Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật cho sinh viên trường đại học, cao đẳng trên địa bàn tỉnh lào cai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.2 MB, 100 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

…………/…………

……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

MAI THỊ LAN HƢƠNG

TỔ CHỨC THỰC HIỆN GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
CHO SINH VIÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LÀO CAI

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CƠNG

Chun ngành:

Quản lý cơng

Mã số:

60 34 04 03

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. LÊ ANH XUÂN

HÀ NỘI – NĂM 2018



LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu nêu trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn
chưa từng được ai công bố trong bất kỳ cơng trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Mai Thị Lan Hƣơng


TS. Lê Anh Xuân

Mai Thị Lan Hƣơng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN
GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO SINH VIÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG........7
1.1. Quan niệm về giáo dục pháp luật cho sinh viên trường đại học, cao đẳng ...............7
1.2. Quan niệm về tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật cho sinh viên trường
đại học, cao đẳng ............................................................................................19
1.3. Các yếu tố bảo đảm tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật cho sinh viên
trường đại học, cao đẳng ................................................................................25
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC THỰC HIỆN GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
CHO SINH VIÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH LÀO CAI.......................................................................................................29
2.1. Khái quát chung các trường đại học, cao đẳng trên địa bàn tỉnh Lào Cai
và đặc thù sinh viên các trường đại học, cao đẳng.........................................29
2.2. Thực tiễn tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật cho sinh viên các trường
đại học, cao đẳng trên địa bàn tỉnh Lào Cai ...................................................37

2.3.
các trường đại học, cao đẳng trên địa bàn tỉnh Lào Cai .................................60
Chƣơng 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM TỔ CHỨC GIÁO DỤC
PHÁP LUẬT CHO SINH VIÊN CÁC TRƢỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LÀO CAI .........................................................................66
3.1. Quan điểm bảo đảm tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật cho sinh viên
các trường đại học, cao đẳng trên địa bàn tỉnh Lào Cai .................................66
3.2. Giải pháp đổi mới tổ chức giáo dục pháp luật cho sinh viên các trường
đại học, cao đẳng trên địa bàn tỉnh Lào Cai ...................................................69
KẾT LUẬN ..............................................................................................................90
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................92


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
GDPL

Giáo dục pháp luật

HĐND

Hội đồng nhân dân

QPPL

Quy phạm pháp luật

TNXH

Tệ nạn xã hội


UBND

Ủy ban nhân dân

VPHC

Vi phạm hành chính

VPPL

Vi phạm pháp luật

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

CNH - HĐH
ĐH, CĐ
GD & ĐT
HSSV
PBGDPL
KTX
CBGV
QH
TCGDPL

Cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa
Đại học, cao đẳng
Giáo dục và Đào tạo
Học sinh sinh viên

Phổ biến giáo dục pháp luật
Ký túc xá
Cán bộ giáo viên
Quốc hội
Tổ chức giáo dục pháp luật


DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1. Số lượng học viên đã được đào tạo tại khoa Pháp lý từ ngày
thành lập đến nay .................................................................................... 40
Bảng 2.2. Kết quả học tập môn Pháp luật ................................................................ 42
Bảng 2.3. Chương trình đào tạo mơn học Pháp luật ................................................. 45
Bảng 2.4. Chương trình đào tạo mơn học Luật hành chính ...................................... 47
Bảng 2.5. Kết quả rèn luyện của học sinh, sinh viên ............................................... 59


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Giáo dục pháp luật là một hoạt động có vai trị to lớn đối với sự phát triển
toàn diện của Việt Nam, trong đó có việc hình thành ý thức pháp luật và văn hóa
pháp lý trong nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ.
Trong giai đoạn hiện nay, nước ta đang trong thời kỳ hội nhập thì việc giáo
dục pháp luật cho các đối tượng nói chung và cho sinh viên trường đại học, cao
đẳng nói riêng đã được coi là nhiệm vụ cấp bách hàng đầu. Các trường học đã xác
định đây là một hoạt động giáo dục quan trọng, cụ thể, khơng thể thiếu và gắn bó
hữu cơ với hoạt động giáo dục nói chung, mang tính định hướng, có tổ chức, có chủ
đích của các chủ thể giáo dục pháp luật. Thơng qua các hoạt động giáo dục chính
khóa và ngoại khóa, bằng các phương pháp giáo dục khác nhau nhằm trang bị tri
thức pháp luật cơ bản, định hướng, phát triển nhân cách và tư cách công dân, nâng

cao nhận thức, góp phần điều chỉnh hành vi, hình thành thói quen tự giác xử sự
đúng pháp luật, có ý thức tuân thủ pháp luật và có tri thức pháp luật về chuyên môn
nghiệp vụ, ngành nghề lĩnh vực mình được đào tạo.
Thực tiễn cho thấy, giáo dục pháp luật trong các nhà trường, đặc biệt trong
các trường đại học và cao đẳng đã góp phần đào tạo nguồn nhân lực, hình thành một
cách vững chắc những thế hệ công dân đáp ứng những yêu cầu của xã hội hiện tại
và tương lai. Do đó, trong đường lối, chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng và
Nhà nước thường xuyên quan tâm đến hoạt động này thông qua việc ban hành các
loại nghị quyết, chỉ thị, trong đó xác định rõ muốn xây dựng và nâng cao ý thức
pháp luật cho nhân dân cần đưa việc giáo dục pháp luật vào các trường học, các cấp
học, từ phổ thông đến đại học, trung học chuyên nghiệp cùng toàn thể nhân dân.
Nghị quyết số 08 - NQ/TW ngày 02 tháng 01 năm 2002 của Bộ Chính trị về
một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới chỉ rõ cần:
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật với nhiều hình
thức phong phú, sinh động, đặc biệt là thơng qua các phiên tồ xét xử lưu động và
bằng những phán quyết công minh để tuyên truyền, nâng cao ý thức pháp luật cho
cán bộ và nhân dân [1].

1


Chỉ thị số 32 - CT/TW ngày 09/12/2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác PBGDPL, nâng cao ý thức chấp
hành pháp luật của cán bộ, nhân dân đã khẳng định: “Phổ biến, giáo dục pháp luật là
một bộ phận của cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng, là nhiệm vụ của tồn bộ hệ
thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng” [2].
Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VII cũng nhấn mạnh: “coi
trọng cơng tác giáo dục tun truyền, giải thích pháp luật, đưa việc dạy pháp luật
vào hệ thống các trường của Đảng, của Nhà nước (kể cả các trường phổ thơng, đại
học) của các đồn thể nhân dân” [4].

