Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Tổ chức thực hiện pháp luật về du lịch ở thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 102 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NỘI VỤ
------------/---------------/---HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN TRỌNG HỒNG

TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ DU LỊCH Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP – LUẬT HÀNH CHÍNH
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp - Luật Hành chính
Mã số: 60 38 01 02

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS LÊ THỊ HƢƠNG

HÀ NỘI - NĂM 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ chuyên ngành Luật Hiến pháp và
Luật Hành chính với đề tài “Tổ chức thực hiện pháp luật về du lịch ở thành
phố Hà Nội” là cơng trình nghiên cứu của cá nhân tôi, không sao chép của bất
cứ ai. Tôi xin chịu mọi trách nhiệm về cơng trình nghiên cứu của riêng mình.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Trọng Hồng


LỜI CẢM ƠN
Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính với


đề tài “Tổ chức thực hiện pháp luật về du lịch ở thành phố Hà Nội” là kết quả
của q trình cố gắng khơng ngừng của bản thân tơi cùng với sự giúp đỡ tận
tình của các thầy cơ giáo, sự động viên khích lệ của gia đình, sự sẻ chia của
bạn bè đồng nghiệp. Qua những trang luận văn này tôi xin được bày tỏ lòng
tri ân và biết ơn sâu sắc đến những người đã giúp đỡ tơi trong q trình học
tập và nghiên cứu khoa học vừa qua.
Lời đầu tiên, tôi xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc đến PGS.TS Lê Thị
Hương – người đã trực tiếp tận tình hướng dẫn tơi trong q trình làm luận
văn khoa học này.
Tơi cũng xin chân thành cảm ơn lãnh đạo Học viện Hành chính quốc
gia, các thầy cơ giáo Khoa Luật – Học viện Hành chính quốc gia đã tạo điều
kiện cho tơi hồn thành tốt cơng việc nghiên cứu khoa học của mình.
Mặc dù đã cố gắng đầu tư tối đa trí lực và thời gian của bản thân dành
cho việc nghiên cứu khoa học để hoàn thành luận văn, tuy nhiên vẫn khơng
tránh khỏi những thiếu sót. Tơi rất mong sẽ nhận được những ý kiến đóng góp
q báu, chân tình của các thầy cô và các bạn.
Trân trọng cảm ơn!
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Trọng Hoàng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1

Tính cấp thiết của đề tài

1


2

Tình hình nghiên cứu đề tài

4

3

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn

6

4

Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của luận văn

6

5

Phương pháp luận và Phương pháp nghiên cứu của luận văn

7

6

Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

8


7

Kết cấu của luận văn

9

Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT VỀ DU LỊCH
1.1. Khái quát chung về Du lịch và tổ chức thực hiện pháp luật về du lịch 10
1.2. Khái niệm, đặc điểm, vai trò và nội dung tổ chức thực hiện pháp

17

luật về du lịch
1.3. Những yếu tố bảo đảm tổ chức thực hiện pháp luật về du lịch

31

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
DU LỊCH Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức thực hiện pháp luật về du lịch ở

40

thành phố Hà Nội
2.2. Tình hình tổ chức thực hiện pháp luật về du lịch ở thành phố Hà Nội 53
2.3. Đánh giá tổ chức thực hiện pháp luật về du lịch ở thành phố Hà Nội

64



Chƣơng 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO TỔ CHỨC THỰC
HIỆN PHÁP LUẬT VỀ DU LỊCH Ở HÀ NỘI
3.1. Quan điểm bảo đảm tổ chức thực hiện pháp luật về du lịch

72

3.2. Một số giải pháp đảm bảo tổ chức thực hiện pháp luật về du lịch ở 76
thành phố Hà Nội
KẾT LUẬN

92

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

94


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

CNXH:

Chủ nghĩa xã hội

XHCN:

Xã hội chủ nghĩa

UBND:


Ủy ban nhân dân

HĐND:

Hội đồng nhân dân

HDV:

Hướng dẫn viên

CSLT

Cơ sở lưu trú

ĐKKD

Đăng ký kinh doanh

BCĐ

Ban chỉ đạo


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với những thành tựu đạt được trên các lĩnh vực kinh tế xã hội,
chính trị văn hóa, khoa học kỹ thuật, ngày nay, con người ngày càng có nhiều
thời gian rảnh rỗi và những nhu cầu phát sinh trong sự phát triển của đời sống
thường nhật, trong đó có nhu cầu đi du lịch. Hiện nay, du lịch đã trở thành
một nhu cầu không thể thiếu trong đời sống, đã trở nên phổ biến ở các quốc

gia và trở thành một thói quen trong nếp sống sinh hoạt của xã hội hiện đại.
Du lịch là động lực phát triển của nhiều quốc gia, đóng góp khơng nhỏ vào
tổng thu nhập quốc dân GDP.
Ở Việt Nam, ngành du lịch đã ra đời từ những năm 1960, đánh dấu mốc
quan trọng thể hiện sự quan tâm cũng như nhận thức đúng đắn của Đảng và
Nhà nước đối với một ngành kinh tế mới mẻ và đầy triển vọng phát triển. Qua
hơn 50 năm hình thành và phát triển, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới và hội
nhập, du lịch Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc, nhanh chóng
thu hẹp khoảng cách về phát triển du lịch với các quốc gia trong khu vực, trở
thành ngành kinh tế mũi nhọn trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của
đất nước.
Với những lợi thế đặc biệt về vị trí địa lý kinh tế và chính trị, Việt Nam
có rất nhiều thuận lợi để phát triển du lịch. Nằm ở trung tâm Đông Nam Á,
lãnh thổ Việt Nam vừa gắn liền với lục địa vừa thơng ra đại dương, có vị trí
giao lưu quốc tế thuận lợi cả về đường biển, đường sông, đường sắt, đường bộ
và hàng không. Đây là tiền đề rất quan trọng trong việc mở rộng và phát triển
du lịch quốc tế.

1


Việt Nam là đất nước có tiềm năng lớn về du lịch. Ngồi những danh
thắng đã được UNESCO cơng nhận là di sản văn hoá thế giới như: Vịnh Hạ
Long, Cố đô Huế, Phố cổ Hội An, Thánh địa Mỹ Sơn, Vườn quốc gia Phong
Nha- Kẻ Bảng... Việt Nam còn thu hút khách du lịch nước ngoài với hàng loạt
địa điểm du lịch sinh thái kéo dài khắp ba miền Tổ quốc. Tài nguyên du lịch
tự nhiên và nhân văn của Việt Nam cũng rất phong phú và đa dạng. Các đặc
điểm đa dạng về cấu trúc địa hình biển và hải đảo, đồng bằng, đồi núi, cao
nguyên đã làm cho lãnh thổ Việt Nam đa dạng, phong phú về cảnh quan và
các hệ sinh thái có giá trị cao cho phát triển du lịch, đặc biệt là hệ sinh thái

biển, hệ sinh thái sông hồ, hệ sinh thái rừng, hang động. Thêm vào đó, với
lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, tài nguyên du lịch nhân văn
của Việt Nam cũng rất phong phú. Trong số khoảng 40.000 di tích lịch sử trên
khắp miền đất nước, có hơn 2.500 di tích đã được Nhà nước cơng nhận và xếp
hạng. Ngồi những lợi thế trên, Việt Nam cịn là nước có chế độ chính trị ổn
định, có nguồn nhân lực dồi dào. Chính sách đổi mới, mở cửa và hội nhập của
Nhà nước cũng tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế đối ngoại trong đó có du
lịch phát triển.
Ngày 30/12/2011, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
2473/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược “Phát triển du lịch Việt Nam đến năm
2020 tầm nhìn 2030”. Mục tiêu tổng quát của chiến lược là đến năm 2020 du
lịch Việt Nam cơ bản trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, có tính chun
nghiệp, có hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật tương đối đồng bộ, hiện đại; sản
phẩm du lịch có chất lượng cao, đa dạng, có thương hiệu, mang đậm bản sắc
văn hóa dân tộc, cạnh tranh được với các nước trong khu vực. Phấn đấu đến
năm 2030, Việt Nam trở thành quốc gia có ngành du lịch phát triển.

2


Để đáp ứng được nhu cầu phát triển của ngành du lịch, việc tăng cường
hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý Nhà nước về du lịch, đảm bảo quyền
và nghĩa vụ của mọi người dân cũng như những người làm du lịch trở thành
một nhiệm vụ cấp thiết. Do đó, Luật Du lịch đã chính thức được Quốc hội
thông qua ngày 14/6/2005 là cơ sở pháp lý cao nhất thể chế hóa quan điểm,
định hướng của Đảng và Nhà nước về quản lý hoạt động du lịch. Có thể thấy,
sau 10 năm triển khai thực hiện, Luật Du lịch đã đi vào đời sống, cơ bản đã
đáp ứng tốt các yêu cầu của thực tiễn.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, trong quá trình tổ chức
thực hiện phát luật về du lịch vẫn còn một số khó khăn, hạn chế vướng mắc

