biên giới Tây Bắc của đất nước".


Qua câu nói đó, chúng tôi đã nhận thấy giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm
đã được nhà văn Tô Hồi xây dựng một cách có ý thức.


1. Giá trị hiện thực của Vợ chồng A Phủ thể hiện trước hết ở việc trình bày chân thực
cuộc sống đau thương, tăm tối đầy bi kịch của người dân miền núi Tây Bắc dưới ách
phong kiến nặng nề và sự bóc lột của thực dân Pháp. Giá trị hiện thực của tác phẩm còn
gắn liền với sự tố cáo, vạch trần tội ác của bọn phong kiến (thống lý, thổ ly, lang đạo) ở
vùng cao.


- Hình tượng nhân vật Mị là tượng trưng cho cái đẹp bị vùi dập. Cô gái trẻ trung, xinh
đẹp như một bông hoa của núi rừng đó bị A Sử cướp về làm vợ. Trong ngơi nhà giống
như tù ngục đó, Mị suốt ngày "lùi lũi như con rùa ni trong xó cửa", số phận của Mị
chẳng khác nào số phận của kiếp ngựa trâu vì giá trị của con người khơng được xem
trọng, con người chỉ như một cái máy để làm việc. Thậm chí, Tơ Hồi viết “con ngựa,
con trâu làm cịn có lúc, đêm nó cịn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái
nhà này thì vùi vào việc cả đêm cả ngày”. Lẽ ra trong cuộc sống bình thường những
người con gái như Mị phải được vui chơi, đi dự hội hè, tìm thấy tình yêu và hạnh phúc
cho mình. Nhưng ngược lại, đến ngày tết, A Sử lại đi chơi với bạn, còn Mị thì bị trói
đứng trong buồng tối.


</div>
<span class='text_page_counter'>(36)</span><div class='page_container' data-page=36>

Giá trị hiện thực của truyện ngắn Vợ chồng A Phủ không chỉ bộc lộ qua việc trình bày
chân thực cuộc sống đầy bi kịch của nhân dân miền núi Tây Bắc nói chung, đồng bào dân
tộc Mơng nói riêng mà cịn thể hiện qua việc khắc họa những bộ mặt tàn bạo của cha con
thống lý Pá Tra và A Sử, của bọn lý dịch, quan lạc, thống quản. Đây là nguyên nhân trực
tiếp gây nên nỗi khổ của những người dân thấp cổ, bé miệng như Mị và A Phủ. Bộ mặt
tàn bạo của chúng không chỉ hiện ra qua những hành động đánh dập dã man đối với kẻ ăn
người ở trong nhà mà còn qua những lời nguyền rủa của một hai cá nhân mà còn là lời
nguyền rủa của cả một chế độ xã hội. Bao giờ cịn chế độ xã hội đó thì vẫn cịn những kẻ


ác như Pá Tra và những nạn nhân của hắn như Mị và A Phủ. Xã hội phong kiến Việt
Nam vốn đã lạc hậu. Nói về nguyên nhân của những nỗi bi kịch và người dân miền núi
phải chịu đựng, Tơ Hồi cho rằng đứng đằng sau thế lực phong kiến tại chỗ là bóng dáng
của quân đội xâm lược từ phương Tây tràn đến. Trong bức tranh hiện thực của tác phẩm
Vợ chồng A Phủ, hình ảnh giặc Pháp hiện lên như là chỗ dựa, là thế lực mà bọn phong
kiến vùng cao sẵn sàng cấu kết để duy trì ách thống trị của chúng. Người dân Tây Bắc chỉ
có thể sống được một cuộc đời ấm no, hạnh phúc khi nào chấm dứt được cả hai thế lực
trên đây. Vấn đề áp bức giai cấp gắn liền với vấn đề áp bức dân tộc là một nét căn bản tạo
nên giá trị hiện thực của Vợ chồng A Phủ.


2. Gắn hiền với giá trị hiện thực của Vợ chồng A Phủ là giá trị nhân đạo xuất phát từ cái
nhìn, tấm lịng, tình u thương, nỗi xúc động... của nhà văn Tơ Hồi trước số phận của
Mị và A Phủ trong truyện ngắn này. Nhà văn bày tỏ sự thông cảm với nỗi đau khổ của
người phụ nữ bị gả bán như một thứ hàng hóa. Ớ chỗ nào nhà văn mô tả nỗi đau của Mị,
ở chỗ đó ngịi bút của ơng như cũng run lên vì xúc động. Tơ Hồi viết: “Đời người đàn bà
lấy chồng nhà giàu ở Hồng Ngài thì chỉ biết đi theo đuôi con ngựa của chồng". Mị chợt
nhớ lại câu chuyện người ta vẫn kể: “ đợt trước ở nhà thống lý Pá Tra cá một người trói
vợ trong nhà ba ngày, rồi đi chơi, khi về đến thì vợ đã chết rồi. Nhớ đến điều đó, Mị sợ
quá, cựa quậy xem mình cịn sống hay đã chết. Cổ tay, đầu bắp chân bị dây trói siết lại,
đau dứt từng mảnh thịt". Đọc đến đây ra nhớ lại câu thơ của Nguyễn Du: “Đau đớn thay
phận đàn bà".