Trên tinh thần ấy, các cơ quan chức năng đã phối hợp, từng bước triển khai
việc đưa phổ biến, giáo dục pháp luật vào các trường học thuộc hệ thống giáo dục
quốc dân. Đổi mới chương trình, mục tiêu giáo dục ở các hệ đại học, cao đẳng, trung
học chuyên nghiệp và dạy nghề. Trong các chương trình chính khóa, phổ biến, giáo
dục pháp luật trong nhà trường được thực hiện thông qua việc dạy và học các môn
học pháp luật; pháp luật đại cương hoặc lồng ghép, tích hợp vào các mơn học có liên
quan. Bên cạnh đó, phổ biến, giáo dục pháp luật cho học sinh, sinh viên được nhà
trường thực hiện thơng qua các hoạt động ngoại khóa, giáo dục ngồi giờ lên lớp.
Trong thời kỳ hiện nay, có rất nhiều học sinh, sinh viên có ý chí vươn lên
trong học tập, có hồi bão khát khao lớn. Tuy nhiên, dưới tác động của nền kinh tế
thị trường, kinh tế mở cửa, sự du nhập của nhiều nền văn hóa và do nhiều nguyên
nhân khác, hành vi lệch chuẩn của thanh thiếu niên có xu hướng ngày càng tăng.
Hiện tượng vi phạm pháp luật, đặc biệt là pháp luật hình sự ngày càng trở thành
những vấn đề nhức nhối của xã hội. Một số hành vi vi phạm pháp luật của sinh viên
khiến gia đình và xã hội lo lắng như: vi phạm giao thông, đua xe trái phép, cờ bạc,
rượu chè, quay cóp bài… có lối sống hưởng thụ, chạy theo đồng tiền, xa hoa, lãng
phí, lười lao động và học tập dẫn đến những hành vi đặc biệt nguy hiểm cho xã hội
như: cướp của, giết người, hiếp dâm.... Những hành vi ấy là hậu quả của giáo dục
khơng đồng bộ giữa nhà trường, gia đình và xã hội. Bên cạnh đó, trong thời gian
khá dài, cơng tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho sinh viên còn hạn chế, chưa thực

2


sự được quan tâm dẫn tới tình trạng vi phạm pháp luật trong giới trẻ nói chung và
sinh viên nói riêng có chiều hướng gia tăng. Một tỷ lệ khơng nhỏ học sinh, sinh viên
còn hiểu về pháp luật một cách sơ sài, hời hợt. Nhiều sinh viên coi các môn học
pháp luật trong trường đại học, cao đẳng chỉ là mơn học phụ, thậm chí có những
sinh viên chưa phân biệt được hành vi hợp pháp với hành vi không hợp pháp, giữa
các loại vi phạm pháp luật hành chính, dân sự, hình sự… dẫn đến hành vi vi phạm

pháp luật một cách đáng tiếc.
Mặc dù những hạn chế nêu trên do nhiều nguyên nhân khác nhau tác động
nhưng trong đó khơng thể khơng kể đến việc nhận thức về vai trị, vị trí, tầm quan
trọng của cơng tác phổ biến, giáo dục pháp luật ở một số trường chưa đúng mức;
chương trình nội dung giáo dục pháp luật cho sinh viên cịn dàn trải, chưa thống
nhất; hình thức và phương thức giáo dục còn chậm đổi mới; hoạt động giáo dục
ngoại khóa cịn đơn điệu, thiếu hấp dẫn; đội ngũ nhà giáo và cán bộ làm công tác
giáo dục pháp luật còn thiếu cả về số lượng và chất lượng. Thể hiện ở vấn đề năng
lực của một số cán bộ, giảng viên chưa đáp ứng được nhu cầu trong công việc; cơ
chế phối hợp giữa các chủ thể giáo dục pháp luật cịn thiếu đồng bộ… chính vì
những lý do trên mà tơi chọn đề tài: “Tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật cho
sinh viên trường Đại học, Cao đẳng trên địa bàn tỉnh Lào Cai” để đưa ra một số
giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục nói chung và ý thức pháp luật nói
riêng cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng trên địa bàn tỉnh Lào Cai.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Phổ biến giáo dục pháp luật ln giữ vị trí quan trọng trong đời sống xã hội.
Đặc biệt, trong công cuộc đổi mới của nước ta hiện nay, hoạt động phổ biến giáo
dục pháp luật càng có vai trị quan trọng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Đây là một trong những nội dung mà các nhà khoa học pháp lý đặc biệt quan tâm.
Thể hiện qua các cơng trình nghiên cứu như:

- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về giáo dục pháp luật trong thời ký đổi
mới. Đề tài khoa học cấp Bộ, mã số 92 - 98 - 223 - ĐT của viện nghiên cứu khoa
học pháp lý - Bộ Tư pháp.

3


- Bàn về giáo dục pháp luật, của tác giả Trần Ngọc Đường và Dương
Thanh Mai.


- Giáo dục pháp luật trong các trường trung học chuyên nghiệp và dạy
nghề ở nước ta hiện nay, Luận án Phó tiến sĩ của Đinh Xuân Thảo, 1996.
- Xây dựng ý thức và lối sống pháp luật, do GS.TSKH Đào Trí Úc chủ biên, 1995.
- Vai trị của pháp luật trong q trình hình thành nhân cách, Nxb Tư pháp,
Hà Nội.

- Đổi mới giáo dục pháp luật hệ đào tạo trung học chính trị ở nước ta hiện
nay, Luận văn thạc sỹ của Nguyễn Ngọc Hoàng, 2000.

- Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong quản lý xã hội ở nước ta, Đề
tài khoa học cấp Bộ, Hoàng Thị Kim Quế chủ nhiệm, năm 2002.

