Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Tải Phân tích tình huống độc đáo trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân - Dàn ý + 10 bài phân tích Vợ nhặt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.99 KB, 25 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Phân tích tình huống độc đáo trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân</b>


<i><b>Đề bài: Anh chị hãy nhận xét về tình huống độc đáo trong truyện ngắn Vợ nhặt</b></i>
<i><b>của Kim Lân trong chương trình văn học lớp 12 tập 2.</b></i>


<b>Dàn ý chi tiết</b>
1/Mở bài:


+ Giới thiệu tác giả, tác phẩm:


- Kim Lân là nhà văn một lòng một dạ đi về với "đất", với "người", với "thuần hậu
ngun thủy" của cuộc sống nơng thơn.


- Nạn đói năm 1945 đã đi vào nhiều trang viết của các nhà văn, nhà thơ trong đã
có Vợ nhặt của Kim Lân.


+ Nhận xét khái quát:


- Vợ nhặt xây dựng tình huống truyện độc đáo.


- Qua tình huống truyện, tác phẩm thể hiện giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu
sắc.


2.Thân bài:


a. Bối cảnh xây dựng tình huống truyện.


+ Bối cảnh nạn đói khủng khiếp năm 1945 mà kết quả là hơn hai triệu người chết.
+ Cái chết hiện hình trong tác phẩm tạo nên một khơng khí ảm đạm, thê lương.
Những người sống luôn bị cái chết đe dọa.



b. Trong bối cảnh ấy, Tràng, nhân vật chính của tác phẩm "nhặt" được vợ. Đó là
một tình huống độc đáo


+ Ở Tràng hội tụ nhiều yếu tố khiến nguy cơ "ế" vợ rất cao:
- Ngoại hình xấu, thơ.


- Tính tình có phần khơng bình thường.
- Ăn nói cộc cằn, thơ lỗ.


- Nhà nghèo, đi làm th ni mình và mẹ già.
- Nạn đói đe dọa, cái chết đeo bám.


+ Tràng lấy vợ là lấy cho mình thêm một tai họa (theo lơ gíc tự nhiên).
+ Việc Tràng lấy vợ là một tình huống bất ngờ


- Cả xóm ngụ cư ngạc nhiên.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

- Bản thân Tràng có vợ rồi vẫn cịn " ngờ ngợ".


+ Tình huống truyện bất ngờ nhưng rất hợp lí


- Nếu khơng phải năm đói khủng khiếp thì "người ta" khơng thèm lấy một người
như Tràng.


- Tràng lấy vợ theo kiểu "nhặt" được.


c. Giá trị hiện thực: tình cảnh thê thảm của con người trong nạn đói
+ Cái đói dồn đuổi con người.


+ Cái đói bóp méo cả nhân cách.



+ Cái đói khiến cho hạnh phúc thật mỏng manh, tội nghiệp.


+ Vợ nhặt có sức tố cáo mạnh mẽ tội ác của bọn thực dân, phát xít.
d. Giá trị nhân đạo:


+ Tình người cao đẹp thể hiện qua cách đối xử với nhau của các nhân vật.
- Tràng rất trân trọng người "vợ nhặt" của mình.


- Thiên chức, bổn phận làm vợ, làm dâu được đánh thức nơi người "vợ nhặt"
- Tình yêu thương con của bà cụ Tứ.


+ Con người huôn hướng đến sự sống và luôn hi vọng, tin tưởng ở tương lai:
- Tràng lấy vợ là để duy trì sự sống.


- Bà cụ Tứ, một người già lại ln miệng nói về ngày mai với những dự định thiết
thực tạo niềm tin cho dâu con vào một cuộc sống tốt đẹp.


- Đoạn kết tác phẩm với hình ảnh lá cờ đỏ và đồn người phá kho thóc Nhật.
3.Kết bài:


+ Khẳng định tài năng nhà văn qua việc xây dựng tình huống truyện độc đáo, hấp
dẫn.


+ Khẳng định giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm.
<b>Bài làm mẫu 1</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

qua nhưng tác phẩm vẫn xứng đáng là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất
của văn xuôi Việt Nam hiện đại.



Yếu tố tạo nên sức hấp dẫn của tác phẩm chính là ở chỗ nhà văn Kim Lân đã sáng
tạo ra một tình huống truyện đặc biệt, một tình huống ép le, trở trêu chứa đựng đầy
kịch tính nhưng tại chứa đựng ý nghĩa nhân văn vơ cùng sâu sắc.


Cốt truyện đơn giản: Một anh chàng ngụ cư nghèo khổ, độc thân, đứng tuổi và xấu
xí làm nghề kéo xe bị th, chỉ với vài câu bơng đùa và mấy bát bánh đúc mà
kiếm được cô vợ nhặt – một cô gái đang dở sống dở chết vì đói. Họ thành vợ thành
chồng giữa khung cảnh tối sầm lại vì đói khát. Đêm tân hơn của họ diễn ra âm
thầm trong bóng tối âm u, lạnh lẽo, điểm những tiếng hờ khóc tỉ tê của những nhà
có người chết đói theo gió vẳng lại. Bữa cơm cưới của họ chì có cháo lỗng, rau
chuối và muối hột. Mẹ chồng đãi con trai và con dâu món chè nấu bằng cám. Bữa
cơm diễn ra trong tiếng trống thúc thuế dồn dập. Câu chuyện của ba mẹ con xoay
quanh chuyện Việt Minh hơ hào dân chúng khơng đóng thuế và tổ chức phá kho
thóc của Nhật chia cho người nghèo.


Cảnh anh Tràng đưa cô vợ nhặt về nhà là một tình huống lạ lùng, tạo ra sự ngạc
nhiên và thú vị cho cả cái xóm ngụ cư đang hấp hối và lạ lùng ngay cả với mẹ con
Tràng. Anh dẫn người đàn bà lạ mặt về nhà lúc trời nhập nhoạng tối. Hai người lủi
thủi đi vào cái xóm ngụ cư heo hút, tồi tàn ở mé sông. Nhà cửa hai bên đường úp
súp, tối om, không một ánh đèn, ánh lửa, chẳng khác gì những nấm mồ hoang.
Khung cảnh ngập tràn tử khí. Sự sống chỉ cịn thoi thóp. Bóng đen chết chóc đang
bao phủ khắp nơi.


Tràng dẫn người đàn bà mới quen về để làm vợ, để tạo dựng gia đình, tiếp nối sự
sống. Trên bờ vực thẳm của cái chết, họ tìm đến sự sống. Tràng vui sướng vì sự
kiện to lớn bất ngờ của đời anh: anh đã có vợ, anh đang dẫn vợ về nhà. Đói, chết
tràn lan. Mình cũng đói, mẹ già cũng đói, thế mà lại lấy vợ vào lúc này. Quả là
chuyện lạ lùng và thú vị!


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Bà cụ Tứ mẹ anh Tràng ngạc nhiên khi nhìn thấy cơ gái lạ ngồi ở giường con trai


mình. Được gọi bằng u, bà càng chẳng hiểu ra làm sao. Cho tới lúc nghe Tràng
bảo : Kìa nhà tơi nó chào u… thì bà mới vỡ lẽ : Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão
hiểu rồi. Lịng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai ốn
vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình… Thì ra là thằng con trai mình đã kiếm
được vợ và dẫn về đây. Tâm trạng bà cụ buồn tủi, mừng, lo lẫn lộn. Buồn tủi vì
làm cha làm mẹ mà khơng trịn trách nhiệm đối với con cái, nghèo khổ đến nỗi
không thể cưới được vợ cho con. Mừng vì tự nhiên con trai có được vợ, dù là vợ
nhặt. Còn lo bởi bà cụ băn khoăn : biết rằng chúng nó có ni nổi nhau sống qua
được cơn đói khát này khơng ? Càng ngẫm nghĩ, bà cụ càng thương con trai và
thương cô gái xa lạ kia vô hạn : Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dịng
nước mắt.


Đến ngay chính anh Tràng cũng ngạc nhiên không kém. Ngạc nhiên đến sửng sốt,
không tin là sự thật: Nhìn thị ngồi ngay giữa nhà, đến bây giờ hắn vẫn cịn ngờ
ngợ như khơng phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư? Hà! Việc xảy ra thật hắn cũng
không ngờ, hắn chỉ tầm phơ tầm phào đâu có hai bận, ấy thế mà thành vợ thành
chồng… Ngày hơm sau thức dậy, nhìn chị ta quét dọn sân vườn, Tràng vẫn chưa
dám tin là mình đã có vợ. Chuyện xảy ra cứ như trong một giấc mơ, nhưng người
đàn bà bằng xương bằng thịt kia chính là vợ anh, dẫu chẳng phải cưới xin gì.
Tình huống mà Kim Lân đặt ra trong truyện là một tình huống éo le, trớ trêu,
khơng biết nên buồn hay nên vui. Bản thân Tràng lúc đầu thì mừng vì tự nhiên có
được vợ, nhưng rồi anh chợn, nghĩ: Thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết
có ni nổi khơng, lại cịn đèo bịng. Hàng xóm cũng lo thay cho anh và nhất là
người mẹ già lo và thương đứt ruột. Tác giả đặc tả đêm tân hôn của vợ chổng
Tràng với những chi tiết thật ấn tượng và chứa đựng ý nghĩa sâu xa: Tràng chỉ
dám thắp đèn có một lúc rồi tắt. Hai người nằm lặng lẽ bên nhau trong bóng tối hãi
hùng, ghê rợn bởi tiếng hờ khóc tỉ tê văng vẳng từ những nhà có người chết đói.
Chút hạnh phúc nhỏ nhoi, mong manh của họ bị cái đói, cái chết bủa vây. Nhưng
sự sống là bất diệt. Từ trong cái chết, sự sống vẫn sinh sôi, nảy nở. Bi thương cùng
cực thành dữ dội. Sự sống bất chấp cái chết, điều đó chứng tỏ ý chí con người và


quy luật của cuộc đời mạnh mẽ biết chừng nào!