Đó là nỗi đau của thân xác. Còn nỗi đau tinh thần? Trong hồn cảnh bị trói buộc, Mị nghĩ
rằng mình đành ngồi trong một nhà tù chật hẹp nhìn qua một lỗ vuông mà trông đợi cho
đến bao giờ chết mới thôi. Dù vậy, khát vọng làm người hạnh phúc không bao giờ lụi tàn
trong lòng Mị. Nghe tiếng sáo thổi trong rừng, Mị tha thiết nhớ lại những ngày xuân tươi
đẹp của mình và tràn trề một lịng ham sống. Ngịi bút nhân đạo của Tơ Hồi đã khơng
dửng dưng với khát vọng đó của Mị.


</div>
<span class='text_page_counter'>(37)</span><div class='page_container' data-page=37>

Mị với A Phủ: một thái độ vị tha, cùng gánh chịu khổ đau. Tình yêu của họ đã đến từ việc


chia sẻ số phận chung đó. Chính Tơ Hồi cũng nhận xét: “Cái biểu hiện cởi trói cho A
Phủ chỉ xảy ra trong khoảnh khắc, những khoảnh khắc có ý nghĩa quyết định và tồn tại
đời đời". Mị cởi trói cho A Phủ rồi tìm đến khu du kích của những làng Mông hẻo lánh
vùng Phiềng Sa. Được A Châu giác ngộ, họ tham gia đội du kích chống Pháp, trở thành
những người tự tin vào sức mạnh của chính mình. Vợ chồng A Phủ đã từ đấu tranh tự
phát vươn đến đấu tranh tự giác, từ những phản ứng có tính chất bản năng, đến sự phản
kháng có ý thức, nhất là khi nhận ra được nguyên nhân đau khổ của mình và lịng dạ của
kẻ thù. Có thể nói, qua hình tượng Mị và A Phủ, Tơ Hồi đã xây dựng được những nhân
vật có tính cách biến đổi theo quá trình của cách mạng.


Giá trị nhân đạo của Vợ chồng A Phủ là một bước tiến trong việc nhận thức, khám phá
hiện thực kháng chiến, đồng thời cũng là một bước tiến trong việc thể hiện chủ nghĩa
nhân đạo theo nhân sinh quan cách mạng. Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của nó
được hịa quyện trong một chất thơ trong sáng, màu sắc dân tộc đậm đà và văn phong
giàu tính tạo hình. Với Vợ chồng A Phủ nói riêng, Truyện Tây Bắc nói chung, Tơ Hồi
đã góp phần đổi mới đề tài miền núi thực sự bước vào văn học với những hình ảnh phong
phú, tươi đẹp và chân thực. Vợ chồng A Phủ tiên báo những thành tựu tương lai trong
sáng tác đề tài, miền núi của một lớp nhà văn sung sức xuất hiện sau Cách mạng tháng
Tám như Nguyên Ngọc, Nông Quốc Chấn, Ma Văn Kháng, Vi Hồng...


<b>Câu 16: Trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tơ Hồi (Ngữ văn 12, Tập hai, NXB</b>
Giáo dục Việt Nam, 2011), việc Mị nhìn thấy “dịng nước mắt lấp lánh bị xuống hai hõm
má đã xám đen lại” của A Phủ diễn ra trong hồn cảnh nào? Sự việc ấy có ý nghĩa gì đối
với tâm lí của nhân vật Mị?


<i><b>Gợi ý trả lời</b></i>


<b>1. Hồn cảnh diễn ra sự việc Mị nhìn thấy dòng nước mắt của A Phủ</b>


- Do sơ ý để hổ bắt mất bò, A Phủ bị thống lí Pá Tra trói đứng, bỏ mặc cho đói rét suốt


mấy đêm liền giữa kì sương muối khắc nghiệt ở Hồng Ngài; còn Mị sau bao năm bị đày
đọa cùng cực cũng đã trở nên chai lì. Những đêm trước, tuy vẫn trở dậy thổi lửa, hơ tay,
nhìn thấy A Phủ bị trói nhưng Mị chỉ dửng dưng, vơ cảm.


- Đêm ấy, ương nỗi bất lực, bế tắc và hồn tồn tuyệt vọng, A Phủ đã khóc; đúng lúc đó,
Mị nhìn sang và bắt gặp dịng nước mắt của A Phủ.


<b>2. Ý nghĩa của sự việc đối vói tâm lí của nhân vật Mị</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(38)</span><div class='page_container' data-page=38>

- Từ mối đồng cảm ấy, Mị càng hiểu sâu sắc hơn sự độc ác của cha con thống lí Pá Tra,
thấy rõ sự nguy khốn vơ lí đang áp xuống A Phủ; lòng trắc ẩn của người phụ nữ phút
chốc thức dậy đã đem lại sức mạnh cho Mị, khiến Mị dám liều mình cứu A Phủ.


