Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU KIỆN KINH DOANH TRONG LĨNH VỰC KINH DOANH BẢO HIỂM Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.49 MB, 76 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HÀ THỊ BẠCH

PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU KIỆN KINH DOANH
TRONG LĨNH VỰC KINH DOANH BẢO HIỂM
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

HÀ NỘI, 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HÀ THỊ BẠCH

PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU KIỆN KINH DOANH
TRONG LĨNH VỰC KINH DOANH BẢO HIỂM
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Ngành: Luật kinh tế
Mã số: 8 38 01 07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRẦN VĂN BIÊN

HÀ NỘI, 2020



LỜI CAM ĐOAN
Tơi cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học của riêng tơi. Các số liệu,
và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết
luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình khoa học
nào khác.
Tác giả luận văn

Hà Thị Bạch


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU KIỆN
KINH DOANH TRONG LĨNH VỰC KINH DOANH BẢO HIỂM ......... 7
1.1. Lý luận về điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm
................................................................................................................. 7
1.2. Lý luận pháp luật về điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực kinh doanh
bảo hiểm ................................................................................................ 21
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH
VỀ ĐIỀU KIỆN KINH DOANH TRONG LĨNH VỰC KINH
DOANH BẢO HIỂM ............................................................................... 29
2.1. Thực trạng quy định pháp luật về điều kiện kinh doanh trong lĩnh
vực kinh doanh bảo hiểm ...................................................................... 29
2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực
kinh doanh bảo hiểm ............................................................................. 40
Chương 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU KIỆN
KINH DOANH TRONG LĨNH VỰC KINH DOANH BẢO HIỂM Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY............................................................................ 50
3.1. Yêu cầu đối với việc hoàn thiện pháp luật về điều kiện kinh doanh

trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm ..................................................... 50
3.2. Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về điều kinh doanh
trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm ..................................................... 55
KẾT LUẬN ................................................................................................ 67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................. 70


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận văn
Thời gian qua để cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, Quốc hội đã
ban hành Luật Đầu tư năm 2014 (sửa đổi, bổ sung vào năm 2016) [16]; trong
đó, quy định cụ thể danh mục các ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện,
bao gồm 21 ngành nghề thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Tài chính,
trong đó có 04 ngành nghề đối với lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm.
Để tăng cường thu hút đầu tư kinh doanh, tạo mơi trường kinh doanh thơng
thống, minh bạch, cơng bằng cho các nhà đầu tư và thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế, Bộ Tài chính đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 151/2018/NĐ-CP
ngày 07/11/2018 sửa đổi, bổ sung một số Nghị định quy định về điều kiện đầu
tư, kinh doanh thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Tài chính, trong đó có
lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm.
Theo Luật Đầu tư, trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm có kinh doanh
bảo hiểm, kinh doanh tái bảo hiểm, đại lý bảo hiểm, môi giới bảo hiểm và cung
cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm là ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Tại mỗi
ngành nghề này, pháp luật về kinh doanh bảo hiểm có quy định về điều kiện
kinh doanh. Điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm được
đặt ra với mục tiêu kiểm soát hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm
có khả năng ảnh hưởng lớn tới lợi ích cơng cộng, trật tự an tồn xã hội, qua đó
góp phần giúp nhà nước điều tiết, định hướng phát triển kinh tế khắc phục
những hạn chế của thị trường.
Năm 2019, để tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao

năng lực cạnh tranh quốc gia thì nhiệm vụ cắt giảm điều kiện đầu tư kinh doanh
càng được chú trọng. Tại Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 01/01/2019 về nhiệm
vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán
ngân sách nhà nước năm 2019; Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 01/01/2019 về
tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh
1


doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2019 và định hướng đến
năm 2021, Chính phủ tiếp tục u cầu các Bộ, ngành rà sốt, trình Chính phủ
bãi bỏ, đơn giản hóa các điều kiện kinh doanh khơng rõ ràng, khơng cụ thể,
khơng khả thi.
Theo đó, để đáp ứng yêu cầu của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong
tình hình mới thì ngay từ khi xây dựng, ban hành văn bản Quy phạm pháp luật
về điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm cần phải có các
nguyên tắc, các thức xác định điều kiện kinh doanh để quy định cho phù hợp.
Đồng thời, đối với việc đơn giản hóa điều kiện kinh doanh cũng cần có phương
pháp, cách thức hợp lý, cũng như thay đổi phương thức quản lý để bãi bỏ, cắt
giảm những điều kiện kinh doanh không cần thiết, không hợp lý, ảnh hưởng
đến người dân và doanh nghiệp.
Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu đề tài "Pháp luật về điều kiện kinh
doanh trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam hiện nay” là cần thiết.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Qua rà sốt cũng có một số báo cáo, cơng trình nghiên cứu về vấn đề điều
kiện đầu tư kinh doanh, ví dụ như:
- Vũ Thị Hiền (2014), “Thực trạng pháp luật về điều kiện kinh doanh ở
Việt Nam”, Luận văn Thạc sỹ Luật học của Đại học Luật Hà Nội;
- Phịng Thương mại và Cơng nghiệp Việt Nam (2014), “Báo cáo rà soát
điều kiện kinh doanh và quyền tự do kinh doanh ở Việt Nam”, Báo cáo;
- CIEM (2017), “Báo cáo kinh doanh có điều kiện”, Báo cáo;

- Quách Ngọc Tuấn (2018), “Đánh giá thực trạng các quy định về điều
kiện đầu tư kinh doanh và giải pháp hoàn thiện ”, Đề tài.
- Nguyễn Thu Dung (2018), “Điều kiện kinh doanh - Những vấn đề lý luận
và thực tiễn”, Đề tài khoa học cấp cơ sở của Viện Nhà nước và Pháp luật.
- Phòng Thương mại và Cơng nghiệp Việt Nam (2019), “Báo cáo dịng
chảy pháp luật kinh doanh”, Báo cáo.
2