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

<b>Bài tham khảo 2</b>


Kim Lân được mệnh danh là cha đẻ của đồng ruộng, là nhà văn một lòng đi về với
đất với người, với những giá trị thuần hậu nguyên thủy của nơng thơn Việt Nam.
Lần đầu tiên có một nhà văn xắn quần lội xuống bùn để lắng nghe hơi thở nồng
nàn của đất đai của cuộc sống con người để tái hiện mồn một trên mỗi trang viết.
Văn Kim Lân hấp dẫn người đọc bởi cốt truyện đơn giản, lối kể hấp dẫn và khả
năng phân tích tâm lý nhân vật sắc sảo. Trong số những tác phẩm của ông thì
truyện ngắn Vợ nhặt được in trong tập " Con chó xấu xí" xuất bản năm 1962 là
tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Kim Lân. Trong tác phẩm ông đã ghi lại
sự thật mặn chát của cuộc đời người nơng dân trong nạn đói 1945, tất cả sự thật
nghiệt ngã ấy được nhà văn thơng qua tình huống truyện Vợ nhặt.


Xây dựng tình huống là vấn đề then chốt của truyện ngắn, là cánh cửa mở ra để
người đọc đi vào khám phá giá trị của một tác phẩm văn chương. Nhà văn thường
xây dựng hoàn cảnh điển hình để đặt nhân vật vào đó khám phá vẻ đẹp tâm hồn
tính cách nhân vật đồng thời tái hiện bức tranh đời sống xã hội. Kim Lân cũng thế,
ơng đã tái hiện khơng gian năm đói 1945 làm phông nền cho việc anh cu Tràng
nhặt được vợ. Cái năm Ất Dậu ngày ấy đã trở thành nỗi kinh hồng của lịch sử, là
vết thương lịng khơng bao giờ mờ được trong trái tim mỗi người dân Việt Nam.
Hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói là con số mà hàng trăm hàng nghìn năm sau
mỗi lần nhắc tới con cháu ta khơng khỏi rùng mình ghê sợ về cái thời mà trên trời
từng đàn quạ đen rỉa xác người chết đói bay lên, gào lên từng hồi thê thiết. Dưới
đất bên những gốc đa gốc gạo xù xì bóng những người đói đi lại dật dờ như những
bóng ma. Người Thái Bình, Nam Định đội chiếu lũ lượt bồng bế dắt díu nhau đi
trơng xanh xám dật dờ như những bóng ma. Khơng khí vẩn lên mùi ẩm mốc của
rác rưởi và mùi gây của xác người, tất cả tạo nên một bầu khơng khí ảm đạm tang
tóc và thê lương. Cái đói, cái chết len lỏi vào ngõ ngách, gõ cửa từng nhà, đụng


chạm đến từng người, cõi âm hòa với cõi dương, cuộc sống mấp mét bên bờ vực
của cái chết. Giữa bối cảnh tối xầm lại vì đói khát ấy thì một việc hệ trọng nhất
của một đời người lại diễn ra một cách nhanh chóng vội vàng - đó là việc anh cu
Tràng có vợ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

quần áo rách vắt khươm mươi niên trong một góc nhà, là hai cái ang nước để khô
cong trơ trọi dưới gốc cây ổi , là đống rác mùn tung bành ngay giữa lối đi. Có thể
nói cái nghèo đã kéo ghì cuộc sống của mẹ con Tràng xuống sát đất để rồi cái chết
đang rình rập bủa vây. Kim Lân đã chọn những chi tiết rất thật, rất đời thường, lựa
chọn những ngôn ngữ mộc mạc giản dị và gần gũi để tái hiện bức tranh hiện thực
đời sống xám ngắt trong năm Ất Dậu 1945. Đã nghèo, Tràng lại còn mang thân
phận của dân ngụ cư nên thật tội nghiệp, bởi coi khinh miệt thị dân ngụ cư đã đi
sâu vào tiềm thức đến mức trở thành lời truyền miệng:


Trai làng ở góa cịn đông
Cớ sao em lại lấy chồng ngụ cư


Đặc biệt là ở việc Tràng có vợ chỉ với một câu nói bơng đùa trong lần gị lưng kéo
xe bị thóc, hắn nhìn thấy những cơ gái ngồi vêu mặt ra ở dốc tỉnh, Tràng đốn họ
ngồi đó để nhặt hạt rơi hạt vãi hay ai có việc gọi thì làm. Họ chính là kiếp người
trơi dạt bị cơn bão táp của đói khát đẩy xơ. Trước cảnh đó Tràng cất câu hị cho đỡ
nhọc chứ khơng có ý chịng gẹo cơ nào:


Muốn ăn cơm trắng mấy giò này
Lại đây mà đẩy xe bị với anh nì


Chẳng hiểu sao lúc đó chàng lại có thể nói ra những lời có cánh đến như vậy. Dẫu
biết rằng có khối đấy mà cơm trắng mấy giò thế mà Thị vẫn ton ton chạy lại đẩy
xe cho Tràng. Hắn thích chí cười tít cả mắt bởi từ ngày cha sinh mẹ đẻ đến giờ
chưa có ai cười với hắn tình tứ như thế. Câu hị cất lên giữa ngày đói khát sẽ chẳng


bao giờ lịm tắt mà luôn để lại dư vang, biết đâu một ngày nào đó nó trở thành
chiếc phao cứu sinh cứu vớt người chết đuối vì đói khát. Đơi khi nó là cái cớ là
nhịp cầu dẫn con người đến với nhau. Quả thật lần thứ hai khi trả hàng xong Tràng
ngồi uống nước ở cổng chợ tỉnh thì Thị ở đâu sầm sập chạy đến đứng sưng sỉa
trước mặt Tràng:" Điêu! người thế mà điêu". Thoáng đầu Tràng chẳng hiểu gì
nhưng trong phút chốc Tràng nhận ra Thị, Thị hơm nay rách quá, trên khuôn mặt
lưỡi cày chỉ trơ lại hai con mắt. Nghĩa là Thị đang mấp mé bên bờ vực của cái
chết, chỉ biết dõi theo câu hò xăm xăm đi tới tìm Tràng mà thơi, kiếp đời trơi dạt
như


Thị thì biết đâu là bến bờ neo đậu:" Tối đâu là nhà, ngã đâu là giường". Thị đích
thực là người của cái thời:


Con đói lả trên lưng mẹ khóc
Mẹ đợ con đi nấu thóc cầm hơi
Kiếp người cơm vãi cơm rơi


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Nhìn Thị tình yêu thương đồng loại trong Tràng trỗi dậy, hắn sẵn sàng đãi Thị
"thích ăn gì thì ăn", nghe thế hai con mắt trũng hoáy của Thị tức thời sáng lên,
nghĩa là Thị đã tìm thấy một nguồn sống: " ăn nhé"..."ăn thì ăn chứ sợ gì". Thế là
Thị cắm đầu ăn liền một chặp bốn bát bánh đúc chẳng nói năng gì. Nhìn Thị lúc
này có vẻ như rất trơ trẽn, Thị đã chối bỏ liêm xỉ, đánh rơi lòng tự trọng cắm đầu
mà ăn. Kẻ hời hợt thì nhìn Thị bằng cặp mắt khinh bỉ, người sâu sắc thì ngậm ngùi
cám cảnh rưng rưng nước mắt mà cảm thơng xót xa cho Thị. Cái gì đã làm cho Thị
đánh rơi mất lịng tự trọng? Cái gì đã làm cho Thị trở nên trơ trẽn? Phải chăng đó
là cái đói, cái chết? Vì sống cho nên Thị phải ăn bởi sống mới là nhân văn nhân
bản. Đã có bao triết lý ném ra giữa đời để bênh vực những người như Thị, ví như
ngạn ngữ Hi Lạp cho rằng:" Có ai chết hai lần để học bài học kinh nghiệm về cái
chết bao giờ đâu" hay Nguyễn Khải đã có lúc khẳng định " Muốn chết nhưng đời
còn dài nên phải sống cho dù phải sống táo bạo, sống ghen tị với mọi người và


hờn giận với chính bản thân mình". Thật vậy, hãy một lần ta đặt mình vào hồn
cảnh của Thị ta sẽ thấu hiểu được nỗi tủi hờn và nhục nhã trong Thị. Và như vậy
Thị thật đáng thương, đáng chia sẻ hơn là đáng trách. Xong bữa tiệc bánh đúc Thị
cầm cây đũa quệt ngang miệng và nói "hà, ngon", "về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ
bố", Tràng nói:" làm đếch gì có vợ. Này nói đừa chứ có về với tớ thì khn hàng
lên xe rồi cùng về", Tràng cứ nghĩ mình nói đùa, ai ngờ Thị về thật. Thế là một
đám cưới diễn ra.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