- Vai trò của pháp luật trong quá trình hình thành nhân cách, Nguyễn Đặng
Đình Lục, Nxb Tư pháp, Hà Nội, năm 2005.
- “Sự hình thành ý thức pháp luật và giải pháp nâng cao ý thức pháp luật ở
nước ta trong thời kỳ đổi mới” - Đào Duy Tấn, Nxb Chính trị Quốc gia, 2004;
- “Giáo dục pháp luật cho học viên ở trường bồi dưỡng nghiệp vụ công an
nhân dân” - Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Tiến Công, 2013;
- “Chất lượng giáo dục pháp luật cho học viên ở trường sỹ quan lục quân 1
- Quân đội nhân dân Việt Nam” - Luận văn thạc sỹ của Trịnh Văn Hưng, 2014;
Cho đến nay có rất nhiều đề tài nghiên cứu xung quanh vấn đề về tổ chức
thực hiện giáo dục pháp luật cho sinh viên. Mỗi đề tài nghiên cứu, có các cách tiếp
cận và mục tiêu khác nhau. Tuy nhiên, chưa có một tác giả nào nghiên cứu cơ bản
về tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật cho sinh viên các trường đại học và cao
đẳng trên địa bàn tỉnh Lào Cai. Vì vậy, tác giả đã nghiên cứu có hệ thống và tương
đối hoàn thiện về tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật cho sinh viên các trường đại
học, cao đẳng trên địa bàn tỉnh.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích: Trên cơ sở phân tích lý luận và đánh giá thực trạng GDPL cho

sinh viên các trường đại học và cao đẳng trên địa bàn tỉnh Lào Cai, luận văn đề xuất

4


một số giải pháp nhằm bảo đảm tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật cho sinh viên
các trường đại học và cao đẳng trên địa bàn tỉnh Lào Cai.
Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn xác định các nhiệm
vụ nghiên cứu như sau:
- Nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận tổ chức thực hiện GDPL cho sinh viên các
trường đại học và cao đẳng.
- Nghiên cứu, đánh giá về thực trạng tổ chức thực hiện GDPL cho sinh viên
các trường đại học và cao đẳng trên địa bàn tỉnh Lào Cai, chỉ ra kết quả, hạn chế và
nguyên nhân
- Đề xuất các quan điểm, giải pháp bảo đảm tổ chức thực hiện GDPL cho
sinh viên các trường đại học và cao đẳng trên địa bàn tỉnh Lào Cai hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu về tổ chức thực
hiện GDPL cho sinh viên các trường đại học và cao đẳng trên địa bàn tỉnh Lào Cai
dưới góc độ Quản lý Hành chính công.
- Phạm vi nghiên cứu: Công tác tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật cho
sinh viên trường đại học và cao đẳng trên địa bàn tỉnh Lào Cai trong khoảng 10 năm
trở lại đây.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận
là lý luận Mác - Lê nin với phép biện chứng duy vật khoa học và biện chứng khoa
học lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh và vận dụng những quan điểm cơ bản của Đảng
Cộng sản Việt Nam về việc đề cao vai trò của pháp luật trong xây dựng nhà nước
pháp quyền; đề cao nhân tố con người, đào tạo con người phát triển tồn diện phục
vụ sự nghiệp cơng nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.

- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu
cụ thể: phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh, lịch sử - cụ thể; phương
pháp khảo sát thực tế…

5


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận có liên quan đến hoạt động tổ chức thực
hiện giáo dục pháp luật cho sinh viên, chỉ rõ đặc thù của GDPL cho sinh viên
trường đại học, cao đẳng.
- Luận văn có giá trị tham khảo đối với các cơ quan nhà nước, các
trường đại học, cao đẳng trong chỉ đạo và tổ chức thực hiện GDPL cho cho sinh
viên nói chung, sinh viên trường đại học, cao đẳng nói riêng.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong công tác nghiên cứu,
giảng dạy về GDPL tại các cơ sở đào tạo, nghiên cứu pháp luật.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của đề tài
gồm 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật cho
sinh viên trường đại học, cao đẳng
Chương 2: Thực trạng tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật cho sinh viên
trường đại học, cao đẳng trên địa bàn tỉnh Lào Cai
Chương 3: Quan điểm và giải pháp bảo đảm giáo dục pháp luật cho sinh
viên các trường đại học, cao đẳng trên địa bàn tỉnh Lào Cai.

6


Chƣơng 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN
GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO SINH VIÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG
1.1. Quan niệm về giáo dục pháp luật cho sinh viên trƣờng đại học, cao đẳng
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm sinh viên các trường đại học, cao đẳng
Sinh viên là người học tập tại các trường đại học, cao đẳng, trung cấp. Ở đó họ
được truyền đạt kiến thức bài bản về một ngành nghề, chuẩn bị cho công việc sau này
của họ. Họ được xã hội công nhận qua những bằng cấp đạt được trong quá trình học.
Sinh viên các trường các trường đại học, cao đẳng là một bộ phận thanh niên
của cả nước, là lực lượng thanh niên tương lai hùng hậu trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Sau khi ra trường họ sẽ làm việc trong các cơ
quan, tổ chức, đơn vị trong hầu hết các ngành nghề của xã hội.
Xét dưới góc độ đối tượng để giáo dục pháp luật thì sinh viên các trường đại
học, cao đẳng có các đặc điểm cơ bản sau:
Một là, sinh viên hầu hết có động cơ học tập, rèn luyện đúng đắn và xu
hướng nghề nghiệp rõ ràng, có khả năng nhận thức nhanh.
Để được học tập, rèn luyện tại các trường đại học, cao đẳng, mọi sinh viên phải
trải qua quá trình nỗ lực phấn đấu, được lựa chọn và trải qua thi tuyển nghiêm túc, chặt
chẽ. Những thí sinh có đủ điểm trúng tuyển, được gọi nhập học và được công nhận là
sinh viên đại học, cao đẳng theo mơ hình, mục tiêu đào tạo của từng trường đều nhận
thức đầy đủ giá trị của sự phấn đấu của bản thân, từ đó xây dựng động cơ, thái độ trách
nhiệm học tập, rèn luyện đúng đắn, xác định xu hướng nghề nghiệp rõ ràng.
Hơn nữa, kết quả, chất lượng học tập, rèn luyện của sinh viên ở các trường
đại học, cao đẳng sẽ liên quan trực tiếp đến việc sắp xếp, bố trí sử dụng, cân nhắc đề
bạt đội ngũ đó khi tốt nghiệp ra trường. Do vậy, mỗi sinh viên đều có động lực
mạnh mẽ, trực tiếp thôi thúc họ học để làm việc, trở thành người có ích. Mặt khác,
sinh viên các trường đại học, cao đẳng được sinh ra, lớn lên trong thời kỳ đấ