Vào thời điểm sau khi Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư 2014 được ban
hành, các nghiên cứu về điều kiện kinh doanh một lần nữa lại được giới khoa
học pháp lý quan tâm nghiên cứu với nhiều cơng trình đa dạng. Tiêu biểu như
“Báo cáo rà soát điều kiện kinh doanh” của Phịng Thương mại và Cơng nghiệp
Việt Nam năm 2013-2014 nhằm phục vụ cho việc sửa đổi hai đạo luật nói trên.
Đây là kết quả điều tra khảo sát tương đối đầy đủ và toàn diện về các điều kiện
kinh doanh hiện hành và từ kết quả nghiên cứu này, một tinh thần kiên quyết
làm minh bạch hóa và đơn giản hóa các điều kiện kinh doanh đã được Nhà nước
tiếp thu trong quá trình sửa đổi, bổ sung hai luật nêu trên. Ngoài ra, nghiên cứu
về điều kiện kinh doanh cịn được thể hiện thơng qua các cơng trình luận văn,
luận án. Nhìn chung, các nghiên cứu về điều kiện đầu tư kinh doanh hầu hết
đều là những nghiên cứu mang tính rà sốt chung, tổng thể các ngành nghề kinh
doanh có điều kiện ở Việt Nam hiện nay mà chưa có nghiên cứu nào cụ thể về
điều kiện đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, để chỉ ra
những mặt được, mặt hạn chế, tìm ra nguyên nhân và đưa ra giải pháp hoàn
thiện pháp luật về điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm ở
Việt Nam, nhằm cải thiện mơi trường kinh doanh tại Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu:
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và
thực tiễn pháp luật về điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm

tại Việt Nam, qua đó đề xuất giải pháp hồn thiện pháp luật về điều kiện kinh
doanh trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam hiện nay
Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Nghiên cứu nội hàm khái niệm về điều kiện kinh doanh, kinh doanh bảo
hiểm và làm rõ một số vấn đề lý luận pháp luật về điều kiện kinh doanh trong
lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm.
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật hiện hành về điều kiện kinh
3


doanh trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm và thực tiễn tình hình thực hiện pháp
luật này ở Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về điều kiện kinh
doanh trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định
pháp luật hiện hành về điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực kinh doanh bảo
hiểm ở Việt Nam hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu pháp luật về điều kiện
kinh doanh trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm từ năm 2000 (từ khi Quốc hội
ban hành Luật Kinh doanh bảo hiểm) đến năm 2019 và bối cảnh thực hiện pháp
luật là ở Việt Nam.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết:
Phân tích và tổng hợp là phương pháp nghiên cứu các tài liệu, lý luận khác
nhau bằng cách phân tích chúng thành từng bộ phận để tìm hiểu sâu sắc về đối
tượng, sau đó tổng hợp lại từng mặt, từng bộ phận thơng tin đã được phân tích
tạo ra một hệ thống lý thuyết mới đầy đủ và sâu sắc về đối tượng. Phương pháp
phân tích và tổng hợp lý thuyết được sử dụng để nghiên cứu phần lý luận của
đề tài.

- Phương pháp so sánh và đối chiếu:
So sánh và đối chiếu là phương pháp nghiên cứu lấy một việc, một sự vật
có tính tương đồng để tìm ra điểm giống hoặc khác nhau, qua đó đánh giá mặt
được, mặt chưa được của nội dung phân tích. Phương pháp này được sử dụng
để nghiên cứu quy định pháp lý với tình hình thực tế thực hiện.
- Phương pháp phân loại và hệ thống hóa lý thuyết:
Phân loại và hệ thống hóa là phương pháp nghiên cứu sắp xếp các tài liệu

4


khoa học theo từng mặt, từng đơn vị, từng vấn đề có cùng dấu hiệu bản chất,
cùng một hướng phát triển, sau đó sắp xếp thành một hệ thống. Phương pháp
phân loại và hệ thống hóa lý thuyết được sử dụng để nghiên cứu thực trạng của
đề tài.
- Phương pháp giả thuyết:
Là phương pháp đưa ra các dự đoán về quy luật của đối tượng sau đó đi
chứng minh dự đốn đó là đúng. Phương pháp này được sử dụng để đưa ra các
đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn đã hệ thống hóa, làm rõ hơn những vấn đề lý luận pháp luật về
điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm.
Bằng việc làm rõ thực trạng quy định pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp
luật về điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam,
luận văn chỉ ra những kết quả đạt được, những điểm còn hạn chế làm cơ sở cho
việc đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về điều kiện kinh doanh
trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, góp phần cải thiện mơi trường đầu tư kinh
doanh tại Việt Nam.
Các kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham
khảo cho các hoạt động học tập và nghiên cứu tại các cơ sở đào tạo. Những đề

xuất, kiến nghị mà luận văn nêu ra có giá trị tham khảo trong việc hoàn thiện
pháp luật về điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm ở Việt
Nam hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận pháp luật về điều kiện kinh doanh trong
lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm.

5


Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam hiện hành về điều kiện kinh
doanh trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về điều kiện kinh doanh trong
lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam hiện nay.