có vợ rồi và chàng khơng hiểu vì sao Thị lại buồn như thế. Người đời thường nói:
“Tậu trâu, cưới vợ, làm nhà/ Trong ba việc ấy thật là khó khăn” ấy thế mà việc có
vợ đối với Tràng dễ như trở bàn tay, như nhặt rơm nhặt rác ở ngoài đường. Sinh ra
cũng là kiếp người mà sao Thị tội nghiệp đến vậy, nhìn Thị mà nỗi buồn thêm
nặng trĩu.Tâm trạng của bà cụ Tứ thì chứa đầy những cảm xúc ngổn ngang và mâu
thuẫn. Bà cụ vui vì cuối cùng con mình cũng có vợ nhưng lại tủi thân vì sự trớ trêu
của số phận, bà mẹ nghèo nặng trĩu những nỗi lo âu cho tương lai của con
mình :"liệu chúng nó có ni nổi nhau qua cơn đói khát này khơng". Câu hỏi chất
chứa nỗi hoang mang, ám ảnh kiếp bần hàn khơng lối thốt và cả sự rình rập trước
ngõ của cơn ác mộng về cái đói chưa bao giờ dữ dội đến thế". Trong lòng bà, ta
cảm thấy cả nỗi buồn của một người mẹ không được thấy con trong ngày vui,
khơng có lấy một mâm cơm làm lễ gia tiên. Trong lời nghẹn ngào tâm sự của bà
còn có cả sự xót xa, một chút ân hận vì đã không làm được đầy đủ bổn phận của
một người mẹ đối với con :"Năm nay đói to đấy, chúng mày lấy nhau lúc này u
thương quá" . Cái chậc lưỡi mặc kệ số phận của Tràng; hành động “nén một tiếng
thở dài” tủi thân của người đàn bà khi liếc nhìn gia cảnh nhà chồng; sự nghẹn
ngào, xót xa của bà cụ Tứ trước hạnh phúc của con trai mình… khiến người đọc
khơng biết nên vui hay nên buồn, không cảm nhận được đây là hạnh phúc hay bất
hạnh, sự sống hay là cái chết.


Đặt nhân vật của mình vào tình huống bất ngờ và éo le như vậy, Kim Lân đã làm
nổi bật được nhiều ý nghĩa sâu sắc cho tác phẩm của mình. Với việc xây dựng tình


huống truyện độc đáo nhà văn đã thể hiện rõ chủ đề của tác phẩm đồng thời tố cáo
hiện thực xã hội đã tước đoạt hết quyền sống, quyền hạnh phúc của con người.
Có thể nói, ấn tượng của người đọc với tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân chính là
ở tình huống truyện đầy độc đáo, bất ngờ nhưng cũng không kém phần éo le của
thiên truyện. Thành công đó khiến truỵên ngắn của Kim Lân sống được với thời
gian. Cái nạn đói năm 1945 với hơn hai triệu người bị chết đói ấy, rồi một lúc nào
đó sẽ lùi vào dĩ vãng. Nhưng câu chuỵên “nhặt vợ” của anh Tràng thì vẫn sống
cùng tâm hồn, cùng nỗi đau và niềm tin của người dân Việt Nam.


<b>Bài tham khảo 3</b>


Nói đến nghệ thuật truyện ngắn, người ta thường coi ba yếu tố sau đây là cơ bản
nhất: tình huống truyện, nhân vật truyện và cách trần thuật. Có nhiều truyện ngắn,
sự sáng , tạo tình huống đóng vai trị then chốt. Đặt vào tình huống ấy, nhân vật
truyện bộc lộ sâu sắc tâm lý, tính cách. Tư tưởng của thiên truyện cũng nhờ thế mà
được thể hiện đậm đà. Và xoay quanh tình huống ấy, các tình tiết cũng trở nên hấp
dẫn.Truyện Vợ nhặt của Kim Lân thuộc loại tác phẩm như thế.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Sự hấp dẫn của tình huống truyện trước hết là ở đó. Như một nghịch lý, nó gây
ngạc nhiên cho mọi người trong xóm ngụ cư, cho bà cụ Tứ, mẹ Tràng, và cho cả
bản thân Tràng là kẻ đã “nhặt” được vợ.


“… người trong xóm lạ lắm: Họ đứng cả trong ngưỡng cửa nhìn ra bàn tán…”
Đến khi hiểu ra là Tràng có vợ theo về, thì họ lại càng ngạc nhiên hơn nữa. Người
thì “cười lên rung rúc’. Người lại lo dùm cho anh ta Ơi chao! Giời đất này cịn
rước cái của nợ dài về. Biết có ni nổi nhau sống qua được cái thì này khơng?”
Bà cụ Tứ hiểu tỉnh cảnh con mình hơn ai hết nên càng khó tin Tràng có vợ. Thấy
có người đàn bà đứng ngay ở đầu giường cịn mình, bà cụ cứ ngơ ngác tự hỏi:
”Quái sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Sao lại chào mình bằng u? Ai
thế nhỉ?” Bà cụ làm sao hiểu nổi. Nghèo như con bà ai người ta thèm lấy mà có vợ


được. Vả lại trời làm đói khát thế này, ni thân chẳng nổi, lấy gì ni vợ ni
con? Bản thân Tràng cũng lấy làm lạ cho mình. Nhìn vợ, ngồi ngay giữa nhà, anh
ta “vẫn cịn ngờ ngợ như khơng phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư?”


Đúng là một tình huống thật lạ. Nhưng khi hiểu ra rồi thì lại thấy có gì đáng ngạc
nhiên đâu. Cái lý do dễ hiểu biết bao, nhưng cũng buồn tủi biết bao, tội nghiệp biết
bao! Điều này, bà cụ Tứ gần hết đời người phải làm bạn với cái nghèo mới thật sự
thấm thía: “Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy
còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai ốn vừa xót thương cho số kiếp đứa con
mình. Chao ơi, người ta dựng vợ gả chồng cho con trong lúc trong nhà ăn nên làm
nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Con mình thì… Trong kẽ mắt
kèm nhèm của bà cụ rủ xuống hai dòng nước mắt… Biết rằng chúng nó có ni
nổi nhau cho qua được cơn đói khát này khơng?”


Lịng bà cụ thật là ngổn ngang trăm mối: vừa mừng vừa lo, vừa vui vừa tủi. Mừng
vui vì dù sao con mình cũng cd vợ, điều mà bổn phận làm mẹ bà đã không lo nổi
cho con: ừ thơi thì các con đã phải dun phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng.
Nhưng lo buồn, tủi nhục vì “người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta
mới lấy đến con mình, Mà con mình mới có vợ được…”


Như thế là tình huống truyện đã làm bộc lộ sâu. sắc tâm trạng, tính cách các nhân
vật Bà cụ Tứ do từng trải nhiều nên tâm lý diễn biến phức tạp hơn cả. Cịn Tràng
thì lo ít, vui nhiều. Mới đầu cũng “chọn”, nhưng liền sau đó chặc lưỡi mặc kệ!”.
Trên đường đưa vợ về nhà, thấy người ta tị mị nhìn ngó, “hắn lại lấy vậy làm
thích ý làm, cái mặt cứ vênh lên tự đắc với mình. Niềm vui át hẳn nỗi lo, đến nỗi
anh ta không hiểu được tại sao vợ lại buồn, mẹ lại khóc: “Chán quá chẳng đâu vào
đâu tự nhiên cũng khóc”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy
hắn nên người”



Buồn tủi nhất là tâm trạng của người vợ Tràng “nhặt” được. Lấy chồng là chuyện
thiêng liêng là sự phó thác cả cuộc đời minh cho người đàn ơng mà mình u q.
Vậy mà chị ta nào có biết Tràng là ai, tốt xấu thế nào đâu. Chỉ một câu hò bâng
quơ và mấy bát bánh đúc riêu cua là theo ngay về, Cái đói đã đẩy người đàn bà
đến chỗ chẳng cịn biết xấu hổ là gì, mất hết ý thức tự trọng, thấy mình khơng hơn
gì cái rơm cái rác, người ta có thể “nhặt” được nơi đầu đường, xó chợ…


Tác giả “Vợ nhạt” quả đã sáng tạo được một tình huống truyện thật độc đáo. Một
tình huống vừa rất hiện thực, vừa mang nhiều ý nghĩa biểu tượng sâu sắc.


Lên án tội ác của bọn đế quốc Nhật Pháp đã gây ra cho nhân dân ta nạn đói khủng
khiếp mùa xuân năm 1945, đã là đề tài của hàng loạt tác phẩm thơ văn sau Cách
mạng tháng Tám, 1945 (Thơ Văn Cao, truyện ngăn, tiểu thuyết của Ngun Hồng,
Tơ Hồi, Nguyễn Đình Thi. ..v.v.) Với Vợ nhặt, Kim Lân đã giải quyết đề tài ấy
một cách riêng vừa vô cùng cảm động, vừa buộc người ta đọc phải suy nghĩ nhức
nhối, day dứt mãi, lớp thanh thiếu niên ngày nay đọc chắc không thể tưởng tượng
nổi cái giá của con người đã cd lúc rẻ mạt đến thế. Nghĩa là không bằng con vật.
Cái Tý của Chị Dậu trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố vẫn còn cao giá hơn nhiều. Chỉ
vài bát bánh đúc mà thành vợ hẳn hoi, thân phận con người như thế có hơn gì cỏ
rác. Bọn phát xít thực dân đã từng đấy nhân dân ta đến nông nỗi như thế đấy. Lời
kết tội của Vợ nhặt thật là ngắn gọn sâu sắc thấm thía biết bao!