<b>Câu 17: Phân tích diễn biến tâm lí và hành động của nhân vật Mị qua cảnh đêm mùa</b>
xuân Mị muốn đi chơi và bị trói trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ - Tơ Hồi (phần trích
trong Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam - 2012).


<i><b>Gợi ý trả lời</b></i>


a. Yêu cầu về kĩ năng


Biết cách làm bài nghị luận về một tác phẩm, đoạn trích văn xi; biết cách phân tích
nhân vật trong tác phẩm truyện. Kết cấu chặt chẽ, diễn đạt lưu lốt; lời văn trong sáng,
khơng mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp.


b. Yêu cầu về kiến thức


Trên cơ sở những hiểu biết về nhà văn Tơ Hồi và tác phẩm Vợ chồng A Phủ, thí sinh có
thể trình bày bài viết theo nhiều cách nhưng cần làm rơ được các ý cơ bản sau:



Nêu được vấn đề nghị luận


Hoàn cảnh xuất hiện tâm trạng và hành động của Mị


- Mị vốn là một thiếu nữ xinh đẹp, tài hoa, yêu đời; từ khi buộc phải làm con dâu gạt nợ
nhà thống lí Pá Tra, Mị cam chịu đến mức như không c ̣n ư thức


sống.


- Mùa xuân về, thiên nhiên đất trời thay đổi, khơng khí đón Tết náo nức (đối lập với
khơng gian sống và tâm trạng của Mị) khiến sức sống trong Mị trỗi dậy. Nội dung diễn
biến tâm lí và hành động của Mị


- Khi nghe tiếng sáo gọi bạn t́nh:


+ Tâm trạng: bồi hồi xúc động, thức tỉnh (ư thức về thời gian, kỉ niệm sống
dậy, tiếng sáo gợi nhớ, thấy ḿnh c ̣n trẻ, ý thức về thân phận, …) và muốn đi
chơi.


+ Hành động: khác thường (nhẩm theo bài hát, uống rượu, xắn mỡ bỏ thêm vào
đĩa đèn, sửa soạn đi chơi, …) thể hiện trạng thái phản kháng.


- Khi bị trói:


+ Tâm trạng: đau khổ, chập chờn giữa quá khứ và hiện tại (khơng biết mình bị
trói, vẫn sống với tiếng sáo, bồi hồi tha thiết, lúc mê, lúc tỉnh, …).


</div>
<span class='text_page_counter'>(39)</span><div class='page_container' data-page=39>

- Miêu tả và phân tích tâm lí nhân vật phù hợp với logic của đời sống, đạt đến sự chân
thực, tinh tế.



- Trần thuật uyển chuyển, linh hoạt; dẫn dắt t́nh tiết khéo léo, tự nhiên.


- Ngôn ngữ sinh động, chọn lọc, sáng tạo; câu văn giàu tính tạo hình và đậm chất thơ.
Đánh giá: Diễn biến tâm lí và hành động của Mị đă thể hiện một tâm hồn khao


khát hạnh phúc, một sức sống tiềm tàng mănh liệt; thể hiện tình cảm nhân đạo của nhà
văn.


Lưu ý: Nếu thí sinh có kĩ năng làm bài tốt, cơ bản đạt được các yêu cầu về kiến thức th́
vẫn cho điểm tối đa.


<b>Câu 18: Phân tích giá trị nhân đạo của truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tơ</b>
Hồi (phần trích trong Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục − 2008).


<i><b>Gợi ý trả lời</b></i>


a. Yêu cầu về kĩ năng:


Biết cách làm bài nghị luận về một tác phẩm, đoạn trích văn xi; phân tích được giá trị
tư tưởng của một tác phẩm. Kết cấu chặt chẽ, diễn đạt lưu lốt; khơng mắc lỗi chính tả,
dùng từ, ngữ pháp.


b. Yêu cầu về kiến thức:


Trên cơ sở những hiểu biết về nhà văn Tơ Hồi, truyện ngắn Vợ chồng A Phủ (chủ yếu
phần trích trong Ngữ văn 12, Tập hai) và giá trị nhân đạo trong văn học, thí sinh có thể
tŕnh bày theo nhiều cách, nhưng cần làm rơ được các ư cơ bản sau:


− Nêu được vấn đề cần nghị luận.



− Tố cáo sự tàn bạo của giai cấp thống trị miền núi (tiêu biểu là cha con thống lí Pá
Tra).


− Bênh vực và cảm thơng sâu sắc với những con người có số phận bất hạnh như Mị,
A Phủ.


− Trân trọng khát vọng tự do, hạnh phúc và phẩm chất tốt đẹp của người lao động
nghèo miền núi trong xă hội cũ.


− Đồng tình với tinh thần phản kháng, đấu tranh của những người bị áp bức và vạch
ra con đường giải phóng cho họ.


− Đánh giá chung về giá trị nhân đạo của tác phẩm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(40)</span><div class='page_container' data-page=40></div>

<!--links-->

×