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU KIỆN
KINH DOANH TRONG LĨNH VỰC KINH DOANH BẢO HIỂM
1.1. Lý luận về điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm
1.1.1. Khái quát về điều kiện kinh doanh
Điều kiện kinh doanh là một trong những vấn đề pháp lý quan trọng mà
hầu hết pháp luật các quốc gia trên thế giới đều quy định. Nội dung điều kiện
kinh doanh có ảnh hưởng trực tiếp đến mơi trường kinh doanh cũng như sự phát
triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Về mặt thuật ngữ, dường như không có
sự thống nhất về “điều kiện kinh doanh”. Theo từ điển Tiếng Việt, “điều kiện”

được hiểu là cái cần phải có để cho một cái khác có thể có hoặc có thể xảy ra.
Hoặc cũng có thể hiểu “điều kiện” còn là điều nêu ra như một đòi hỏi trước khi
thực hiện một cơng việc nào đó. Cịn “kinh doanh” là các hoạt động đầu tư, sản
xuất, mua bán, cung ứng dịch vụ do các chủ thể kinh doanh tiến hành một cách
độc lập, thường là mục đích tạo ra lợi nhuận. Một số ý kiến khác của các nhà
nghiên cứu cho rằng “Điều kiện kinh doanh là mọi sự can thiệp của cơ quan
hành chính vào quyền tự do kinh doanh của người dân, thường được cụ thể hóa
bằng những hành vi của nhân viên hành chính có quyền chấp nhận, hạn chế
hoặc khước từ việc đăng kí hoặc tổ chức những hoạt động kinh doanh cụ thể”.
Trong đó, hành vi hành chính có thể biểu hiện ở nhiều dạng thức khác nhau
như thông qua một văn bản pháp quy ấn định những hạn chế cho người kinh
doanh, thông qua hành vi cấp phép chấp thuận hoặc từ chối của cơ quan hành
chính, thơng qua hành vi giám sát của cơ quan hành chính về việc tuân thủ điều
kiện kinh doanh...
Như vậy, theo cách hiểu thông thường, về bản chất điều kiện kinh doanh
là những yêu cầu, đòi hỏi của Nhà nước mà chủ thể kinh doanh phải có hay
phải thực hiện trước khi tiến hành các hoạt động kinh doanh nhất định như sản
7


xuất, phân phối, bn bán, dịch vụ nhằm mục đích thu lợi nhuận. Vì vậy, với
tính chất là một hình thức can thiệp của Nhà nước vào hoạt động kinh doanh,
điều kiện kinh doanh sẽ được nhìn nhận với tính chất là công cụ quản lý của
Nhà nước.
Ở Việt Nam, tại Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân năm 1990,
mặc dù không quy định trực tiếp về “điều kiện kinh doanh”, nhưng những yêu
cầu của Nhà nước đối với các chủ thể kinh doanh cũng đã tồn tại. Ở thời kỳ
này, trước khi bắt đầu hoạt động kinh doanh, tổ chức hoặc cá nhân phải “xin
phép” Nhà nước, thể hiện dưới hình thức “Giấy phép thành lập cơng ty” trước
khi tiến hành kinh doanh và Cơng ty có nghĩa vụ kinh doanh ngành nghề theo

giấy phép. Có thể thấy, các quy định của pháp luật thời kỳ này thể hiện rõ quan
điểm rằng, doanh nghiệp chỉ được kinh doanh những gì mà Nhà nước cho phép.
Thuật ngữ “điều kiện kinh doanh” được sử dụng trong Luật Doanh
nghiệp năm 1999 và gắn liền với nó là danh mục các ngành, nghề mà luật, pháp
lệnh hoặc nghị định quy định phải có điều kiện. Và tại Điều 5 Nghị định số
03/2000/NĐ-CP ngày 03/2/2000 hướng dẫn thi hành một số điều của Luật
Doanh nghiệp năm 1999, danh mục các ngành, nghề mà luật, pháp lệnh hoặc
nghị định quy định phải có điều kiện được gọi là “Ngành, nghề kinh doanh có
điều kiện”. Đây cũng là lần đầu tiên thuật ngữ “Ngành, nghề kinh doanh có
điều kiện” được quy định tại một văn bản quy phạm pháp luật.
Tuy nhiên, Luật Doanh nghiệp năm 1999 chưa có quy định tiêu chí xác
định điều kiện kinh doanh mà được thể hiện dưới hình thức là “Giấy phép kinh
doanh” hoặc là các quy định pháp luật khác như “có đủ điều kiện kinh doanh
theo quy định”. Đối với các điều kiện kinh doanh phải có giấy phép, doanh
nghiệp chỉ được thực hiện kinh doanh sau khi có giấy phép. Đối với các điều
kiện kinh doanh không cần phép, doanh nghiệp được quyền kinh doanh ngành,
nghề đó kể từ khi có đủ các điều kiện kinh doanh theo quy định và cam kết thực
hiện đúng các điều kiện đó trong suốt q trình hoạt động kinh doanh. Theo đó,
8


Luật Doanh nghiệp năm 1999 xác định rõ chỉ có Quốc hội (ban hành Luật), Ủy
ban Thường vụ Quốc hội (ban hành Pháp lệnh), Chính phủ (ban hành Nghị
định) mới có thẩm quyền quy định ngành, nghề cấm kinh doanh, ngành nghề
kinh doanh có điều kiện và điều kiện kinh doanh đối với ngành, nghề đó. Các
Bộ, Ủy ban nhân dân không được quyền ban hành quy định về cấm và kinh
doanh có điều kiện.
Tại Điều 7 Luật Doanh nghiệp năm 2005 quy định: “Điều kiện đầu tư
kinh doanh là yêu cầu mà doanh nghiệp phải có hoặc phải thực hiện khi kinh
doanh ngành, nghề cụ thể, được thể hiện bằng giấy phép kinh doanh, giấy

chứng nhận đủ điều kiện đầu tư kinh doanh, chứng chỉ hành nghề, chứng nhận
bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp, yêu cầu về vốn pháp định hoặc yêu cầu
khác.”. Tuy nhiên, cách giải thích về điều kiện kinh doanh tại Luật Doanh
nghiệp năm 2005 mới chỉ trên cơ sở liệt kê các hình thức pháp lý mà chưa nêu
được bản chất của điều kiện kinh doanh. Luật Doanh nghiệp năm 2005 cũng
quy định cụ thể trách nhiệm của Chính phủ trong việc đánh giá, rà sốt lại các
điều kiện kinh doanh để từ đó bãi bỏ hoặc kiến nghị bãi bỏ các điều kiện khơng
cịn phù hợp, sửa đổi các điều kiện kinh doanh không còn hợp lý; ban hành
hoặc kiến nghị ban hành điều kiện kinh doanh mới. Đồng thời, Luật Doanh
nghiệp năm 2005 cũng quy định cấm việc các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Hội đồng
nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp quy định về ngành, nghề kinh doanh có
điều kiện và điều kiện kinh doanh.
Tại Luật Doanh nghiệp năm 2014 và Luật Đầu tư năm 2014: Điểm mới
quan trọng của Luật Doanh nghiệp năm 2014 là điều kiện kinh doanh và ngành,
nghề kinh doanh có điều kiện đã được chuyển sang phạm vi điều chỉnh của
Luật Đầu tư năm 2014 và thuật ngữ “điều kiện kinh doanh” được thay thế bằng
thuật ngữ “điều kiện đầu tư kinh doanh” và thuật ngữ “ngành, nghề kinh doanh
có điều kiện” được thay thế bằng thuật ngữ “ngành, nghề đầu tư kinh doanh có
điều kiện”.
9