Nhưng chủ đề của Vợ nhặt khơng chỉ cổ thế. Tình huống truyện đã đặt nhân vật kề
bên nanh vuốt của cái chết. Một khơng khí chết chóc cứ len lỏi trong tác phẩm
vớimùi khói,khét lẹt của những đống rấm trong nhà có người chết lan tới và tiếng
hờ khóc ngồi xóm lọt vào tỉ tê lúc to lúc nhỏ… Nhưng qua tâm trạng của các
nhân vật, nhất là Tràng và bà cụ Tứ, thấy người dân lao động tin ở sự sống, vẫn hy
vọng ở tương lai, cũng khao khát một tổ ấm gia đình để được thương yêu nhau và
cùng chia sẻ vui buồn, để có bổn phận với nhau cũng như có trách nhiệm với


đời…


Đó là bản chất lạc quan của nhân dân lao động. Một chủ nghĩa lạc quan có căn cứ
gì rõ rệt – “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời“. – Vẫn tồn tại dai dẳng ở những con
người ln sống hết mình với cuộc sống trong lao động và đấu tranh để sinh tồn.
Niềm tin tưởng lạc quan ấy cuối cùng đã gặp được ánh sáng của cách mạng với lá
cờ Việt Minh bay phấp phới báo hiệu cuộc đổi đời vĩ đại của dân tộc đang sắp sửa.
<b> Bài tham khảo 4</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

rất thành cơng trong các truyện ngắn của mình khi sáng tác được những tình huống
truyện đặc sắc. Đọc Vợ nhặt của Kim Lân ta cảm rõ điều đó.


Trong Vợ nhặt của Kim Lân, tình huống truyện đã giúp nhà văn xây dựng bộc lộ
sâu sắc tính cách và tâm lí nhân vật. Đồng thời gúp ông bộc lộ tâm tư ti và những
điều mà bản thân ông muốn gửi gắm cho bạn đọc. Truyện cũng thế mà hấp dẫn
hơn.


Tình huống của Vợ nhặt thể hiện ngay ở tên truyện. Một anh nơng dân “nhặt”
được vợ. Mà nào anh ta có bảnh bao hấp dẫn gì: vừa nghèo, vừa xấu trai, lại là dân
ngụ cư. Vậy mà chỉ “tầm phơ tầm phào” mấy câu mà có vợ theo về.


Sự hấp dẫn của tình huống truyện trước hết là ở đó. Như một nghịch lý, nó gây
ngạc nhiên cho mọi trường trong xóm ngụ cư, cho bà cụ Tứ, mẹ Tràng cho cả bản
thân Tràng là kẻ đã “nhặt” được vợ.


“... người trong xóm lạ lắm: Họ đứng cả trong ngưỡng cửa nhìn ra bàn tán…”Đến
khi hiểu ra là Tràng có vợ theo về, thì họ lại càng ngạc nhiên hơn Người thì “cười
lên rung rúc”. Người lại lo dùm cho anh ta “Ơi chao ! đất này cịn rước cái của nợ
đời về. Biết có ni nổi nhau sống qua được cái thời này khơng ?”.



Bà cụ Tứ hiểu tình cảm con mình hơn ai hết nên càng khó tin Tràng có vợ, có
người đàn bà đứng ngay ở đầy giường con mình, bà cụ cứ ngơ ngác tự hỏi: “Quái
sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ ? Sao lại chào mình bằng u? Ai thế nhỉ?
“ Bà cụ làm sao hiểu nổi. Nghèo như con bà ai người ta thèm lấy có vợ được. Vả
lại trời làm đói khát thế này, ni thân chẳng nổi, lấy gì vợ ni con?


Bản thân Tràng cũng lấy làm lạ cho mình. Nhìn vợ, ngồi ngay giữa nhà, anh ta
“vẫn cịn ngờ ngợ như khơng phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư ?”.


Đúng là một tình huống lạ. Nhưng khi hiểu ra rồi thì lại thấy có gì đáng ngạc nhiên
đâu. Cái lý do dễ hiểu biết bao, nhưng cũng buồn tủi biết bao, tội nghiệp bao! Điều
này, bà cụ tứ sống gần hết đời người phải làm bạn với cái nghèo mới sự thấm thía:
“Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lịng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra
biết bao nhiều cơ sự, vừa ai ốn vừa xót thương cho kiếp đứa con mình. Chao ơi,
người ta dựng vợ gả chồng cho con trong lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những
mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Con mình thì... Trong kẽ mắt kèm nhem
của bà cụ rủ xuống hai dịng nước mắt... Biết rằng chúng nó có ni nổi nhau cho
qua được cơn đói khát này khơng ?”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

“chợn”, nhưng liều sau đó chặc lưỡi kệ !”. Trên đường đưa vợ về nhà, thấy người
ta tò mị nhìn ngó, “hắn lại vậy làm thích ý lắm, cái mặt cứ vênh lên tự đắc với
mình”. Niềm vui át hẳn nỗi lo, đến nổi anh ta không hiểu được tại sao vợ lại buồn,
mẹ lại khóc: “Chán quá, chẳng đâu vào đâu tự nhiên cũng khóc !”.


Bỗng nhiên “nhặt” được vợ, hạnh phúc đến với Tràng quá lớn và quá đột ngột.
Mãi đến sáng hôm sau anh ta vẫn còn thấy “trong người êm ái lửng lơ như người
vừa ở trong giấc mơ đi ra”. Và cùng với niềm vui, ý thức về bổn phận, về trách
nhiệm đối với cái tổ ấm của mình, cũng nảy sinh. Anh ta thấy thương yêu gắn bó
với mọi người, với cái nhà, cái sân, khoảnh vườn của mình một cách lạ lùng. “Một
nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy


hắn nên người”.


Buồn tủi nhất là tâm trạng của người vợ Tràng “nhặt” được. Lấy chồng chuyện
thiêng liêng là sự phó thác cả cuộc đời mình cho người đàn ơng mình u q.
Vậy mà chị ta nào có biết Tràng là ai, tốt xấu thế nào đâu. Chỉ một câu hò bâng
quơ và mấy bát bánh đúc riêu cua là theo ngay về. Cái đói đã đẩy người đàn bà
đến chỗ chẳng cịn biết xấu hổ là gì, mất hết ý thức tự thấy mình khơng hơn gì cái
rơm cái rác, người ta có thể “nhặt” được ngồi đường, xó chợ...


Nhưng chủ đề của Vợ nhặt khơng chỉ có thế. Tình huống truyện đã đặt nhân vật kề
bên nanh vuốt của cái chết. Một khơng khí chết chóc cứ len lỏi trong tác phẩm với
mùi khói, khét lẹt của những đống rấm nhà có người chết lan tới và tiếng hờ khóc
ngồi xóm lọt vào tỉ tê lúc to lúc nhỏ... Nhưng qua tâm trạng của các nhân vật,
nhất là Tràng và bà cụ Tứ, thấy người dân lao động tin ở sự sống vẫn hi vọng ở
tương lai, cũng khao khát một tổ ấm gia đình để được thương yêu nhau và cùng
chia xẻ vui buồn, để có bổn phận với nhau cũng như có nhiệm với đời...


Đó là bản chất lạc quan của nhân dân lao động. Một chủ nghĩa lạc quan có căn cứ
gì rõ rệt “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời”… vẫn tồn tại dai dẳng ở những con người
ln sống hết mình với cuộc sống trong lao động và đâu tranh để sinh tồn. Niềm
tin tưởng lạc quan ấy cuối cùng đã gặp được ánh sáng của cách mạng với lá cờ
Việt Minh bay phấp phới báo hiệu cuộc đổi đời vĩ đại của dân tộc đang sắp sửa.
Bà cụ Tứ càng để lại cho người đọc những thiện cảm tốt đẹp. Thấy con lấy vợ
trong hoàn cảnh khó khăn, bà khơng khỏi bùi ngùi, thương xót: “Chao ôi, người ta
dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con
đẻ cái, mở mày mở mặt sau này. Cịn mình thì..”. Nhưng, bà thực sự vui mừng khi
con trai bà đã yên bề gia thất: “Bà lão nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái
mặt bủng beo, u ám của bà rạng rỡ hẳn lên...”. Rồi trong bữa cơm, cả ba mẹ con
đều quên đi hiện thực đau lòng để hướng đến một tương lai tươi đẹp hơn:



</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

Nghĩ đến cái sống, không nghĩ đến cái chết là ở chỗ đấy. Bà cố gắng xua đi lại
thực hãi hùng, để nhen nhóm niềm tin vào cuộc sống cho các con. Tuy nhiên món
chè cám đã nhắc họ về với thực tại. Chao ơi, chè cám! Phải đói đến một mức nào
đó, người ta ăn cám mới cảm thấy ngon! Cuộc sống khắc nghiệt, đày đọa bắt họ
phải sống cuộc sống lồi vật, nhưng nào có dập tắt được phần Người đáng quý
trong mỗi con người. Cái phần Người ấy sẽ giúp họ vượt qua đoạn khó khăn này.
Sẽ lại thiếu sót nêu bỏ qua hình ảnh những người nơng dân trên đê Sộp cùng nhau
đi phá kho thóc, khi nói đến những kể hấp hối trong vịng tử địa vẫn hướng tới
cuộc sống. Đó là hình ảnh khơng hề ngẫu nhiên chút nào, được nhà văn chẩn bị từ
trước. Nó là dấu hiệu của “bước đường cùng”, khơng còn cách giành sự sống nào
khác, phải vùng dậy đấu tranh, hướng tới một cuộc sống tốt đẹp hơn. Tràng thấy
“ân hận, tiếc rẻ vẩn vơ, khó hiểu” bởi anh chưa bắt được mạch nguồn cách mạng.
Trước mắt người đọc lúc này, sự sống trở thành mục đích chung của mọi người;
họ đấu tranh, đoạn tuyệt dứt khoát với cái chết. Và chắc chắn, mẹ con Tràng sẽ
tiếp nối dòng người kia, giành sự sống cho mình.