7



thuận lợi để học tập, lĩnh hội tri thức, tiếp thu những kiến thức pháp luật ở trường
học cũng như qua các kênh thông tin, truyền thông để tiếp cận những vấn đề mới.
Khả năng nhận thức, ý thức tự lập, tự chủ cao hơn các thế hệ trước. Đó là điều kiện
thuận lợi cho việc bồi dưỡng GDPL, nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo của các
trường đại học, cao đẳng.
Hai là, sinh viên các trường đại học, cao đẳng là một nhóm xã hội dân cư có
tính phức hợp rất cao, hàm chứa trong đó nhiều sự đa dạng về độ tuổi, giới tính, tâm
linh và các mơ hình ứng xử và lựa chọn xã hội .... Bởi lẽ nó hàm chứa trong đó
những cá thể ở độ tuổi trưởng thành có nguồn gốc xuất thân từ nhiều vùng miền,
dân tộc, khác nhau, thuộc mọi giai tầng trong xã hội dưới sự tác động của nhiều
định hướng ý thức hệ, tư tưởng, truyền thống, mơ hình ứng xử và với nhiều loại thói
quen, tập tục khác nhau. Vì vậy, trong nghiên cứu về giáo dục pháp luật đối với sinh
viên cần phải đặc biệt lưu ý đến tính phức hợp và tính đa dạng cao của nhóm xã hội
- dân cư này, đồng thời phải luôn luôn đặt nhóm đó trong mối liên hệ với các nhóm
xã hội - dân cư, hoặc những cộng đồng dân cư khác nhau để xem xét, tham chiếu.
Thứ ba, tính trẻ, năng động, ưa thử nghiệm và dễ phạm sai lầm và xung đột
với thế hệ đi trước cũng là đặc điểm chung của sinh viên các trường đại học, cao đẳng
ở mọi thời đại, mọi quốc gia - dân tộc. Cái chung, cái thống nhất căn bản nhất của
“sinh viên” chính là ở tuổi trẻ, ở độ tuổi “thanh niên”. Trong cuộc đời của mỗi con
người thì tuổi sinh viên có ý nghĩa vơ cùng quan trọng. Xét từ góc độ tâm - sinh lý thì
đây là giai đoạn con người chuyển biến từ một đứa trẻ thành một người trưởng thành
với sự hoàn thiện cơ thể về mặt sinh học và những chuyển biến về tâm - sinh lý, tình
cảm rất điển hình của “tuổi dậy thì”. Xét từ góc độ “con người - xã hội” thì tuổi thanh
niên chính là giai đọan mỗi con người chuẩn bị hành trang cho tồn bộ cuộc đời
mình: học vấn, nghề nghiệp, thử nghiệm và lựa chọn văn hóa, kinh nghiệm, lối sống
trên cở sở định hình dần hệ giá trị của riêng mình, trở thành cơng dân thực thụ với
đầy đủ những quyền lợi và nghĩa vụ do luật định. Tuy nhiên, vì họ là thế hệ của
những người trẻ tuổi, là sản phẩm đích thực của thời đại mà họ đang sống chứ không
phải thuần túy chỉ là sản phẩm đào tạo, bồi dưỡng của thế hệ đi trước. Vì vậy họ là


8


lớp người vô cùng năng động, luôn luôn chủ động, tích cực trong việc chuẩn bị hành
trang cho tương lai của bản thân mình và của quốc gia - dân tộc. Bên cạnh những gì
họ bị ảnh hưởng do tiếp nhận những sự trao truyền, giáo dục của thế hệ đi trước thì
họ ln ln có lựa chọn của riêng mình và thế hệ mình. Ngồi ảnh hưởng của thế hệ
“cha chú” trong cộng đồng gia đình hay quốc gia - dân tộc, trong thời đại tồn cầu
hóa, họ cịn chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố văn hóa, tri thức, kinh nghiệm, giá trị và
lựa chọn của các cộng đồng và cá nhân khác trên thế giới.
Xuất phát từ lý do này, sinh viên các trường đại học, cao đẳng thường có xu
hướng thử nghiệm nhiều khả năng, nhiều lựa chọn, ngay cả khi họ còn chưa được
chuẩn bị đủ tốt cho những thử nghiệm đó, vì đối với họ, dù có phạm sai lầm vẫn có
thời cơ làm lại, thử nghiệm lại. Hơn nữa, phần đông sinh viên thường có xu hướng
kiểm chứng lại những lựa chọn, chế định và quan niệm của thế hệ đi trước, thậm chí
cố tình phủ nhận, làm khác, coi đó như một phương thức để khẳng định tư cách
“người lớn” của mình. Đó là nguyên nhân thường dẫn đến những “lệch chuẩn”
trong suy nghĩ, nhận thức và hành động của sinh viên.
Bốn là, sinh viên được học tập, rèn luyện trong môi trường chính quy, mẫu
mực, hoạt động trong hệ thống tổ chức hết sức chặt chẽ. Các trường đại học không chỉ
là nơi đào tạo, bồi dưỡng thanh niên mà còn là những đơn vị mẫu mực, tiêu biểu về
quản lý, rèn luyện kỷ luật, xây dựng nếp sống chính quy. Trong những năm gần đây,
các trường đại học luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm, đầu tư cơ sở vật chất, xây
dựng hệ thống giảng đường hiện đại; đội ngũ cán bộ giảng viên được đào tạo cơ bản,
trình độ mọi mặt được nâng
trường đại học, cao đẳng càng có điều kiện
thuận lợi để bồi dưỡng GDPL, rèn luyện ý thức chấp hành pháp luật cho học viên.
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm giáo dục pháp luật cho sinh viên trường đại
học, cao đẳng
1.1.2.1. Khái niệm

Theo từ điển Tiếng Việt (NXB Đà Nẵng năm 1997) thì “Phổ biến là làm cho
đông đảo mọi người biết đến một vấn đề, một tri thức bằng cách truyền đạt trực tiếp