Luật Đầu tư năm 2014 quy đinh: “ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều
kiện là ngành, nghề mà việc thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh trong
ngành, nghề đó phải đáp ứng điều kiện vì lý do quốc phịng, an ninh quốc gia,
trật tự, an tồn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Đồng thời,
khoản 4 Điều 7 Luật Đầu tư năm 2014 cũng giải thích: “Điều kiện đầu tư kinh
doanh phải được quy định phù hợp với mục tiêu quy định tại khoản 1 Điều này
và phải bảo đảm công khai, minh bạch, khách quan, tiết kiệm thời gian, chi phí
tuân thủ của nhà đầu tư”. Thuật ngữ “điều kiện đầu tư kinh doanh” chỉ được

giải thích mang tính viện dẫn tại Nghị định số 118/2015/NĐ-CP, theo đó, điều
kiện đầu tư kinh doanh là “điều kiện mà cá nhân, tổ chức phải đáp ứng theo
quy định của luật, pháp lệnh, nghị định và điều ước quốc tế về đầu tư khi thực
hiện hoạt động đầu tư, kinh doanh trong các ngành, nghề quy định tại Phụ lục
4 Luật Đầu tư”.
Có thể thấy, mặc dù Luật Đầu tư năm 2014 không trực tiếp đưa ra cách
giải thích về điều kiện đầu tư kinh doanh, nhưng bằng các quy định về ngành,
nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện và cách thức xây dựng, ban hành một điều
kiện đầu tư kinh doanh, các quy định đã cho thấy khái niệm chung nhất về “điều
kiện đầu tư kinh doanh”. Theo đó, có thể hiểu là các yêu cầu mà Nhà nước đặt
ra vì lý do quốc phịng, an ninh quốc gia, trật tự, an tồn xã hội, đạo đức xã hội,
sức khỏe cộng đồng mà doanh nghiệp buộc phải tuân thủ trong quá trình thực
hiện hoạt động đầu tư và kinh doanh của mình. Các quy định này đã phần nào
làm rõ được mục tiêu cũng như các u cầu cần có của q trình xây dựng và
ban hành một điều kiện đầu tư kinh doanh.
Luật Đầu tư năm 2014 đã kế thừa Luật Doanh nghiệp năm 1999 khi quy
định về hai hình thức của các điều kiện đầu tư kinh doanh gồm điều kiện đầu
tư kinh doanh phải có một văn bản chấp thuận nào đó của Nhà nước và các điều
kiện đầu tư kinh doanh khơng cần phải có văn bản chấp thuận mà chỉ cần tuân
thủ các quy định hiện hành. [7, tr.12-13]. Đồng thời, doanh nghiệp phải đáp
10


ứng các điều kiện đầu tư kinh doanh trước thời điểm bắt đầu hoạt động kinh
doanh và phải duy trì điều kiện đầu tư kinh doanh đó trong suốt quá trình hoạt
động. Nói cách khác, các điều kiện kinh doanh là các yêu cầu của Nhà nước mà
doanh nghiệp phải duy trì từ lúc bắt đầu kinh doanh và trong suốt quá trình hoạt
động kinh doanh của mình.
Như vậy, từ các góc độ tiếp cận nêu trên, có thể hiểu, điều kiện kinh
doanh là những yêu cầu mang tính bắt buộc của Nhà nước áp dụng đối với một

hoạt động kinh doanh cụ thể nhằm mục đích bảo đảm quốc phịng, an ninh quốc
gia, trật tự, an tồn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.
1.1.2. Khái quát về kinh doanh bảo hiểm
Nhu cầu an toàn đối với các cá nhân và tổ chức trong xã hội là vĩnh cửu.
Lúc nào con người cũng tìm cách để bảo vệ chính bản thân và tài sản của mình
trước những bất hạnh của số phận và những biến cố bất ngờ xảy ra trong sản
xuất kinh doanh. Ngay từ thời cổ đại đã xuất hiện các tổ chức gần giống với
bảo hiểm, chẳng hạn người Ba-Bi-Lon đã đưa ra những quy tắc tổ chức phương
tiện vận tải bằng xe kéo để phân chia các thiệt hại do mất cắp và bị cướp cho
các thương gia cùng gánh chịu. Hoặc vào thế kỷ thứ V trước công nguyên, PêRi-Gex đã tổ chức Hội đoàn tương hỗ nhằm trợ giúp cho các thành viên và gia
đình của họ trong các trường hợp bị tử vong, ốm đau, bệnh tật hay hoả hoạn...
Sang thời Trung cổ, các quy tắc về bảo hiểm hàng hải đã bắt đầu được hình
thành, song phải đến năm 1347 bản hợp đồng bảo hiểm đầu tiên mới được ký
kết tại Gênes. Và cũng chính tại Gênes năm 1424, công ty bảo hiểm hàng hải
đầu tiên đã ra đời, đánh dấu sự phát triển của ngành bảo hiểm và sự ra đời hoạt
động kinh doanh bảo hiểm. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm phát triển mạnh mẽ
nhất từ cuối thế kỷ XVII và đến nay nó đã trở thành một lĩnh vực kinh doanh đặc
biệt, phổ biến ở tất cả các quốc gia trên thế giới.
Từ bản chất của kinh doanh bảo hiểm nêu trên, đề tài nhận định kinh doanh
11