Có thể khẳng định, truyện ngắn Vợ nhặt là một thành công của Kim Lân. Tác
phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của ông cũng là đỉnh cao của truyện
ngắn hiện đại Việt Nam. Người đọc nhớ mãi một Vợ nhặt với tình huống truyện
độc đáo và chất nhân văn cao cả của tác phẩm.


<b>Bài tham khảo 5</b>


Nạn đói năm 1945 đã trở thành một nỗi đau khủng khiếp của dân tộc ta khi nạn đói
ấy đã cướp đi của đất nước ta hơn hai triệu đồng bào. Nạn đói ấy đã đi vào trong
bao trang sách, những dòng văn, dòng thơ của các nhà văn nhà thơ và một trong số
đó là tác phẩm Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân. Tác phẩm kể về cuộc sống đời
thường của những con người đang vật vờ giữa nạn đói năm 1945. Trong truyện
ngắn này, Kim Lân đã dựng lên một tình huống truyện vô cùng đặc sắc, độc đáo
và mới lạ trong Vợ nhặt, đồng thời qua đó, ơng cũng thể hiện được giá trị hiện


thực và nhân đạo sâu sắc.


Tình huống truyện vốn là những sự kiện, hoàn cảnh đặc biệt trong tác phẩm mà
qua đó, tác giả muốn bộc lộ quan điểm, tư tưởng của mình cũng như bộc lộ được
tính cách, số phận của các nhân vật. Tình huống truyện là một lát cắt từ cuộc sống,
tái hiện cả một xã hội thu nhỏ trong đó. Nó là hạt nhân, điểm nhấn cho ta thấy
được một phần của cuộc sống, xã hội và con người. Đó là định nghĩa về một tình
huống truyện, vậy tình huống truyện trong Vợ nhặt có gì đặc sắc?


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

khoăn, phải lo lắng rồi! Bởi giữa lúc mà đến bản thân cịn khơng lo nổi, lại rước
thêm "của nợ" về thì biết sống làm sao? Đó chính là cái đặc biệt, cái khác lạ mới
mẻ trong câu chuyện của Kim Lân, đó cũng chính là thứ đã tạo nên được giá trị
nhân đạo sâu sắc cho tác phẩm này.


Với nhan đề "Vợ nhặt" thật độc đáo, "vợ" nhưng không phải "vợ cưới" mà lại là
"vợ nhặt", nghe sao thật rẻ rúng quá đỗi. Nhan đề đã tạo nên sự hấp dẫn, một sự tò
mò cho người đọc, bởi một chuyện trọng đại như lấy vợ mà ở đây lại "nhặt" được,
thật quá sức bất ngờ! Thế nhưng, phải bước hẳn vào trong câu chuyện của Kim
Lân, người đọc mới thực hiểu được "vợ nhặt" ấy là thế nào và hẳn ai đọc xong,
cũng không khỏi ấn tượng, không khỏi đồng cảm cho số phận của những con
người trong Vợ nhặt của tác giả Kim Lân.


Người ta nói, Vợ nhặt là một tác phẩm truyện chứa đựng tình huống truyện độc
nhất vơ nhị, mới lạ và cực hấp dẫn. Điều đó thể hiện ở bối cảnh của truyện, ở cái
tình huống vừa lạ lùng vừa éo le mà Kim Lân dựng lên.


Bối cảnh mà Kim Lân dùng để xây dựng lên tác phẩm là xã hội Việt Nam năm
1945, khi mà nạn đói khủng khiếp ấy tràn đến, cướp đi của dân tộc ta hơn hai triệu
đồng bào. Giữa cái bối cảnh ấy, mọi sự đều trở nên u ám, tối tăm, bởi cuộc sống
của con người lúc nào cũng bị bủa vây bởi cái chết. Cái chết cứ rình rập, nhăm nhe


trong từng câu chữ, con người trở nên "xanh xám như những bóng ma, và nằm
ngổn ngang khắp lều chợ", ám ảnh, thê lương vơ cùng. Ở trong cái tình thế như
vậy, đến lo ăn cho chính mình cịn khó khăn, chẳng ai dám nghĩ tới một chuyện gì
khác, mà nhất là cái chuyện dựng vợ gả chồng vào thời điểm này.


Ấy thế mà, giữa lúc đó, ở giữa cái xóm ngụ cư ấy, lại xảy lại một câu chuyện lạ
khiến người ta phải bàn tán, có người thì vui mừng, có người thì thở dài xót xa, đó
là chuyện anh cu Tràng lấy vợ. Thật là một sự kiện vừa lạ lùng lại éo le hết sức.
Bởi trong cái bối cảnh run rủi kia, chẳng ai biết cái chết sẽ tìm đến mình và gia
đình mình lúc nào, cịn anh cu Tràng lại "rước" về một cơ vợ. Nó vừa gây cho
người ta sự thích thú nhưng cũng khiến người ta phải lo sợ cho số phận phía trước
của gia đình Tràng.


Nói tình huống truyện Vợ nhặt lạ và éo le ở chỗ, lạ là anh cu Tràng lấy được vợ,
éo le ở chỗ, anh ta lại lấy vợ vào lúc mà con người ta không muốn lấy nhất, lo lắng
cho cuộc sống của mình nhất.


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

“Trai làng ở góa cịn đơng


Cớ sao e phải lấy chồng ngụ cư?”


Cuộc sống giữa cái xóm ngụ cư nghèo ấy cịn chẳng đủ đảm bảo cho hắn và mẹ
già qua nổi cái nạn đói này, huống chi là phải gánh thêm một miệng ăn khác nữa.
Khơng chỉ thế, hắn lại cịn xấu xí và thơ kệch, "cái đầu trọc nhẵn", "cái lưng to
rộng như lưng gấu", "hai con mắt nhỏ tí", "bộ mặt thơ kệch", "thân hình to lớn, vập
vạp", …Ngoại hình thì thế, hắn cịn thơ lỗ và ăn nói cộc cằn nữa. Vậy nên, liệu với
một ngoại hình như thế, một tính cách như thế, hắn có lấy nổi vợ với cái gia cảnh
của mình chăng?


Mà khơng chỉ có vậy, điều quan trọng nhất trong thời điểm này đó là nạn đói đang


diễn ra trầm trọng, cái chết đeo bám con người từng ngày, từng giờ "người chết
như ngả rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng khơng gặp
ba bốn cái thây nằm cịng queo bên đường". Với tất cả những đặc điểm trên, Tràng
thực sự khó kiếm nổi một cơ vợ cho mình mà cũng không nên lấy vợ ở thời điểm
này. Bởi nếu hắn lấy vợ ở thời điểm này thì thật chẳng khác nào tai họa, chẳng
khác gì "rước thêm của nợ đời", là "đèo bịng", đẩy chính hắn vào cái bi kịch của
nạn đói nhanh hơn một bước.


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

Thị là loại đàn bà con gái trơ trẽn, khơng có liêm sỉ, nhưng đặt mình vào hồn
cảnh của Thị thì mới hiểu, mới thương và xót xa cho Thị. Người ta tự hỏi cái gì đã
khiến Thị mất đi lịng tự trọng, cái gì đã khiến cho Thị khơng màng tới liêm sỉ như
thế? Chẳng phải đó là cái đói, cái chết hay sao? Bởi vậy, Thị đáng thương hơn là
đáng trách, đáng tội nghiệp hơn là đáng phải chịu lời khinh bỉ. Xong bữa ăn, Thị
vô từ “thở: Hà ngon! Về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố”, một câu nói lịch sự vu vơ
nhưng lại được Tràng đáp trả: “Làm đếch gì có vợ. Này nói đùa chứ, có về với tớ
thì ra khn hàng lên xe rồi cùng về”. Một câu nói đùa của Tràng mà Thị làm thật,
thế là trở thành một đôi vợ chồng. Cái đám cưới của Thị và Tràng vội vàng, nhanh
chóng và đơn giản đến bất ngờ. Chẳng có cỗ bàn linh đình, chẳng mổ bị giết lợn,
tất cả chỉ gói gọn trong bốn bát bánh đúc, vậy mới nói, chuyện anh cu Tràng lấy
vợ là một chuyện lạ ở đời.


