Tải bản đầy đủ (.docx) (3 trang)

Tải Soạn bài lớp 6: Buổi học cuối cùng - Soạn văn 6 tập 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (66.01 KB, 3 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

Soạn văn bài: Buổi học cuối cùng


<b>BUỔI HỌC CUỐI CÙNG</b>


<b>An-phông-xơ Đô-đê</b>


I. VỀ TÁC GIẢ


An-phông-xơ Đô-đê (1840- 1897) là nhà văn hiện thực và nhân đạo chủ nghĩa lớn của
nước Pháp ở nửa cuối thế kỉ XIX. Ông sinh tại Nim, tỉnh Lăng-gơ-đốc thuộc miền nam
nước Pháp, trong một gia đình kinh doanh tơ lụa. Khi người cha bị phá sản, gia đình ơng
phải dời đến thành phố Li-ông. Cậu bé Đô-đê là một học sinh thông minh, rất ham mê
đọc sách. Mười lăm tuổi, Đô-đê bắt đầu làm thơ và viết tiểu thuyết.


Tác phẩm đã xuất bản: Chú nhóc (1886); Những lá thư viết từ cối xay gió (1869);
Tác-ta-ranh xứ Ta-rax-cơng (1872), Tác-ta-Tác-ta-ranh trên núi An-pơ (1885), Cảng Ta-rax-công
(1890).


Tác phẩm của An-phông-xơ Đô-đê thấm đẫm tinh thần nhân đạo và tinh tế, giàu chất thơ,
nhiệt thành gửi gắm niềm tin vào phẩm chất tốt đẹp của con người.


II. KIẾN THỨC CƠ BẢN


1. Câu chuyện được kể diễn ra tại lớp học ở một xã thuộc vùng An-dát của nước Pháp.
Thời gian sau cuộc chiến tranh Pháp - Phổ nước Pháp thua trận phải cắt vùng An-dát cho
nước Phổ. Theo lệnh của chính quyền Phổ, trường học ở đây không được dạy tiếng Pháp
nữa. "Buổi học cuối cùng" là buổi học bằng tiếng Pháp cuối cùng, chứ không phải là buổi
học kết thúc niên học.


2. Truyện được kể theo lời nhân vật chú bé Phrăng, thuộc ngôi thứ nhất. Truyện cịn có
các nhân vật khác như bác Phó rèn t-stơ cùng cậu học việc, cụ già Hơ-de, bác phát thư,


những người dân làng, thầy giáo Ha-men, người em gái của thầy giáo, các em học sinh.
Người gây ấn tượng nổi bật nhất là thầy giáo Ha-men, người đã phụng sự đất nước bốn
mươi năm bằng nghề dạy học, người đã thể hiện sâu sắc tình yêu nước Pháp bằng cả tấm
lịng.


3. Vào sáng hơm diễn ra buổi học cuối cùng, chú bé Phrăng đã nhìn thấy những điều khác
lạ. Trên đường đến trường: có nhiều người đứng trước bảng dán cáo thị. Trường học
không ồn ào với những âm thanh quen thuộc mà "Bình lặng như một buổi sáng chủ nhật".
Trong lớp khơng khí trang trọng, thầy Hamen mặc lễ phục, thầy dịu dàng chứ không giận
dữ. Có thêm cụ Hơde, bác phát thư và nhiều người dân làng ngồi ở cuối lớp.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

4. Đối với việc học tiếng Pháp, Phrăng rất ngại. Cậu thích rong chơi hơn là học những
quy tắc phân từ.


Khi không thuộc bài, Phrăng rất ân hận. Cậu bé mong ước có thể đọc được tiếng Pháp
"thật to, thật dõng dạc, khơng phạm một lỗi nào". Từ khơng thích, cậu bỗng cảm thấy
thân thiết với các cuốn sách tiếng Pháp như "người bạn cố tri". Và Phrăng thấy bài giảng
của thầy rất dễ hiểu. Cậu thấy yêu mến người thầy giáo nghiêm khắc Hamen. Từ việc
ngại, sợ tiếng Pháp và thầy giáo, Phrăng chăm chú, thích thú, cố gắng học tiếng Pháp một
cách tự giác.