bảo hiểm có các đặc điểm sau đây:
Mục đích kinh tế của Kinh doanh bảo hiểm là lợi nhuận, đây là mục đích
chính mà các doanh nghiệp bảo hiểm hướng tới. Chỉ có thu được lợi nhuận
doanh nghiệp bảo hiểm mới có thể tồn tại và phát triển được trong điều kiện
kinh tế thị trường.
Thực chất của hoạt động kinh doanh bảo hiểm là các doanh nghiệp bảo
hiểm chấp nhận rủi ro mà bên tham gia bảo hiểm chuyển giao cho họ, đồng thời
chấp nhận trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường cho bên tham gia khi có các sự

kiện bảo hiểm xảy ra. Đổi lại doanh nghiệp sẽ thu được phí bảo hiểm để hình
thành quỹ dự trữ, bồi thường, trang trải các khoản chi phí có liên quan và có
lãi.
Phạm vi mà doanh nghiệp bảo hiểm xác định và lựa chọn là các rủi ro
mà doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận bảo hiểm, có thể là các rủi ro xảy ra trong
tương lai (có nghĩa là nó chưa xảy ra); Rủi ro có tính chất bấp bênh (có nghĩa
là xảy ra ngẫu nhiên hoặc có chắc chắn xảy ra thì cũng khơng biết trước được
thời điểm); Rủi ro không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của người được bảo
hiểm; Các rủi ro không thuộc phạm vi cấm của pháp luật…
Như vậy, có thể hiểu Kinh doanh bảo hiểm là hoạt động của doanh
nghiệp bảo hiểm nhằm mục đích sinh lợi, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm chấp
nhận rủi ro của bên mua bảo hiểm, trên cơ sở bên mua đóng phí bảo hiểm để
doanh nghiệp trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho bên
mua bảo hiểm khi có các sự kiện bảo hiểm xảy ra.
Vai trò của bảo hiểm đối với nền kinh tế rất quan trọng thể hiện trên các
mặt: Góp phần ổn định kinh tế vĩ mô (bằng kết quả hoạt động góp phần thúc
đẩy thị trường bảo hiểm tăng trưởng và đóng góp cho ngân sách nhà nước);
Góp phần hỗ trợ chính sách an sinh xã hội (sản phẩm bảo hiểm trách nhiệm dân
12


sự xe cơ giới, bảo hiểm nông nghiệp, bảo hiểm thiên tai), góp phần bảo vệ tài
chính, đảm bảo mơi trường đầu tư lành mạnh, ổn định (tư vấn cho khách hàng
đánh giá rủi ro, tham gia bảo hiểm, bảo vệ tài chính, tài sản của mình giúp ổn
định hoạt động sản xuất kinh doanh); góp phần đảm bảo an ninh kinh tế, an
ninh chính trị (đồng hành cùng cơ quan quản lý xây dựng các chính sách bảo
hiểm mang tính xã hội); thúc đẩy hợp tác kinh tế quốc tế (kết nối thị trường bảo
hiểm Việt Nam và thị trường quốc tế).
1.1.3. Khái quát về điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực kinh doanh
bảo hiểm

1.1.3.1. Khái niệm về điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực kinh doanh
bảo hiểm
Trong quá trình kinh doanh, doanh nghiệp bảo hiểm phải thực hiện nhiều
điều kiện ở những mức độ khác nhau phụ thuộc vào quy mơ, tính chất của hoạt
động kinh doanh. Trong đó, có những điều kiện đặt ra bởi chính nhu cầu kinh
doanh của doanh nghiệp, có những điều kiện kinh doanh đặt ra do các yếu tố
khác như cơ chế thị trường, đối tác kinh doanh hay đối thủ cạnh tranh của doanh
nghiệp. Các điều kiện này có thể được ghi nhận trong hợp đồng kinh doanh,
văn bản thỏa thuận với đối tác của doanh nghiệp... Các điều kiện này có được
đáp ứng hay khơng và ở mức độ nào đều phụ thuộc vào ý chí chủ quan của
doanh nghiệp.
Khác với những điều kiện trên, có những điều kiện bắt buộc doanh
nghiệp bảo hiểm phải đáp ứng khi tiến hành hoạt động kinh doanh cụ thể mà
không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của doanh nghiệp, đó là điều kiện kinh doanh
, Nhà nước là chủ thể duy nhất có thẩm quyền đặt ra những điều kiện này.
Như vậy, có thể hiểu điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực kinh doanh bảo
hiểm là điều kiện mà cá nhân, tổ chức phải đáp ứng theo quy định của luật, nghị
định và điều ước quốc tế về đầu tư khi thực hiện hoạt động đầu tư, kinh doanh

13


trong các ngành, nghề kinh doanh có điều kiện thuộc lĩnh vực kinh doanh bảo
hiểm.
1.1.3.2. Mục đích của việc đặt ra điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực
kinh doanh bảo hiểm
Hiện nay, lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm có điều kiện kinh doanh quy
định tại các ngành nghề: kinh doanh bảo hiểm; kinh doanh tái bảo hiểm; môi
giới bảo hiểm; đại lý bảo hiểm và cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm.
Nhà nước đặt ra điều kiện kinh doanh không phải để hạn chế quyền tự

do kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm mà để thực thi trách nhiệm của mình
trong việc bảo vệ những lợi ích mà Nhà nước quan tâm, bao gồm lợi ích của
bên mua bảo hiểm (người tiêu dùng) và lợi ích của Nhà nước (bảo đảm an ninh,
trật tự xã hội, đạo đức, sức khỏe cộng đồng). Như vậy, bản thân các điều kiện
kinh doanh không phải mục tiêu mà Nhà nước hướng tới, chúng chỉ là những
phương tiện để đạt được lợi ích mà Nhà nước mong muốn. Ví dụ, khi Nhà nước
yêu cầu đại lý bảo hiểm phải có người có chứng chỉ đại lý bảo hiểm do cơ sở
đào tạo được Bộ Tài chính chấp thuận cấp thì mới được tư vấn bảo hiểm cho
khách hàng thì cái Nhà nước mong muốn khơng phải là cơ sở đó có người có
chứng chỉ đại lý bảo hiểm mà chính là việc người dân được hưởng dịch vụ tư
vấn bảo hiểm bởi người có tay nghề chun mơn cao được đào tạo về bảo hiểm
để tư vấn cho khách hàng đúng về sản phẩm bảo hiểm, lợi ích khi tham gia dịch
vụ này.
Bảo hiểm là ngành nghề mà sự tiêu dùng nó có thể gây ra những rủi ro
nhất định cho người sử dụng, xuất phát từ bản chất của bảo hiểm là kinh doanh
sự kiện có thể xảy ra hoặc khơng xảy ra trong tương lai (như tai nạn, hỏa
hoạn…) nên người gánh chịu rủi ro nhiều hơn bao giờ cũng là người tiêu
dùng...Vì thế, trong trường hợp này, Nhà nước buộc phải can thiệp vào để cải
thiện tình trạng bất cân xứng giữa hai bên bằng cách đưa ra các yêu cầu để giảm
thiểu tính rủi ro mà các doanh nghiệp bảo hiểm buộc phải tuân thủ.
14


1.1.3.3. Đặc điểm của điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực kinh doanh
bảo hiểm
Thứ nhất, điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm là
yêu cầu được đặt ra bởi Quốc hội và Chính phủ được quy định trong văn bản quy
phạm pháp luật là Luật Kinh doanh bảo hiểm và Nghị định số 73/2016/NĐ-CP,
Nghị định 151/2018/NĐ-CP và Nghị định số 80/2019/NĐ-CP.
Theo Luật Đầu tư năm 2014, chủ thể có thẩm quyền quy định về điều

kiện kinh doanh chỉ gồm Quốc hội, Chính phủ, dưới hình thức văn bản tương
ứng là luật, pháp lệnh, nghị định. Các quy định về điều kiện kinh doanh do chủ
thể khác ban hành dưới các hình thức văn bản khác đều khơng có hiệu lực thi
hành. Như vậy, khơng phải mọi u cầu, đòi hỏi đặt ra trong hoạt động kinh
doanh đều là điều kiện kinh doanh. Chỉ những điều kiện được được ban hành
đúng chủ thể và hình thức văn bản quy phạm pháp luật mới được coi là điều
kiện kinh doanh và có hiệu lực bắt buộc đối với chủ thể kinh doanh. Đây là đặc
điểm mang tính pháp lý của điều kiện kinh doanh và phân biệt điều kiện kinh
doanh theo định nghĩa trên với các điều kiện thông thường khác.
Thứ hai, điều kiện kinh doanh là cơ sở để Bộ Tài chính quản lý hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm và các tổ chức, cá nhân có liên quan
đến hoạt động kinh doanh bảo hiểm, giới hạn quyền tự do kinh doanh của chủ
thể kinh doanh.
Tự do kinh doanh là một trong những quyền hiến định của công dân.
Hiến pháp năm 2013 của Việt Nam quy định: “Mọi người có quyền tự do kinh
doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm.”. Tuy nhiên, đối với
một số ngành nghề kinh doanh có điều kiện trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm
có ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng
đồng thì phải đáp ứng một số điều kiện do Nhà nước đặt ra khi tiến hành hoạt
động kinh doanh.

15


Điều kiện kinh doanh là cơ sở pháp lý quan trọng để Nhà nước quản lý
hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Căn cứ vào các nội dung của điều kiện kinh
doanh trong ngành nghề cụ thể, cơ quan có thẩm quyền có thể cấp phép hoặc
khơng cấp phép kinh doanh cho doanh nghiệp hoặc kiểm tra, giám sát toàn bộ
hoạt động kinh doanh, bảo đảm hoạt động đó tuân thủ đúng các điều kiện, yêu
cầu theo quy định.

Thứ ba, điều kiện kinh doanh gắn liền với một số ngành nghề, lĩnh vực
kinh doanh bảo hiểm nhất định
Nhà nước chỉ đặt ra điều kiện kinh doanh trong một số ngành nghề, lĩnh
vực kinh doanh bảo hiểm nhất định nhằm mục tiêu bảo vệ lợi ích cơng cộng
nhất định. Xuất phát từ mục đích này, điều kiện kinh doanh chỉ áp dụng trong
phạm vi một số ngành nghề nhất định mà không đặt ra với tất cả ngành nghề
kinh doanh bảo hiểm. Điều kiện kinh doanh được quy định trong chính văn bản
pháp luật quy định về ngành nghề kinh doanh có điều kiện.
Thứ tư, điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm là một
trong những biện pháp điều tiết nền kinh tế thị trường nhằm bảo vệ quyền và
lợi ích chính đáng của các tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm; duy trì sự cơng
bằng, an tồn và ổn định của thị trường bảo hiểm đạt mục đích kinh tế - xã hội
nhất định.
Việc quy định về điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực kinh doanh bảo
hiểm có tác động trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
bảo hiểm, đồng thời cũng là cơ sở quan trọng để Nhà nước thực hiện quản lý
các hoạt động kinh doanh và bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các tổ
chức, cá nhân tham gia bảo hiểm.
Tại một số nước cũng coi việc quy định điều kiện kinh doanh là một
trong những biện pháp để điều tiết nền kinh tế thị trường nhằm đạt mục đích
kinh tế - xã hội nhất định. Song song với đó, điều kiện kinh doanh cũng nhằm