Có những người cho rằng, ở thời điểm đó, hắn nên từ chối, bởi người ta chẳng biết
ngày mai ra sao, cái đói, cái chết có tìm đến mình hay khơng mà cưới vợ, thì hắn
lại bỏ mặc tất cả với một tiếng "chặc lưỡi: "chặc, kệ!". Và thế là hắn có vợ, thế
nhưng cái sự có vợ của hắn lại là một tình huống éo le nhất mà chúng ta từng đọc.
Bởi xưa nay, việc dựng vợ gả chồng luôn là việc hệ trọng bậc nhất, là niềm hạnh
phúc lớn lao nhất của đời người. Mỗi khi nhắc đến việc cưới vợ cưới chồng, cả gia
đình phải cùng nhau tính tốn, khơng chỉ là lễ vật mà cịn phải là ngày lành tháng
tốt để rước dâu. Ấy vậy mà với Tràng, "giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói khát ấy" thì
hắn lấy vợ. Khơng có một tính tốn, khơng có một lời dạm hỏi hay tình u, tất cả


chỉ đơn giản bắt nguồn từ một câu nói đùa. Hạnh phúc lớn nhất đời người của
Tràng được đổi bằng "bốn bát bánh đúc" nóng hổi khiến cho ai cũng phải bất ngờ
và ngạc nhiên vô cùng. Cái hạnh phúc lớn nhất đời người kia tưởng phải vẹn trịn
thì giờ đây bị chen ngang bởi cái đói, cái chết bởi nạn đói đang hồnh hành dữ dội
khắp nơi.


Nếu như xưa nay, vợ chồng đến với nhau khơng phải vì tình u thì cũng nhờ mai
mối đưa đẩy, thì Tràng lại khác. Cái duyên đưa đẩy Tràng và Thị đến với nhau lại
chính là cái đói. Chỉ với mấy bát bánh đúc, Thị đã bằng lòng theo Tràng về nhà để
trở thành dâu con trong nhà. "Bốn bát bánh đúc" ấy đã thay cho mấy lễ trầu cau
dẫn cưới, "ba bị chín trâu" lễ vật, một cái giá khơng thể có nếu như khơng phải
nạn đói đang xảy ra, và khi đó, hiển nhiên, Tràng cũng chẳng thể lấy nổi với cái
gia cảnh của mình.


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

bịng”. Và Thị nữa, Thị cũng thật "liều” khi nhắm mắt đưa chân theo một kẻ xa lạ.
Đến khi nhìn thấy cái nhà của Tràng, Thị mới “nén một tiếng thở dài”, cũng đúng
thôi, bởi Thị chắc hẳn thất vọng khi nhìn thấy gia cảnh của Tràng, liệu nó có chứa
chấp nổi cái thân của Thị hay chăng? Thế nhưng, lúc gặp Tràng, Thị đã cố bấu víu
vào cái hi vọng cuối cùng để được sống, thế nên đành “nhắm mắt đưa chân”, hi
vọng rằng Tràng sẽ bến đậu cho cuộc đời của Thị.


"Nhặt" được vợ, một câu chuyện tưởng chừng như cổ tích ấy lại diễn ra vô cùng
chân thực trước mắt chúng ta, vậy những con người trong câu chuyện ấy đã phản
ứng ra sao đối với việc Tràng lấy vợ?


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

chí cười khanh khách”. Niềm vui sướng về hạnh phúc gia đình đã khiến hắn “hình
như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hằng ngày, quên đi cả cái đói khát
ghê gớm đang đe dọa, quên cả những tháng ngày trước mặt. Trong lòng hắn bây
giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà đi bên”. Niềm hạnh phúc ấy đến
với Tràng bất ngờ quá, nhanh chóng q, giữa hồn cảnh đói khát nhất, để đến khi


tỉnh dậy vào sáng sớm hơm sau “hắn vẫn cịn ngỡ ngàng như không phải”.


Bậc làm cha làm mẹ luôn mong muốn con cái mình có được những điều tốt đẹp
nhất, hạnh phúc nhất. Ai cũng vậy và bà cụ Tứ - mẹ Tràng cũng không phải ngoại
lệ. Người mẹ già cũng mong muốn con trai mình có được một hạnh phúc nhỏ
riêng mình, thế nhưng bà hiểu được hồn cảnh của gia đình mình, hiểu được con
trai bà, và hơn hết, hiểu được cái giai đoạn mà cái chết khủng khiếp đang gần kề
thế này. Chính vì thế, khi Tràng dẫn người vợ mới trở về gian nhà ọp ẹp, tâm trạng
bà mới đầy những cảm xúc khó tả.


Đầu tiên là sự ngạc nhiên, bà ngạc nhiên khi thấy Tràng đon đả hơn thường ngày,
thái độ vồn vã của Tràng đã báo hiệu cho bà một linh cảm khác lạ. Và bà càng
ngạc nhiên hơn khi nhìn vào trong nhà của mình lại thấy một người đàn bà khác
đang đứng ngay trên “đầu giường của thằng con mình” và chào bà bằng u. Bà cụ
băn khoăn tự hỏi chính bản thân mình “Ai thế nhỉ?”, bởi bà chưa từng nghĩ, đứa
con trai của mình lại có thể có vợ giữa lúc tối tăm thế này. Thế rồi, bà nghe Tràng
nói, bà “cúi đầu nín lặng”. Lịng người mẹ già nặng trĩu bao điều. Bà vui mừng bởi
đứa con trai của bà nay đã có người bầu bạn vui cùng, thế nhưng, bà lại tủi phận
cho cái kiếp nghèo đeo đuổi gia đình bà bao lâu nay “Chao ơi, người ta dựng vợ gả
chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi… Cịn mình thì…”. Những nỗi lo
âu giằng xé tâm can người mẹ già “biết rằng chúng nó có ni nổi nhau sống qua
được cơn đói khát này khơng?”. Câu hỏi đó dằn vặt tâm can bà, chất chứa nỗi
hoang mang, chua xót cho số kiếp của mình, của những đứa con mình. Sự nghẹn
ngào của bà, nỗi xót xa, sự ân hận khi khơng thể làm trịn được bổn phận của một
người mẹ “năm nay đói to đấy, chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá!”. Thế
nhưng, sau tất cả những dằn vặt, nghẹn ngào và ân hận ấy, là niềm vui mừng của
bà dành cho đơi trẻ “u cũng mừng lịng”. Bà cũng truyền cho vợ chồng Tràng
những niềm lạc quan, cái hi vọng bà gieo cho họ về một tương lai tươi sáng phía
trước “Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi ra may ơng giời cho
khá…". Đó là tất cả tấm lòng của người mẹ già dành hết cuộc đời mình vì con vì


cái.


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

Tình huống truyện trong tác phẩm Vợ nhặt đã làm nổi bật lên chủ đề của tác phẩm,
đồng thời còn tạo điều kiện để nhà văn khai thác thế giới nội tâm của nhân vật một
cách chân thực và sâu sắc nhất. Kim Lân đã khéo léo xây dựng một tình huống
truyện đặc sắc, độc đáo bậc nhất nền văn học Việt Nam. Tình huống ấy khơng chỉ
làm rõ cái tình cảnh thê thảm của những người dân ta trong nạn đói khủng khiếp
1945 mà còn thể hiện niềm thương cảm sâu sắc trước những tăm tối trong số phận
con người trước Cách mạng Tháng Tám 1945 nữa.


Ngoài ra, tác phẩm cũng thể hiện được giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Giá
trị hiện thực nằm ở chỗ, Kim Lân đã miêu tả tình cảnh, cuộc sống, khung cảnh thê
thảm của con người trong nạn đói năm 1945 khi mà cái đói dồn đuổi con người ta
vào đường cùng. Nó cũng khiến cho những thứ hạnh phúc tưởng chừng to lớn nhất
đời người trở nên mong manh, tội nghiệp. Và hơn thế, nó tố cáo mạnh mẽ tội ác
của bọn phát xít , thực dân xâm lăng đất nước ta.


Về giá trị nhân đạo, Kim Lân muốn thể hiện cho chúng ta thấy được tình cảm
thương mến của con người dành cho nhau ngay cả trong những lúc khó khăn, đói
khát nhất. Sự trân trọng của Tràng dành cho Thị, tình yêu thương vô bờ của bà cụ
Tứ là những điểm sáng giữa bức tranh tăm tối của nạn đói. Thêm nữa, ta còn cảm
nhận được một thứ ánh sáng hy vọng vào tương lai tốt đẹp khi ngọn cờ Cách mạng
phất phới bay trong gió cùng đồn người đi phá kho thóc Nhật.


Kim Lân là một nhà văn thực sự tài năng, là một nhà văn gắn liền với đất và
người. Tình huống trong câu chuyện “Vợ nhặt” của ơng đã cho chúng ta một cái
nhìn mới về tình nghĩa con người trong nạn đói khủng khiếp của dân tộc. Tình
huống ấy được dựng lên vừa lạ lùng vừa éo le, gieo vào lịng người đọc bao cảm
xúc khó tả nhất. Đồng thời nó cũng chứng minh một tài năng hiếm có trong nền
văn học Việt Nam – Kim Lân.



<b>Bài tham khảo 6</b>


Sự thăng hoa của tác phẩm phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó khơng thể khơng
kể đến việc sáng tạo ra tình huống truyện độc đáo. Kim Lân là một nhà văn nông
thôn chuyên viết về những chuyện nơng thơn như: Làng, Vợ nhặt, Con chó xấu xí,
Chuyện ơng già trên núi Cơi Kê….Trong đó, “Vợ nhặt” là tác phẩm góp phần làm
nên tên tuổi nhà văn Kim Lân với những nghệ thuật sáng tạo độc đáo: đó là tình
huống truyện.


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

Tình huống truyện trong “Vợ nhặt” vơ cùng độc đáo: Đó là việc anh Tràng lấy
được vợ trong nạn đói lịch sử, trong những ngày mà người chết đầy đường, đồn
người dắt díu nhau đi tìm cái ăn, xóm ngụ cư đêm dêm vang lên trong tiếng hờ
khóc người chết.