5. Nhân vật thầy giáo Hamen trong buổi học cuối cùng


- Thầy ăn mặc bộ lễ phục chỉ dùng vào những ngày đặc biệt khi có thanh tra hoặc phát
thưởng: áo rơ-đanh-gốt màu xanh lục diềm lá sen gấp nếp mịn và đội mũ tròn bằng lụa
đen thêu.


- Thầy nói năng với học sinh dịu dàng, khơng giận dữ quát mắng. Thầy kiên nhẫn giảng
bài, chuẩn bị bài học rất chu đáo.



- Thầy ca ngợi tiếng Pháp, tự phê bình mình và mọi người có lúc đã sao nhãng việc học
tập và dạy tiếng Pháp. Thầy coi tiếng Pháp là vũ khí, là chìa khóa của chốn lao tù.


- Buổi học kết thúc, thầy xúc động mạnh, người tái nhợt, nghẹn ngào, khơng nói được hết
câu. Thầy đã viết thật to lên bảng: "Nước Pháp muôn năm".


Thầy Hamen là người yêu nghề dạy học, yêu tiếng mẹ đẻ, và người yêu nước sâu sắc.
6. Một số câu văn có sử dụng phép so sánh


- Thơng thường, bắt đầu buổi học, tiếng ồn ào như vỡ chợ vang ra tận ngoài phố...


- ... dân làng ngồi lặng lẽ giống như chúng tôi, cụ già Hê-de, trước đây là xã trưởng với
cái mũ ba sừng, bác phát thư trước đây, và những người khác nữa.


- Chừng nào họ vẫn giữ vững tiếng nói của mình thì chẳng khác gì nắm được chìa khóa
của chốn lao tù.


- Những tờ mẫu treo trước bàn học trông như những lá cờ nhỏ bay phấp phới khắp xung
quanh lớp.


- Chúng đang cặm cụi vạch những nét sổ với một tấm lòng, một ý thức như thể cái đó
cũng là tiếng Pháp...


Những so sánh này làm cho lời văn thêm tính hình tượng cụ thể, tăng sức gợi hình gợi
cảm cho sự diễn đạt, biểu hiện tư tưởng, tình cảm sâu sắc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

III. RÈN LUYỆN KĨ NĂNG
1. Tóm tắt


Câu chuyện kể về một buổi sáng - như thường lệ, cậu bé Phrăng đến lớp. Dọc đường cậu


thấy có những điều khác hẳn mọi hôm. Phrăng vào lớp càng thấy ngạc nhiên hơn. Thầy
Ha-men ăn mặc tề chỉnh như trong ngày lễ. Thầy khơng quở mắng mà cịn nói với Phrăng
bằng giọng dịu dàng. Khơng khí trong lớp trang trọng. Cuối lớp có cụ già Hơ-de, bác phát
thư và nhiều người khác. Hố ra đó là buổi học tiếng Pháp cuối cùng. Phrăng ân hận vì
mình đã khơng thuộc bài - nhất là khi thầy Ha-men giảng bài học cuối cùng thật xúc
động. Kết thúc buổi học thầy Ha-men viết lên bảng dòng chữ thể hiện lòng yêu nước của
mọi người: "Nước Pháp muôn năm".


2. Đọc (hoặc kể lại)


Cần lưu ý giọng kể diễn cảm - đặc biệt là khi thể hiện lời nói, cử chỉ của thầy giáo
Ha-men; đồng thời bộc lộ diễn biến tâm trạng của cậu bé Phrăng trong buổi học tiếng Pháp
cuối cùng.


3. Viết một đoạn văn miêu tả thầy Ha-men hoặc chú bé Phrăng trong buổi học cuối cùng
bằng tiếng Pháp.


</div>

<!--links-->

×