16


bảo vệ người tiêu dùng, bảo vệ môi trường và bảo vệ lợi ích cộng đồng, đảm
bảo trật tự, an toàn xã hội.
Như tại Trung Quốc [8, tr9-10], các quy định về điều kiện kinh doanh
được quan tâm rất sát sao và đưa ra nhiều quy định phù hợp với điều kiện kinh
tế xã hội, thể hiện tại các đạo Luật có hiệu lực cao như: Luật Cơng ty năm 2005,

Luật Cấp phép kinh doanh năm 2004 và các đạo luật chuyên ngành khác. Nhìn
chung các điều kiện kinh doanh được thể hiện ở hình thức văn bản chấp thuận
hay điều kiện kinh doanh. Doanh nghiệp Trung Quốc luôn phải bảo đảm duy
trì đầy đủ điều kiện kinh doanh cả trước thành lập doanh nghiệp và sau khi
doanh nghiệp đi vào hoạt động; trong đó, trước tiên là điều kiện về tên doanh
nghiệp được Cục quản lý Công nghiệp và Thương mại địa phương (AIC) chấp
thuận tên thì chủ thể kinh doanh đó mới được tiến hành các hoạt động đăng ký
kinh doanh tiếp theo, và điều kiện về vốn pháp định theo từng loại hình cơng
ty TNHH 1 thành viên/2 thành viên trở lên hoặc công ty cổ phần và được ngân
hàng xác nhận về số vốn góp. Nếu việc góp vốn ban đầu khơng bằng tiền mặt,
mà bằng tài sản thì chủ thể góp vốn phải thực hiện chuyển quyền sở hữu tài sản
cho công ty và giá trị tài sản phải được thẩm định một cách hợp pháp hoặc phải
có báo cáo thẩm tra vốn từ cơ quan kiểm toán. Đây là tài liệu bắt buộc trong hồ
sơ đăng ký doanh nghiệp. Vốn pháp định ở Trung Quốc khơng nhất thiết phải
góp đủ ở thời điểm đăng ký doanh nghiệp mà có thời gian tối đa để thực hiện
việc góp vốn này.
Khi thực hiện hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp trong một số trường
hợp nhất định phải xin phép hoạt động với cơ quan chuyên ngành quản lý lĩnh
vực mà doanh nghiệp đó kinh doanh. Đầu tiên phải kể đến hệ thống cấp phép,
bao gồm:
- Giấy phép kinh doanh tạm thời: Đây là giấy phép do cơ quan có thẩm
quyền cấp trong thời gian doanh nghiệp chờ đợi góp đầy đủ vốn pháp định.
Vốn pháp định được góp đầy đủ theo quy định của cơ quan có thẩm quyền,
17


khi doanh nghiệp đã đủ vốn pháp định, thời gian ở Giấy phép kinh doanh sẽ
được điều chỉnh theo thời gian hoạt động thực tế của doanh nghiệp.
- Giấy phép kinh doanh bắt buộc: Đây là yêu cầu bắt buộc phải có ở
Trung Quốc gắn liền với một số ngành nghề nhất định như: xuất nhập khẩu,

sản xuất, kinh doanh thuốc, khám chữa bệnh… Thơng thường mục đích của
việc cấp Giấy phép kinh doanh là để chứng nhận doanh nghiệp được thành lập
hợp pháp, quy định thời gian được phép kinh doanh, phạm vi kinh doanh
của doanh nghiệp. Theo đánh giá của nhiều nhà nghiên cứu, việc cấp Giấy phép
kinh doanh ở Trung Quốc rất phức tạp, cần đáp ứng rất nhiều yêu cầu và đối
với các nhà đầu tư nước ngồi việc cấp phép kinh doanh sẽ khó khăn hơn nhà
đầu tư trong nước. Ngoài ra, khi thực hiện hoạt động kinh doanh, doanh
nghiệp ở Trung Quốc còn phải thơng qua nhiều sự chấp thuận khác của cơ quan
có thẩm quyền.
Thứ năm, doanh nghiệp bảo hiểm phải đáp ứng các điều kiện kinh doanh
trong suốt quá trình hoạt động kinh doanh
Doanh nghiệp bảo hiểm chỉ được phép kinh doanh khi đã đáp ứng đủ các
điều kiện theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, các điều kiện này còn có hiệu
lực áp dụng trong suốt q trình hoạt động kinh doanh của chủ thể kinh doanh
và được bảo đảm bằng cơ chế hậu kiểm của cơ quan quản lý nhà nước. Chủ thể
kinh doanh không đáp ứng các điều kiện trong quá trình kinh doanh sẽ bị coi là
kinh doanh trái pháp luật và bị xử phạt theo quy định. Trong quá trình hoạt
động, doanh nghiệp bảo hiểm phải duy trì vốn chủ sở hữu ln cao hơn vốn
pháp định và phải thực hiện thủ tục bổ sung vốn trong vòng 06 tháng nếu thấp
hơn vốn pháp định (Điều 49, 50 Nghị định 73/2016/NĐ-CP). Quy định như vậy
mới có thể bảo đảm mục tiêu quản lý của nhà nước, hạn chế ảnh hưởng tiêu
cực có thể gây ra từ hoạt động kinh doanh khi đặt ra điều kiện kinh doanh đối
với ngành nghề nhất định.