9


hay thơng qua hình thức nào đó” [35, tr.3] hoặc làm cho mọi người đều biết đến,
còn “Giáo dục là q trình hoạt động có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có tổ
chức nhằm bồi dưỡng cho con người những phẩm chất đạo đức và những tri thức
cần thiết để người ta có khả năng tham gia mọi mặt của đời sống xã hội” [35, tr3].
So với phổ biến thì giáo dục cũng nhằm nâng cao nhận thức, tình cảm song
nội dung rộng hơn, phương thức tiến hành chặt chẽ hơn, đối tượng xác định hơn,
mục đích lớn hơn. Xét dưới góc độ nhất định thì phổ biến chính là các phương thức
giáo dục cụ thể.
Trong các tài liệu khoa học về pháp luật ở nước ta hiện nay, các tác giả đã khá
thống nhất với khái niệm giáo dục pháp luật: Giáo dục pháp luật là hoạt động có định
hướng, có tổ chức, có chủ định của chủ thể giáo dục tác động lên đối tượng giáo dục
một cách có hệ thống và thường xuyên, nhằm mục đích hình thành ở họ tri thức pháp
luật, tình cảm pháp lý và hành vi phù hợp với các đòi hỏi của pháp luật hiện hành.
Theo cách hiểu chung nhất về giáo dục pháp luật có hai nghĩa:
- Theo nghĩa hẹp: Giáo dục pháp luật là việc truyền bá pháp luật cho đối tượng
nhằm nâng cao tri thức, tình cảm, niềm tin pháp luật cho đối tượng từ đó nâng cao ý
thức tôn trọng pháp luật, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của đối tượng.
- Theo nghĩa rộng: Giáo dục pháp luật là một khâu của hoạt động tổ chức
thực hiện pháp luật, là hoạt động định hướng có tổ chức, có chủ định thơng qua các
hình thức giáo dục, thuyết phục, nêu gương... nhằm mục đích hình thành ở đối
tượng tri thức pháp lý, tình cảm và hành vi xử sự phù hợp với các đòi hỏi của hệ
thống pháp luật hiện hành với các hình thức, phương tiện, phương pháp đặc thù.
Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, tác giả đồng ý với khái niệm chung
nhất: “


”.

10


Từ phân tích trên có thể hiểu giáo dục pháp luật cho sinh viên trường đại
học, cao đẳng là hoạt động có định hướng, có tổ chức, có chủ định của chủ thể
GDPL, tác động một cách có hệ thống và thường xuyên, tinh thần, nội dung pháp
luật nhằm mục đích giúp cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng hiểu và hình
thành ở họ tri thức pháp luật, tình cảm pháp lý và hành vi phù hợp với các đòi hỏi
của các quy định pháp luật hiện hành.
GDPL với ý nghĩa là một dạng giáo dục đặc thù, có vị trí độc lập tương đối,
được hiểu là hoạt động cung cấp tri thức pháp luật, bồi dưỡng tình cảm, thái độ đúng
đắn với pháp luật một cách có định hướng, có tình cảm, có chủ định lên mỗi thành
viên của xã hội, nhằm hình thành một cách bền vững ý thức pháp luật luật và những
thói quen tích cực trong mọi hành vi xử thế của công dân trong đời sống xã hội.
1.1.2.2. Đặc điểm
Một là, giáo dục pháp luật cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng trước
hết là một bộ phận của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng.
Hoạt động giáo dục pháp luật cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng là
một bộ phận của cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng, là trách nhiệm của tồn bộ hệ
thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự điều phối, tổ
chức thực hiện của các cơ quan nhà nước và các tổ chức, đồn thể. Chính vì thế,
việc giáo dục pháp luật đối với sinh viên các trường đại học, cao đẳng ln có vị trí
và vai trị vơ cùng quan trọng trong q trình xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa
hiện nay, là khâu then chốt, quan trọng để chủ trương, chính sách của Đảng, pháp
luật của nhà nước thực sự đi vào cuộc sống xã hội, đi vào ý thức, hành động của
từng cá nhân sinh viên trong xã hội. Hoạt động giáo dục chính trị, tư tưởng phải


11


luôn thấm nhuần quan điểm chủ nghĩa Mac - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong
nhận thức và hành động của mỗi người dân nói chung và thế hệ thanh niên và sinh
viên các trường đại học, cao đẳng nói riêng. Và các quy định pháp luật chính là sự
cụ thể hóa quan điểm chủ nghĩa Mac - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như
đường lối chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam mỗi thời kỳ. Chính vì thế, khi
giáo dục pháp luật đối với sinh viên các trường đại học, cao đẳng cũng chính là một
hoạt động giáo dục chính trị, tư tưởng. Chỉ thị số 32 - CT/TW ngày 09/12/2003 của
Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác
giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân (Chỉ
thị số 32 - CT/TW) đã khẳng định: “Phổ biến, giáo dục pháp luật là một bộ phận
của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, là nhiệm vụ của tồn bộ hệ thống chính trị
đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng”.
Thứ hai, giáo dục pháp luật đối với sinh viên các trường đại học, cao đẳng có
mối liên hệ chặt chẽ với công tác xây dựng, thực hiện pháp luật.
Nếu không nhận thức đầy đủ vị trí quan trọng và khơng thực hiện tốt cơng
tác giáo dục pháp luật thì dù cơng tác xây dựng pháp luật có làm tốt đến mấy cũng
không đạt được hiệu quả thực thi pháp luật. Giáo dục pháp luật là cầu nối để chuyển
tải pháp luật vào cuộc sống. Nói cách khác, q trình đưa pháp luật vào cuộc sống
được bắt đầu bằng hoạt động tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật. Thực hiện pháp
luật dù bằng hình thức nào - tuân thủ, thi hành (chấp hành) pháp luật, sử dụng (vận
dụng) pháp luật hay áp dụng pháp luật.
Pháp luật của Nhà nước không phải khi nào cũng được mọi người trong xã
hội biết đến, tìm hiểu, đồng tình ủng hộ và thực hiện nghiêm chỉnh. Tuy rằng, bản
chất pháp luật của Nhà nước ta là tốt đẹp, nó phản ánh ý chí, nguyện vọng, mong
muốn của đông đảo quần chúng nhân dân trong xã hội. Tuy nhiên, dù những quy
định pháp luật có tốt đẹp nhưng khơng được nhân dân biết đến thì vẫn khơng đi vào
cuộc sống. Chính vì vậy giáo dục pháp luật chính là phương tiện truyền tải những

thơng tin, những yêu cầu, nội dung và các quy định pháp luật đến với thanh niên nói
chung sinh viên các trường đại học, cao đẳng nói riêng, giúp cho sinh viên các