Tình huống ấy trước hết được coi là tình huống lạ, độc đáo. Ta thấy hành động lấy
được vợ của Tràng vô cùng khác thường mà phải gọi là “nhặt vợ” thì đúng hơn.
Dưới mắt những người dân xóm ngụ cư, người như Tràng lấy được vợ là chuyện
không tưởng. Quan niệm dân gian trước giờ luôn xem nhẹ việc lấy chồng ngụ cư –
vốn là tầng lớp dưới đáy thường bị xã hội xem thường, rẻ khinh. Hơn nữa, Tràng
lại là một người xấu xí, nghèo khổ. Giữa thời buổi ấy, ni được thân mình đã khó
mà lại cịn đèo bịng chuyện vợ con. Nhưng đáng thương hơn cả là hành động nhặt
vợ ấy. Vợ - đáng lẽ hải được cưới hỏi tử tế, đàng hoàng, phải đầy đủ mâm cỗ rước
về nhưng nay lại rẻ rúng bằng một câu nói bơng đùa và bốn bát bánh đúc.


Tràng nhặt được vợ trong một tình huống vừa kì quặc, vừa ối oăm, vừa vui
mừng, vừa bi thảm. Mặc dù lạ nhưng việc Tràng lấy được vợ là điều vơ cùng hợp
lí. Người đọc tồn hồn bằng lòng với việc xảy ra. Anh Tràng lấy vợ lúc này là
đúng bởi vì nếu khơng phải năm đói thì chắc chẳng có người đàn bà nào chịu lấy
anh. Hơn nữa, hành động nhặt vợ kia còn thể hiện được sự cưu mang, đùm bọc lẫn


nhau của những con người năm đói.


Bên cạnh đó, tình huống truyện cịn thể được sự éo le, ối oăm, trớ trêu. Nếu trong
hồn cảnh bình thường thì anh Tràng lấy vợ là niềm vui cho bà mẹ và xóm ngụ cư.
Vậy mà éo le thay, việc anh Tràng lấy vợ không biết là nên vui hay nên buồn.
Chính Tràng ban đầu cũng khơng ngờ được việc mình lấy được vợ. Chỉ bốn bát
bánh đúc và một câu bông đùa – hôn nhân chưa bao giờ tưởng có thể đơn giản
được như thế. Dưới con mắt của người dân xóm ngụ cư, anh Tràng lấy vợ khiến
người ta tò mò, ngạc nhiên, lo sợ cho anh. Tình hình hiện tại biết bao u ám “cái đói
đã tràn đến xóm này tự lúc nào” thế nhưng Tràng vẫn đèo bòng chuyện vợ con.
Với bà cụ Tứ, bà còn nghĩ đến những điều tệ hại hơn: “biết rằng chúng nó lấy
nhau liệu có ni nổi nhau qua cơn đói khát này khơng?”. Với Tràng, anh đã từng
cảm thấy hơi chợn khi nghĩ về niềm hạnh phúc bé nhỏ vừa tìm được “thóc gạo này
đến thân mình chẳng biết có ni nổi khơng lại cịn đèo bịng?” Với thị - người vợ
vừa được nhặt về, nỗi tủi hổ dường như lấn át cả niềm vui. Nói trắng ra, thị lấy
Tràng cũng vì muốn sống sót qua cơn đói, muốn tìm một chiếc phao cứu sinh. Sự
éo le ấy còn lan tỏa ra khung cảnh xung quanh. Đêm tân hôn của hai người khốn
khổ diễn ra trong cái gió lồng lộng từ bờ sơng thổi vào, ngọn đèn dầu vàng đục và
tiếng hờ khóc của người chết vang lên trong xóm ngụ cư.


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

thảm cảnh đau thương của biết bao con người chết đói khiến cho người đàn bà tự
nguyện vứt bỏ nhân phẩm, vứt bỏ giá trị theo không anh về làm vợ. Con người
hiện lên như cái rơm, cái rác bị vứt ngoài lề cuộc sống. Trong khung cảnh đói khát
ấy, anh lấy vợ mà chẳng ai mừng cho, bữa cơm đầu tiên sau ngày cưới thật thảm
hại, lấy vợ trong nỗi xót xa, cay đắng khôn cùng.


Giá trị nhân đạo trong tác phẩm “Vợ nhặt” cũng là điều khiến người đọc phải suy
nghĩ trước sau. Kim Lân đã gợi lên trong lòng người đọc niềm xót xa khơn ngi,
qua đó gợi cho người đọc sự cảm thông về số phận người dân nghèo. Đồng thời,
góp phần phát hiện phẩm chất đáng q của người nơng dân ngay giữa hồn cảnh


đói khát. Trong cái đói, mẹ con anh đã biết cưu mang một người xa lạ. Việc Tràng
cưới vợ trước xuất phát từ bản chất xót thương, muốn cứu vớt thị. Lời mời “có về
với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về” có vẻ như đùa nhưng thực ra là cơ hội
dễ dẫn thị từ bên bờ vực của cái đói, cái chết về đến hạnh phúc gia đình.


Tràng lo lắng, quan tâm, trân trọng từng hạnh phúc bình dị, đơn sơ: đưa chị vào
hàng ăn một bữa cơm thật no, sắm cho chị một cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt,
mua dầu thắp đèn cho sáng đêm tân hôn… Tràng còn âm thầm theo dõi thái độ của
thị và cảm thấy lo lắng trước sự lặng lẽ: “quái sao nó lại buồn thế nhỉ”? Tràng giới
thiệu thị với mẹ một cách đàng hoàng để thị vơi bớt tủi hổ: “Nhà tơi nó mới về làm
bạn với tơi đấy u ạ! Chúng tôi phải duyên phải kiếp với nhau”. Đặc biệt, Kim Lân
qua việc khắc họa nhân vật còn thể hiện niềm tin vào sự đổi đời.


Đây là nét nhân đạo mới mẻ ở ông. Nghe vợ kể chuyện nông dân Thái Nguyên,
Bắc Giang phá kho thóc chia cho dân nghèo khiến Tràng chợt nhớ đến cảnh đoàn
người với cờ đỏ sao vàng trên đê Sộp. Phải chăng anh thấy tiếc vì khơng tham gia
đồn biểu tình ấy? Ở những con người năm đói là sự vươn lên mạnh mẽ. Cái đói
khơng những khơng đánh gục ngã được họ mà làm cho họ tìm thấy niềm tin ở
tương lai.


Tóm lại, tính huống Tràng lấy vợ thực sự mang lại cái nhìn tin tưởng của người
đọc về sự thay đổi của số phận người nơng dân. Chính vì vậy, qua “Vợ nhặt”,
chúng ta càng hiểu hơn về tư tưởng của Kim Lân: “Các nhà văn viết về cái đói ở
khía cạnh tối tăm và bất lực của con người trước nó (…) Khi tôi viết, ý tưởng
thường trực trong tôi là những người dù đói thế nào đi chăng nữa vẫn luôn khao
khát cuộc sống tốt đẹp hơn, vẫn tin tưởng một cách mơ hồ vào cuộc sống tương
lai. Cái “mơ hồ” ấy là do cuộc sống thực tại luôn hành hạ họ”.


<b>Bài tham khảo 7</b>



Viết về nạn đói ăn năm Ất Dậu, "Vợ nhặt" của Kim Lân là một truyện ngắn đặc
sắc nhất, độc đáo nhất trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại.


</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

dựng tình tiết - cốt truyện đầy kịch tính là giá trị tư tưởng và nghệ thuật đích thực
được thể hiện qua tình huống "nhặt" vợ của anh cu Tràng.


Tóm tắt tình huống "nhặt" vợ: Anh cu Tràng, mồ côi bố, ở với mẹ già tại xóm ngụ
cư. Nhà nghèo, hắn làm nghé kéo xe bị th. Con mắt "nhỏ tí", bộ mặt "thơ kệch",
cái đầu "trọc nhẵn" lại có tật "vừa đi vừa nói lảm nhảm...". Cứ tưởng rằng hắn sẽ
nằm sng đến già. Ai ngờ... chỉ "tầm phơ tầm phào đâu có hai bận", một câu hị
rất phong tình, bốn bát bánh đúc ngồi chợ tỉnh, chẳng cheo cưới gì thế mà hắn đã
"nhặt" được vợ. Đó là một cơ gái, áo quần rách như tổ đỉa, nhưng đã "liếc mắt
cười tít" làm cho Tràng "thích lắm".


Tràng "nhặt" được vợ khi trận đói đã và đang diễn ra vơ cùng khủng khiếp. Người
chết đói như ngả rạ. Từng đám người chạy đói "xanh xám như những bóng ma".
Mùi gây của xác người... Quạ bay vẩn trên nền trời như những đám mây đen, "cứ
gào lên từng hồi thê thiết". Xóm ngụ cư "xác xơ heo hút". Tràng "nhặt" vợ mà cảm
thấy "chợn" vì giữa trận đói, ni cái thân mình cịn khó mà "lại còn đèo bòng".
Trên đường dẫn "vợ mới vợ miếc" về nhà, hắn "phớn phơ" khác thường, "tủm tỉm
cười nụ", "hai mắt thì sáng lên lấp lánh",... Cịn thị thì "thèn thẹn hay đáo để"
Tràng "nhặt" được vợ đã làm cho cả xóm ngụ cư ngạc nhiên. Lũ trẻ con cong cổ
gào lên: "Chơng vợ hài". Có người "thở dài", có người "thì thầm" hỏi. Lại có
người "cười lên rung rúc". Có người lo và thương cho Tràng: "Giời đất này còn
rước cái của nợ đời về". Bà cụ Tứ, mẹ Tràng lại càng ngạc nhiên khi thấy một
người đàn bà xa lạ "đứng ngay đầu giường" thằng con trai mình. Bà vừa tủi thân,
vừa mừng vừa lo: "Biết rằng chúng nó có ni nổi nhau sống qua được đói cơn đói
khát này khơng". Tối "tân hơn" của Tràng đã có hai hào dầu thắp sáng, nhưng
"tiếng khóc hờ tỉ tê" của những gia đình mới có người chết đói, nghe càng rõ trong
đêm khuya.