18


1.1.3.4. Vai trò của điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực kinh doanh bảo
hiểm
Vai trò của các quy định về điều kiện kinh doanh thể hiện ở những

phương diện sau:
Thứ nhất, các quy định về điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực kinh
doanh bảo hiểm được đặt ra với mục tiêu kiểm soát hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động trong những ngành nghề có khả năng ảnh
hưởng lớn tới lợi ích cơng cộng, trật tự an tồn xã hội qua đó góp phần bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm và giúp nhà
nước điều tiết, định hướng phát triển nền kinh tế khắc phục những hạn chế của
thị trường.
Cơ chế kinh tế thị trường đã phát huy quyền tự chủ, sáng tạo trong kinh
doanh của người dân, thúc đẩy sản xuất phát triển. Tuy nhiên, bất kỳ nền kinh
tế thị trường ở nước nào cũng tồn tại những mặt hạn chế đặc biệt là việc các
doanh nghiệp bảo hiểm chạy theo lợi nhuận mà có thể vượt qua những giới hạn
về đạo đức kinh doanh, vi phạm pháp luật gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi
ích, trật tự cơng cộng.
Để khắc phục tình trạng trên, chỉ có Nhà nước mới là chủ thể có đủ thẩm
quyền để quản lý, phát triển kinh tế theo định hướng của mình. Theo đó, nhà
nước sẽ can thiệp để hạn chế tới mức thấp nhất những khuyết tật có thể xảy ra
trong nền kinh tế thị trường. Nhà nước hướng các doanh nghiệp bảo hiểm sản
xuất – kinh doanh theo định hướng Nhà nước đã chọn. Để thực hiện vai trò
quản lý, nhà nước cần có những cơng cụ thích hợp tác động vào hoạt động kinh
doanh trong đó có việc quy định những điều kiện kinh doanh. So sánh với các
công cụ khác trong quá trình quản lý của nhà nước hiện nay như cơ chế, chính
sách, biện pháp kinh tế... thì chưa có cơng cụ quản lý kinh tế nào ưu việt hơn
để thay thế hệ thống quản lý ngành nghề kinh doanh có điều kiện bằng các điều
kiện kinh doanh ở Việt Nam cũng như hầu hết các nước trên thế giới.
19


Thứ hai, đối với Nhà nước, quy định về điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực
kinh doanh bảo hiểm là cơng cụ pháp lý để điều tiết có hiệu quả hoạt động kinh

doanh của các chủ thể trong nền kinh tế thị trường, bảo đảm hài hòa giữa quyền tự
do của chủ thể kinh doanh và các quyền lợi ích của chủ thể khác.
Trong giai đoạn trước khi tiến hành hoạt động kinh doanh, Nhà nước
quản lý, kiểm soát đối với thể hiện bằng việc cho phép cá nhân, tổ chức được
tiến hành kinh doanh nhằm mục đích bảo vệ lợi ích và trật tự cơng cộng. Thơng
qua việc cấp phép và xác nhận các điều kiện kinh doanh, nhà nước có điều kiện
và cơ sở để thẩm tra kỹ lưỡng việc cá nhân, tổ chức thực hiện hoạt động kinh
doanh trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm. Quá trình thẩm tra này là cần thiết
cho việc thực hiện vai trị quản lý của nhà nước, bảo vệ lợi ích cơng cộng và
lợi ích doanh nghiệp. Trường hợp khơng đáp ứng đủ điều kiện, Nhà nước không
cấp phép hoặc rút giấy phép ...
Trong quá trình doanh nghiệp bảo hiểm tiến hành hoạt động kinh doanh,
điều kiện kinh doanh là căn cứ để nhà nước tiến hành kiểm tra việc doanh
nghiệp thực hiện và duy trì các điều kiện kinh doanh sau cấp phép. Trong
trường hợp có vi phạm nhà nước sẽ áp dụng các biện pháp, hình thức chế tài
theo quy định pháp luật đối với chủ thể kinh doanh.
Thứ ba, đối với chủ thể kinh doanh, điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực
kinh doanh bảo hiểm là cơ sở pháp lý để doanh nghiệp bảo hiểm tiến hành một
hoặc một số hoạt động kinh doanh nhất định (bị hạn chế kinh doanh). Việc quy
định một cách minh bạch rõ ràng những điều kiện kinh doanh đối với những
ngành, nghề kinh doanh bảo hiểm không chỉ thể hiện sự hạn chế quyền tự do
kinh doanh mà nó cịn là cơ chế bảo đảm thực hiện tối đa quyền tự do kinh
doanh của doanh nghiệp, vì căn cứ vào đó họ có thể biết họ được làm gì, khơng
được làm gì và trong điều kiện nào.
Các quy định về điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực kinh doanh bảo
hiểm góp phần kiểm sốt và hạn chế độc quyền, cạnh tranh khơng lành mạnh.
20


Đây là cơ sở để quyền tự do kinh doanh của các tổ chức, cá nhân được đảm

bảo. Hơn nữa, việc quy định rõ ràng về điều kiện kinh doanh trong các ngành
nghề kinh doanh có điều kiện trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm còn giúp chủ
thể kinh doanh thực hiện tối đa quyền tự do kinh doanh của mình theo nguyên
tắc “được làm những gì mà pháp luật khơng cấm”, góp phần tạo mơi trường
kinh doanh ổn định, lành mạnh cho các chủ thể kinh doanh.
Thứ tư, đối với xã hội, thông qua các điều kiện kinh doanh nhà nước hạn
chế tối đa nguy cơ gây ảnh hưởng tới các lợi ích chung của xã hội khi tiến hành
những hoạt động kinh doanh, ví dụ như hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm
có khả năng ảnh hưởng lớn tới nền kinh tế xã hội, đến đời sống của nhiều cá
nhân có điều kiện về tài chính (vốn pháp định) để bảo đảm chủ thể kinh doanh
có thể giải quyết hậu quả khi rủi ro xảy ra.
Có thể khẳng định, các quy định về điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực
kinh doanh bảo hiểm có vai trị quan trọngkhơng chỉ có ý nghĩa đối với nhà
nước mà cịn đối với chính hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm và các chủ
thể khác trong xã hội.
1.2. Lý luận pháp luật về điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực kinh
doanh bảo hiểm
1.2.1 Khái niệm pháp luật về điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực kinh
doanh bảo hiểm
Pháp luật về điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm
là tổng thể các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành quy định các yêu
cầu mang tính bắt buộc áp dụng đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm.
Khoản 1 Điều 7 Luật Đầu tư quy định: “Ngành, nghề đầu tư kinh doanh
có điều kiện là ngành, nghề mà việc thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh
trong ngành, nghề đó phải đáp ứng điều kiện vì lý do quốc phịng, an ninh quốc
gia, trật tự, an tồn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.”

21



×