12


trường hiểu biết, nắm bắt pháp luật kịp thời mà không mất quá nhiều thời gian, công
sức cho việc tự tìm hiểu, tự học tập. Đó chính là phương tiện hỗ trợ tích cực để nâng
cao hiểu biết pháp luật cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng. Từ đó giúp cho
sinh viên các trường đại học, cao đẳng có những nhận thức đúng đắn để tránh vi
phạm pháp luật. Đặc biệt, với sinh viên các trường đại học, cao đẳng - lứa tuổi cịn
chưa có sự nhận thức chín chắn, hành động đơi khi cịn theo cảm tính, nơng nổi có
thể dễ lơi kéo vào con đường phạm pháp.
Ba là, quá trình giáo dục được tiến hành trong một trật tự nghiêm túc, đây là
điều kiện tiên quyết trong giáo dục của nhà trường, có tác động mạnh mẽ đến việc hình
thành ở sinh viên ý thức kỷ luật, tính tổ chức và tinh thần đồn kết cao. Đó là những
yếu tố rất gần gũi với mục tiêu GDPL, tạo ra những khả năng lớn cho việc vận dụng,
áp dụng những hình thức giáo dục mang tính tổng hợp, có hiệu quả giáo dục cao.
Bốn là, giáo dục pháp luật đối với sinh viên các trường đại học, cao đẳng địi
hỏi phải sự dụng các phương pháp, hình thức giáo dục pháp luật phù hợp với trình độ,
sự phát triển của khoa học công nghệ, đặc điểm về nhận thức, lối sống, văn hóa của
sinh viên các trường đại học, cao đẳng. Bởi lẽ, về nguyên tắc, chủ thể giáo dục pháp
luật phải căn cứ vào mục đích, nội dung chương trình và đặc biệt là đặc điểm đối
tượng tiếp nhận để lựa chọn và sử dụng phương pháp, hình thức giáo dục pháp luật
sao cho phù hợp. Điều đó cũng có nghĩa là “trang bị cái mà đối tượng của giáo dục
cần chứ không phải là trang bị cái mà nhà giáo dục pháp luật có”. Với đối tượng giáo
dục pháp luật là sinh viên các trường đại học, cao đẳng - là những người chủ tương
lai của đất nước, những người sống trong môi trường quy củ, năng động, sáng tạo dễ
dàng tiếp thu sự tiến bộ của khoa học cơng nghệ, có lối sống tác phong cơng nghiệp
vì vậy, cần đặc biệt quan tâm giáo dục, rèn luyện họ trở thành những con người phát

triển tồn diện, có kiến thức pháp luật và trách nhiệm công dân cao. Bên cạnh những
phương pháp giáo dục pháp luật truyền thống cần tăng cường áp dụng các phương
pháp hiện đại, có sử dụng cơng nghệ để tác động nhanh vào nhận thức của sinh viên
các trường đại học, cao đẳng. Sinh viên các trường đại học, cao đẳng đa số là những
người có khả năng tiếp thu nhanh các văn bản pháp luật vì vậy chủ thể giáo dục pháp
luật cần có nhiều hình thức để phù hợp với từng loại đối tượng.

13


Năm là, nội dung giáo dục pháp luật trong các trường đại học, cao đẳng là
truyền đạt những kiến thức pháp luật và các quy định của hệ thống pháp luật hiện
hành, đặc biệt là những kiến thức pháp luật về lĩnh vực quốc phịng, an ninh, bồi
dưỡng tình cảm và hành vi hợp pháp cho sinh viên.
1.1.3. Mục đích của giáo dục pháp luật cho sinh viên trường đại học, cao đẳng
Việc xác định mục đích cụ thể của giáo dục pháp luật nói chung và giáo dục
pháp luật đối với sinh viên nói riêng phải đảm bảo phản ánh được các nhu cầu cụ
thể của xã hội, phù hợp các điều kiện khách quan, chủ quan trong từng thời kỳ để
cho mục đích đó có thể trở thành hiện thực. Đồng thời, bản thân mục đích này
khơng thể là sự xác định chủ quan “duy ý chí” mà phải phản ánh được trong nó hiện
thực tiến hành cơng tác giáo dục pháp luật, phải có quan hệ trực tiếp với cơng tác
này. Từ đó, việc xác định đúng đắn mục đích phổ biến, giáo dục pháp luật đối với
sinh viên sẽ giúp ích cho việc xác định nội dung, hình thức, biện pháp tổ chức thực
hiện giáo dục pháp luật, nâng cao hiệu quả của hoạt động giáo dục pháp luật nói
chung và giáo dục pháp luật đối với sinh viên các trường đại học, cao đẳng nói
riêng. Vì vậy, căn cứ vào các địi hỏi khi xác định mục đích giáo dục pháp luật,
nhiều nhà nghiên cứu thống nhất các mục đích cơ bản sau đây:
Thứ nhất, hình thành và từng bước mở rộng hệ thống tri thức pháp luật cho
sinh viên các trường đại học, cao đẳng.
Thông qua việc tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật, sinh viên được trang bị

những tri thức cơ bản về pháp luật như giá trị của pháp luật, vai trò điều chỉnh của
pháp luật, các chuẩn mực pháp luật trong từng lĩnh vực đời sống. Hình thành tri
thức pháp luật là nền móng cơ bản để xây dựng tình cảm pháp luật, là nền tảng giúp
sinh viên biết cách hành động phù hợp với các chuẩn mực đặt ra.
Trên cơ sở kiến thức pháp luật được trang bị, từng bước mở rộng và làm sâu
sắc tri thức pháp luật, giúp thanh niên am hiểu hơn về pháp luật và biết cách đánh giá
một cách đúng đắn các hành vi pháp lý. Tri thức pháp luật góp phần định hướng cho
lòng tin đúng đắn vào các giá trị của pháp luật, tạo cơ sở hình thành hành vi hợp pháp
ở mỗi cá nhân. Tri thức pháp luật giúp sinh viên điều khiển, kiềm chế hành vi của
mình trên cơ sở các chuẩn mực pháp lý, tri thức pháp luật đã nhận thức được.