nảy sinh do một số quy định đã khơng cịn phù hợp với thực tiễn phát triển
trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng như hiện nay. Do vậy
pháp luật về du lịch cần phải được nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp
với yêu cầu thực tiễn.
Thủ đô Hà Nội là trung tâm văn hố, kinh tế, chính trị của cả nước,
nhận được sự quan tâm đặc biệt về mọi mặt trong đó du lịch là lĩnh vực
được ưu tiên phát triển. Cũng như các địa phương khác trong cả nước, pháp
luật về du lịch được triển khai sâu rộng vào mọi mặt trong hoạt động du
lịch của Thủ đô. Đáp ứng nhu cầu đổi mới cả về lượng và chất, hiện nay,
một trong những việc cần làm là phải có những cơng trình nghiên cứu tìm
hiểu về việc tổ chức thực hiện pháp luật về du lịch tại Hà Nội để có những
nhận xét, đánh giá chính xác, khách quan về q trình triển khai thực hiện
từ đó bước đầu đưa ra những đề xuất, kiến nghị, giải pháp góp phần đảm
bảo và nâng cao hiệu quả việc tổ chức thực hiện pháp luật về du lịch tại Hà
Nội nói riêng và cả nước nói chung.

3


Tuy nhiên hiện nay vẫn chưa có cơng trình nào nghiên cứu đầy đủ về
vấn đề này. Xuất phát từ thực tế đó, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Tổ chức thực
hiện pháp luật về du lịch ở thành phố Hà Nội” làm đề tài luận văn thạc sỹ
với mong muốn đề tài hồn thành sẽ góp phần hồn thiện pháp luật về du lịch
và sự phát triển của du lịch Thủ đơ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm gần đây, việc tổ chức thực hiện về du lịch đã được các
cấp quản lý từ Trung ương đến địa phương quan tâm, qua nghiên cứu, tìm
hiểu đã có nhiều cơng trình nghiên cứu, đề án viết về đề tài tổ chức thực hiện
pháp luật các lĩnh vực khác và một số và bài báo, đề án viết về chuyên đề du
lịch, cụ thể như sau:

Về đề tài du lịch, có một số bài báo, đề án sau:
- Bài báo “Ngành Du lịch Bắc Giang sau 10 năm thực hiện Luật Du
lịch” của tác giả Bùi Tuấn Anh – Giám đốc Trung tâm Xúc tiến Sở Văn hóa,
Thể thao và Du lịch Bắc Giang đăng trên báo Du lịch. Bài báo đã khái quát
được hiệu quả công tác thực hiện Luật Du lịch, phân tích những ưu điểm,
nhược điểm trong quá trình triển khai thực hiện, bước đầu đề xuất các giải
pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác tổ chức thực hiện pháp luật về du
lịch tại Tỉnh Bắc Giang [01, tr.01].
- Đề án “Phát triển ngành kinh tế biển thành phố Đà Nẵng đến năm
2025, tầm nhìn đến năm 2030” của UBND thành phố Đà Nẵng. Đề án đã đề
ra các quan điểm, xây dựng thành phố Đà Nẵng trở thành một trung tâm kinh
tế biển có tốc độ phát triển cao đi đơi với bảo vệ mơi trường và phát triển bền
vững, ưu tiên thích đáng để tập trung thu hút mọi nguồn lực đầu tư phát triển

4


kinh tế biển và bảo vệ môi trường biển, tạo chuyển biến mạnh trên các lĩnh
vực kinh tế theo hướng cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa [27, tr.01].
- Bài báo “Thành phố Hồ Chí Minh đẩy mạnh phát triển du lịch tới
từng quận, huyện” của tác giả Gia Thuận trên Thơng tấn xã Việt Nam. Theo
đó, để phát triển các sản phẩm du lịch của từng địa phương hiệu quả, hàng
tháng, UBND Thành phố sẽ tổ chức giao ban quản lý nhà nước về du lịch
theo từng chuyên đề để phân tích, đánh giá q trình xây dựng, phát triển du
lịch. Tập trung phối hợp, gắn kết các cấp, sở, ngành, doanh nghiệp hoạt động
du lịch để đề xuất ý kiến, giải pháp phát triển du lịch cụ thể [12, tr.01].
Về đề tài tổ chức thực hiện pháp luật, có những cơng trình, bài viết cụ
thể như sau:
- Bài viết “Tổ chức thi hành pháp luật từ yêu cầu của thực tiễn đến việc
hoàn thiện quy định về tổ chức thi hành pháp luật trong luật ban hành văn bản