Mẹ chồng chỉ có một nồi cháo cám ăn mừng nàng dâu mới. Tiếng trống thúc thuế
vẫn dội lên "dồn dập vội vã".Và trên đê Sộp những người đói ầm ầm kéo nhau đi,
phía trước có lá cờ đỏ to lắm! Tình huống "nhặt" vợ đã được Kim Lân sáng tạo
nên bằng cảm hứng nhân văn sâu sắc. a. Ơng đã dành những tình cảm tốt đẹp nhất
đối với con người nghèo khổ, hoạn nạn. Ông xót thương cho nỗi đau khổ của dân
tộc trước thảm hoạ năm Ất Dậu "người chết như ngả rạ". Ơng ái ngại cho một cơ
gái bị nạn đói cướp đi gần hết. Khơng cịn tên tuổi. Khơng cịn bố mẹ, anh chị em.
Khơng gia đình q hương. Mặt người "gầy sọp", áo quần rách như tổ đỉa. Đói
quá, mất đi vẻ duyên dáng, "cắm đầu một chặp bốn bát bánh đúc". Giá trị, phẩm
giá của người con gái trở nên rẻ rúng đáng thương! Trước mắt thị là vực thảm, là
chết đói, thị phải "theo trai", phải lấy Tràng...


</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

tự hào và trân trọng biết bao. Anh đã mua hai hào dầu thắp sáng tối tân hôn, để
xua tan cái tối tãm, nghèo khổ, cô độc, để mừng "vợ mới vợ miếc", để soi sáng
hạnh phúc tương lai. Tình tiết hai hào dầu rất giàu ý nghĩa nhân đạo.


Kim Lân đã ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của nhân dân lao động. Ông đã tả
giọt nước mắt trong nỗi lo, niềm vui của người mẹ nghèo khi nhận nàng dâu mới.
Niềm tin "ai giàu ba họ, ai khó ba đời"; nồi cháo cám đắng chát mà người mẹ già
gọi là "chè khoán ngon đáo để", những câu chuyện vui, chuyện sau này của người
mẹ chồng nói vói con trai và con dâu lúc ăn cháo cám. Tất cả thể hiện một cách
cảm động tình thương người, niềm tin đối với con người của tác giả.


Đối với thực trạng xã hội đương thời, thơng qua tình huống Tràng "nhặt" vợ, Kim
Lân căm thù lên án và vạch trần tội ác của Nhật - Pháp đã bắt dân ta nhổ lúa trồng
đay, vơ vét sưu thuế, gây ra trận đói kinh khủng năm Ất Dậu 1945, làm hơn hai
triệu đồng bào t bị chết đói! Nạn đói đã hạ thấp giá trị con người. Chẳng cần cheo
cưới, chỉ cần bốn bát bánh đúc mà người ta có thể "nhặt" được vợ.



Qua tình tiết khi trống thúc thuế dồn dập dội lên, thì nàng dâu mới loan tin ở mạn
Bắc Giang, Thái Ngun, người ta khơng chịu đóng thuế, cịn phá kho thóc của
Nhật - chia cho người đói,... Và đám người đói kéo đi trên đê Sộp, phía trước là lá
cờ đỏ to lắm bay phấp phới. Kim Lân đã thể hiện rất hay tình cảm của hàng triệu
nơng dân Việt Nam hướng về cách mạng. Cứu đói, cứu khổ, cứu đời và đem đến
độc lập, tự do cho dân tộc chính là sự xuất hiện lá cờ đỏ ấy. Qua hình ảnh lá cờ đỏ,
cảm hứng nhân đạo của truyện "Vợ nhặt" đã được nhân lên thành cảm hứng nhân
văn tuyệt đẹp.


<b>Bài tham khảo 8</b>


Một câu chuyện hay thường bao gồm những tình huống truyện xuất sắc. Chẳng
hạn trong tác phẩm Chữ người tử tù của nhà văn Nguyễn Tn, tình huống truyện
có một khơng hai đó chính là sự đối lập giữa tên tử tù Huấn Cao và người quản
ngục, giữa ánh sáng và bóng tối, giữa chốn đề lao phong kiến và cái đẹp của con
người. Hay trong tác phẩm Chí Phèo của nhà văn Nam Cao, tình huống truyện lại
độc đáo ở chỗ Chí Phèo muốn hồn lương nhưng khơng thể nên đã giết Bá Kiến.
Còn ở đây, trong truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân, tình huống truyện lại
được thể hiện qua ngay nhan đề của tác phẩm: vợ nhặt.


</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

Đầu tiên người nhặt được đồ là anh cu Tràng, quả đúng anh Tràng là người khó
khăn thật, nếu khơng nói là đói kém quay quắt. Nhà nghèo lại là dân ngụ cư, cả
anh và mẹ đều trông chờ vào những công việc cửu vạn của anh mà dạo này đó là
việc xe thóc cho Liên đồn. Tính mạng của hai mẹ con chưa chắc đã được đảm
bảo bởi nó cịn chịu chi phối bởi tiếng trống thúc thuế vẫn vang dồn ngồi đường,
mẹ con bà thậm chí phải ăn cháo để sống qua ngày.


Trong bối cảnh như vậy, nếu anh nhặt được món đồ vật chất, giá trị nào đó thì đây
quả là một món hời từ trên trời rơi xuống, cứu cánh cho cả gia đình nhà anh. Thế
nhưng anh lại nhặt được … một cô vợ, một cơ vợ theo đúng nghĩa. Tràng xe thóc


cho Liên đồn, thấy đám con gái ngồi đợi việc thì cũng chỉ hò trêu đùa: “Muốn ăn
cơm trắng mấy giò – Lại đây mà kéo xe bò với anh”. Câu hò của anh Tràng là nửa
đùa nửa thật, nó bâng quơ và cũng khơng địi hỏi đáp lại. Thế nhưng người vợ nhặt
lại bám víu vào đó như bám víu một cái phao giữa đại dương, thị đã chạy ngay lại
để đẩy xe bò cho Tràng. Khi gặp lại lần hai, thị gần như xấn xổ vào mặt Tràng mà
mắng tới tấp.


Thị ngồi xuống ngay tắp lự và ăn một chặp 4 bát bánh đúc khơng nói một câu,
khơng ngẩng đầu nhìn ai. Sau đó chào hỏi bằng vài câu và Tràng lại tiếp tục rủ thị
về nhà cùng mình cho vui. Người vợ nhặt ấy thế nhưng lại theo về thật, đến Tràng
cũng ngạc nhiên và giật mình. Bản thân Tràng cũng nghĩ “thời buổi này biết có
ni nổi mình khơng lại cịn đèo bịng”. Câu nói của anh hồn tồn có thể hiểu là
một câu bơng đùa, tán tỉnh người con gái. Chẳng ai lại đi cầu hôn theo cái cách
của Tràng cả.


Tính cho đến lúc thị theo Tràng về nhà, họ mới chỉ gặp nhau đúng 2 lần, nói
chuyện với nhau khơng q vài câu. Họ thậm chí chưa biết rõ về tên tuổi, quê
quán, gia đình, xuất thân của nhau, chính người vợ nhặt khi về thấy gia cảnh nhà
Tràng cũng không khỏi nán một tiếng thở dài. Tràng lấy vợ khơng mất một món
sính lễ, khơng cả một mâm cơm mời họ hàng, không mất thời gian làm quen, tán
tỉnh, không trải qua các công đoạn thường có của mỗi cặp đơi, chỉ đơn giản là một
người hỏi, một người trả lời và nên duyên vợ chồng.


Tình huống nhặt vợ của Tràng quả là một tình huống ối oăm và dở khóc dở cười.
Có thể vì đèo bịng thêm một mạng người mà cả gia đình nhà Tràng sẽ chết đói.
Thế nhưng sau cùng anh vẫn chặc lưỡi và thây kệ, sau cùng thì bà cụ Tứ cũng chỉ
thở dài và nói “thơi thì các con đã phải cái duyên, cái kiếp… u cũng mừng lòng”.
Vậy đấy, quả là một tình huống nhặt vợ theo đúng nghĩa, một tình huống có một
khơng hai trong văn học Việt Nam. Nhà văn Kim Lân cũng thật khéo léo, tài tình
khi xây dựng được tình huống như vậy nhưng lại không khiến cho tác phẩm bị


phô, lố bịch mà trái lại nó lại rất dễ hiểu, dễ cảm thơng trong bối cảnh xã hội như
vậy.


</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25>

cách của các nhân vật cũng được bộc lộ rõ nét hơn và làm hơn tâm hồn và nhân
cách của các nhân vật.


</div>

<!--links-->

×