14


Thứ hai, hình thành, bồi dưỡng, phát triển niềm tin pháp luật cho sinh viên
các trường đại học, cao đẳng.
Niềm tin vào pháp luật đóng vai trị quan trọng trong việc định hướng hành
vi. Lòng tin vững chắc vào pháp luật là cơ sở để hình thành động cơ của hành vi
hợp pháp. Trong cuộc sống, có nhiều trường hợp những người có kiến thức pháp
luật nhưng khơng có lịng tin vào pháp luật, sẵn sàng chà đạp lên pháp luật, lợi dụng
kẽ hở của pháp luật để trục lợi. Vì vậy, khi thanh niên tin vào tính cơng bằng của
những địi hỏi của quy phạm pháp luật thì khơng cần một sự tác động bổ sung nào
của Nhà nước để thực hiện những địi hỏi đó. Có lịng tin vào tính cơng bằng của
pháp luật, con người sẽ có hành vi phù hợp với các đòi hỏi của pháp luật một cách
độc lập, tự nguyện.
Thứ ba, giáo dục ý thức nhân cách, rèn luyện thói quen, hành vi tuân thủ
pháp luật cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng.
Tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật là nhằm hình thành ý thức pháp luật
cho sinh viên. Kết quả cuối cùng của giáo dục pháp luật phải được thể hiện ở hành
vi xử sự phù hợp pháp luật của mỗi sinh viên. Giáo dục tri thức pháp luật, bồi

dưỡng niềm tin pháp luật là tiền đề để giáo dục ý thức nhân cách rèn luyện thói
quen, hành vi tuân thủ pháp luật hình thành động cơ và hành vi tích cực pháp luật.
Tóm lại, giữa các mục đích có quan hệ qua lại thống nhất chặt chẽ, từ ý thức
pháp luật đến tính tự giác, từ tính tự giác tới tính tích cực, từ tính tích cực đến thói
quen xử sự theo pháp luật và từ thói quen hành động, sử dụng pháp luật lại xuất
hiện nhu cầu lĩnh hội tri thức pháp luật. Nếu giáo dục pháp luật được tiến hành thỏa
mãn cả ba mục đích này thì từ chỗ là yếu tố tác động từ bên ngoài đối với đối
tượng, nó sẽ trở thành nội tâm của chính đối tượng. Đây là một địi hỏi rất quan
trọng mà cơng tác giáo dục pháp luật nói chung và giáo dục pháp luật cho sinh viên
nói riêng phải đáp ứng.
1.1.4. Vai trò của giáo dục pháp luật cho sinh viên trường đại học, cao đẳng
Tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật cho sinh viên các trường đại học, cao
đẳng có vị trí, vai trị quan trọng, cụ thể như sau:

15


Một là, GDPL trang bị cho sinh viên hệ thống tri thức về pháp luật đồng thời
bồi dưỡng tình cảm và thói quen tuân thủ pháp luật ở sinh viên. GDPL giúp sinh
viên nâng cao hiểu biết về pháp luật, hình thành thói quen sống và làm việc theo
Hiến pháp và pháp luật, biết cách xử sự hợp pháp, chủ động phòng ngừa, ngăn chặn
các hiện tượng vi phạm pháp luật, điều lệnh, quy định, quy chế, đặc biệt là quy chế
huấn luyện, lễ tiết, tác phong…đồng thời giúp sinh viên tự ý thức về mình một cách
đúng đắn. Họ có thể tự kiểm tra, tự nhận thức, xét đốn về những suy nghĩ, hành vi,
ứng xử pháp luật của mình đối với xã hội và tập thể.
GDPL trực tiếp góp phần xây dựng động cơ, hành vi đúng đắn cho sinh viên
trong quá trình học tập, rèn luyện tại nhà trường. Nhờ đó, người học hiểu r

sinh viên định hướng được những giá trị, chuẩn mực của người chủ tương lai.
Trên cơ sở những kiến thức pháp luật được trang bị, giúp cho sinh viên quán

triệt, nhận thức đúng về mục tiêu, yêu cầu đào tạo, hình thành nhu cầu động cơ học
tập đúng đắn, ln tích cực học tập, rèn luyện, có ý chí quyết tâm, tích cực chủ động
nghiên cứu sáng tạo ra nhiều phương pháp học tập. Khơng thể có sinh viên học giỏi,
rèn nghiêm khi ở họ ý thức tự giác chấp hành pháp luật, quy chế, quy định yếu kém.
Thực tiễn cho thấy, nếu sinh viên không được giáo dục nâng cao ý thức pháp
luật thì trước tác động của hồn cảnh, họ sẽ dễ bị thụ động, thiếu trách nhiệm trong
thực hiện nhiệm vụ, thậm chí là có những hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm kỷ
luật nhà trưởng.
Hai là, GDPL cho sinh viên góp phần quan trọng xây dựng nếp sống chính
quy, mơi trường văn hóa lành mạnh và xây dựng đơn vị vững mạnh tồn diện, nhà
trường chính quy, tiên tiến, mẫu mực.
Pháp luật là phương tiện để quản lý xã hội. GDPL cho sinh viên ở các trường
đại học, cao đẳng sẽ tác động trực tiếp tới xây dựng lớp học, xây dựng nhà trường
chính quy, mẫu mực. Trong các trường đại học, cao đẳng, GDPL tốt sẽ là cơ sở để
sinh viên thực hiện nghiêm pháp luật, kỷ luật, xây dựng đoàn kết ở đơn vị, thực hiện

16


nghiêm kỷ cương phép nước, đấu tranh phòng ngừa và loại bỏ những tiêu cực, lạc
hậu ra khỏi đời sống đơn vị.
Ba là, GDPL góp phần nâng cao ý thức pháp luật của sinh viên. Ý thức pháp
luật được hình thành từ hai yếu tố đó là tri thức pháp luật và tình cảm pháp luật. Tri
thức pháp luật là sự hiểu biết pháp luật của các chủ thể có được qua việc học tập,
tìm hiểu pháp luật, qua quá trình tích luỹ kiến thức của hoạt động thực tiễn và cơng
tác. Tình cảm pháp luật chính là trạng thái tâm lý của các chủ thể khi thực hiện và
áp dụng pháp luật, họ có thể đồng tình ủng hộ với những hành vi thực hiện đúng
pháp luật, lên án các hành vi vi phạm pháp luật.
Ý thức tự giác chấp hành pháp luật của sinh viên chỉ có thể được nâng cao khi
hoạt động tổ chức giáo dục pháp luật được tiến hành thường xun, kịp thời và có