quy phạm pháp luật” của TS.Nguyễn Ngọc Vũ – Bộ Tư pháp thuộc dự án
Phát triển lập pháp quốc gia [30, tr.01].
- Luận án “Tổ chức thực hiện pháp luật về bình đẳng giới ở Việt Nam”
của tác giả Trần Thị Quốc Khánh – Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia
Hồ Chí Minh (2014) [12, tr. 65-69]
- Luận án “Tổ chức thực hiện pháp luật bảo vệ quyền lợi của người tiêu
dùng ở Việt Nam” của tác giả Lê Thanh Bình - Học viện Chính trị - Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh (2012) [02, tr.76-80].
Có thể thấy, từ khi ban hành Luật Du lịch đến nay, chưa có một cơng
trình nào nghiên cứu về đề tài liên quan đến việc tổ chức thực hiện pháp luật
về du lịch. Đây thực sự là một khó khăn, thách thức đối với tác giả trong quá
trình tra cứu tài liệu, cũng như việc tham khảo các cơng trình khác. Tuy

5


nhiên, tác giả cũng xác định, đây cũng chính là cơ hội để tác giả chủ động tự
tìm hiểu, nghiên cứu qua đó tìm ra các giải pháp, đóng góp ý kiến thiết thực
vào việc nâng cao hiệu quả triển khai tổ chức thực hiện pháp luật về du lịch
tại Hà Nội.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Tìm hiểu, phân tích thực trạng hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật về
du lịch ở thành phố Hà Nội.
- Rút ra những ưu điểm, hạn chế, thiếu sót và nguyên nhân từ đó đề ra
các giải pháp nhằm đảm bảo hiệu quả tổ chức thực hiện pháp luật về du lịch
trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn ở thành phố Hà Nội.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng quan cơ sở lý luận và thực tiễn liên quan đến việc tổ chức thực
hiện pháp luật về du lịch ở thành phố Hà Nội.

- Tìm hiểu thực trạng tổ chức thực hiện pháp luật du lịch trên địa bàn
thành phố Hà Nội.
- Đưa ra đề xuất, kiến nghị và một số giải pháp góp phần đảm bảo và
nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện pháp luật về du lịch ở thành phố Hà Nội.
4. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Luận văn tập trung nghiên cứu việc tổ chức thực hiện pháp luật về du
lịch ở thành phố Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Phạm vi nội dung: trên cơ sở lý luận chung về tổ chức thực hiện pháp
luật, luận văn tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận về tổ chức thực hiện

6


pháp luật về du lịch, đánh giá thực trạng pháp luật và tổ chức thực hiện pháp
luật về du lịch và đề xuất, kiến nghị các giải pháp đảm bảo tổ chức thực hiện
pháp luật về du lịch ở thành phố Hà Nội.
- Phạm vi không gian: nghiên cứu những vấn đề lý luận, thực tiễn về tổ
chức thực hiện pháp luật về du lịch ở thành phố Hà Nội.
- Phạm vi thời gian: việc đánh giá thực trạng pháp luật, tổ chức thực
hiện pháp luật va các số liệu được sử dụng để nghiên cứu trong luận văn chủ
yếu là từ năm 2015 đến năm 2017 (do Sở Du lịch thành phố Hà Nội mới được
tái lập lại từ năm 2015 nên các số liệu trước năm 2015 không đảm bảo để thu
thập chính xác).
5. Phƣơng pháp luận và Phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện theo phương pháp luận duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan
điểm đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà nước và pháp luật,

quan điểm của Đảng về phát triển nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc
tế. Đặc biệt là quan điểm đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt
Nam về xây dựng và hoàn thiện pháp luật dân sự, kinh tế, thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa về kinh doanh dịch vụ, du lịch và
các ngành có liên quan. Cơ sở lý luận của luận văn còn là những vấn đề lý
luận chung về pháp luật, hệ thống pháp luật, lý luận về tổ chức thực hiện
pháp luật, pháp chế xã hội chủ nghĩa.
5.2. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:
Phương pháp thu thập và xử lý số liệu