tính thuyết phục. Tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật không đơn thuần là phổ biến
các văn bản pháp luật đang có hiệu lực mà cịn lên án các hành vi vi phạm pháp luật,
đồng tình ủng hộ các hành vi thực hiện đúng pháp luật, hình thành dư luận và tâm lý
đồng tình ủng hộ với hành vi hợp pháp, lên án các hành vi vi phạm pháp luật.
Tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật nhằm hình thành, củng cố tình cảm tốt
đẹp của sinh viên với pháp luật, đồng thời ngày càng nâng cao sự hiểu biết đối với
các văn bản pháp luật và các hiện tượng pháp luật trong đời sống, từ đó nâng cao ý
thức tự giác chấp hành pháp luật của sinh viên.
Bốn là, GDPL cho sinh viên góp phần trực tiếp ngăn ngừa, khắc phục sự suy
thoái tư tưởng, đạo đức, lối sống, chống văn hóa xấu độc, vi phạm pháp luật, hồn
thiện nhân cách người sinh viên.
Sự phát triển của nền kinh tế thị trường và sự giao lưu hội nhập kinh tế quốc
tế đã tạo nhiều thời cơ để phát triển đất nước, song mặt trái của nó tác động khơng
nhỏ đến đời sống xã hội nói chung và đời sống của sinh viên trong các trường đại
học, cao đẳng nói riêng. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đang tiến hành
chiến lược “diễn biến hịa bình” để chống phá cách mạng nước ta.Vì vậy, GDPL
cho sinh viên trong các trường đại học, cao đẳng càng có vai trị quan trọng hơn bao
giờ hết. Trình độ kiến thức pháp luật của sinh viên càng được nâng cao thì bản lĩnh

17


chính trị của họ ln giữ vững, kiên quyết chống lại những tiêu cực của xã hội tác
động vào Việt Nam.
1.1.5. Nội dung giáo dục pháp luật cho sinh viên trường đại học, cao đẳng
Nội dung giáo dục pháp luật cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng là
yếu tố quan trọng của quá trình giáo dục pháp luật. Xác định đúng nội dung, giáo
dục pháp luật là đảm bảo cần thiết để giáo dục pháp luật có hiệu quả. Đó là tồn bộ
những gì mà chủ thể giáo dục pháp luật cần truyền đạt, chuyển tải cho sinh viên các
trường đại học, cao đẳng, giúp họ có những kiến thức, hiểu biết nhất định về pháp

luật; trên cơ sở đó, hình thành, phát triển ý thức pháp luật, niềm tin đối với pháp
luật và lối sống theo pháp luật cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng.
Theo Điều 10 của Luật phổ biến, giáo dục pháp luật thì việc tổ chức thực
hiện giáo dục pháp luật tập trung vào các nội dung sau:
- Quy định của Hiến pháp và văn bản quy phạm pháp luật, trọng tâm là các
quy định của pháp luật về dân sự, hình sự, hành chính, hơn nhân và gia đình, bình
đẳng giới, đất đai, xây dựng, bảo vệ môi trường, lao động, giáo dục, y tế, quốc
phịng, an ninh, giao thơng, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, quyền hạn và
trách nhiệm của cơ quan Nhà nước, cán bộ, công chức, các văn bản quy phạm pháp
luật mới được ban hành.
- Các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
thành viên, các thỏa thuận quốc tế.
- Ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật; ý thức bảo vệ pháp luật; lợi ích
của việc chấp hành pháp luật; gương người tốt, việc tốt trong thực hiện pháp luật.
- Những kiến thức cơ bản về nhà nước và pháp luật, tổ chức bộ máy nhà
nước, thực thi pháp luật, cơ chế bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân;
- Các quy định, trình tự, thủ tục liên quan trực tiếp đến nhiệm vụ, quyền hạn,
trách nhiệm của chính quyền cơ sở;
- Các trình tự, thủ tục pháp lý để bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp và thực
hiện các nghĩa vụ của cơng dân, đặc biệt là các trình tự, thủ tục liên quan đến giải
quyết khiếu nại, tố cáo; quy chế tiếp công dân; quy chế dân chủ cơ sở;

18


- Cập nhật những thông tin pháp luật mới ban hành, đặc biệt là những thông
tin pháp luật liên quan trực tiếp và mật thiết đến hoạt động của chính quyền cấp cơ
sở, các văn bản quy phạm pháp luật của địa phương.
- Cập nhật những thông tin pháp luật; Những quan điểm, đường lối, chính
sách của Đảng, Nhà nước về pháp luật ở địa phương.

Cần phải lưu ý rằng, giáo dục pháp luật đối với sinh viên các trường đại học,
cao đẳng khơng có nghĩa là u cầu hay bắt buộc họ học thuộc các điều luật, mà là
giúp họ hiểu được nội dung, tinh thần của các quy phạm pháp luật, nhận thức đầy
đủ về vai trò, sự cần thiết của pháp luật trong đời sống xã hội, hiểu được lý lẽ sâu xa
của pháp luật thực định. Trên cơ sở đó, sinh viên các trường đại học, cao đẳng biết
cách vận dụng linh hoạt, chủ động và sáng tạo các quy phạm pháp luật vào quá trình
xử lý công việc.
1.2. Quan niệm về tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật cho sinh viên
trƣờng đại học, cao đẳng
1.2.1. Khái niệm tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật cho sinh viên
trường đại học, cao đẳng
Hiện nay, trong các nghiên cứu của các nhà khoa học, khái niệm tổ chức
được hiểu theo hai nghĩa cơ bản như sau:
- Tổ chức là một hệ thống: Tổ chức là một cơ cấu liên kết những cá nhân
trong một hệ thống nhằm thực hiện những mục tiêu của hệ thống dựa trên những
nguyên tắc và quy tắc nhất định
- Tổ chức là một hoạt động quản lý: Theo đó, tổ chức là một trong những
chức năng quan trọng của quản lý. Tổ chức là một quá trình sắp xếp, tác động và
điều khiển các nhiệm vụ và nguồn lực để đạt được mục tiêu đã vạch ra.
Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn tổ chức được dùng với tư cách là
một hoạt động quản lý.
Đối với các trường đại học, cao đẳng ở Việt Nam, công tác tổ chức thực hiện
GDPL được coi là một bộ phận của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nhằm xây dựng
thái độ, động cơ, bản lĩnh chính trị, ý thức pháp luật cho mỗi sinh viên. Thông qua hoạt

19


×