7


- Đây là phương pháp được sử dụng trong hầu hết các nghiên cứu. Theo
đó, các tài liệu, số liệu của luận văn được thu thập từ nhiều nguồn khác nhau
và được xử lý trong phòng, số liệu là thứ cấp. Với phương pháp này, các tài
liệu về việc triển khai tổ chức thực hiện pháp luật về du lịch ở thành phố Hà
Nội sẽ được phân tích, chọn lọc, xử lý nhằm phục vụ cho đề tài nghiên cứu.
- Phương pháp này cho phép các nhà nghiên cứu kế thừa các nghiên
cứu trước đó, sử dụng các thơng tin đã qua kiểm chứng, cập nhật những vấn
đề liên quan trong và ngồi nước. Các thơng tin, tài liệu, số liệu được thu thập
từ: các đề tài, cơng trình khoa học được lưu trữ trong hệ thống thư viện, sách,
báo, tạp chí, internet...
Phương pháp khảo sát, điều tra thực địa
- Bên cạnh việc sử dụng các số liệu thứ cấp, học viên cũng đã sử dụng
phương pháp khảo sát, điều tra thực địa để có được những số liệu sơ cấp,
những thơng tin thực tế, cập nhật và có điều kiện để so sánh, đối chiếu với
thông tin thu thập trong phòng. Việc điều tra thực địa giúp các nhà nghiên cứu
tránh được quyết định chủ quan, vội vàng, phiến diện, thiếu cơ sở thực tế.

6. Ý nghĩa lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
6.1. Về lý luận
Nghiên cứu góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận về pháp luật Du lịch
và việc tổ chức thực hiện phát luật về du lịch.
6.2. Về thực tiễn
- Nghiên cứu chỉ ra những vấn đề cần được quan tâm giải quyết đối với
vấn đề tổ chức thực hiện phát luật về du lịch.
- Luận văn là tài liệu tham khảo cho sinh viên, học viên và những nhà
quản lý trong lĩnh vực du lịch.

8


- Với những kết quả nghiên cứu đã đạt được trên đây, luận văn có thể
làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu thực tiễn về tổ chức thực hiện
pháp luật về du lịch ở các địa phương và cả nước.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục,
nội dung chính của luận văn được kết cấu thành 03 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về tổ chức thực hiện pháp luật về du lịch
Chương 2: Thực trạng tổ chức thực hiện pháp luật về du lịch ở thành phố
Hà Nội
Chương 3: Quan điểm và giải pháp đảm bảo tổ chức thực hiện pháp
luật về du lịch ở thành phố Hà Nội

9


Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN

PHÁP LUẬT VỀ DU LỊCH

1.1. Khái quát chung về du lịch và tổ chức thực hiện pháp luật về
du lịch
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm du lịch
1.1.1.1. Khái niệm của du lịch
Có rất nhiều tổ chức, cá nhân đưa ra các quan điểm, định nghĩa khác
nhau về du lịch. Cho đến nay có thể thấy khơng có định nghĩa duy nhất nào
được sử dụng để định danh khái niệm du lịch. Dưới các góc độ khác nhau, các
nhà nghiên cứu lại có những quan niệm rất khác nhau về du lịch. Có thể kể
đến một số khái niệm tiêu biểu như:
Khái niệm du lịch theo góc nhìn của các tổ chức quốc tế:
- Theo Liên hiệp quốc tế các tổ chức lữ hành chính thức (International
Union of Official Travel Oragnization: IUOTO): Du lịch được hiểu là hành
động du hành đến một nơi khác với địa điểm cư trú thường xuyên của mình
nhằm mục đích khơng phải để làm ăn, tức khơng phải để làm một nghề hay
một việc kiếm tiền sinh sống…
- Tại hội nghị Liên hợp quốc về du lịch họp tại Rome – Italia (21/8 –
5/9/1963), các chuyên gia đưa ra định nghĩa về du lịch: Du lịch là tổng hợp
các mối quan hệ, hiện tượng và các hoạt động kinh tế bắt nguồn từ các cuộc
hành trình và lưu trú của cá nhân hay tập thể ở bên ngoài nơi ở thường xuyên
của họ hay ngoài nước họ với mục đích hồ bình. Nơi họ đến lưu trú không
phải là nơi làm việc của họ.

10


- Theo Tổ chức du lịch thế giới (World Tourism Organization): Du lịch
bao gồm tất cả mọi hoạt động của những người du hành tạm trú với mục đích
tham quan, khám phá và tìm hiểu, trải nghiệm hoặc với mục đích nghỉ ngơi,

giải trí, thư giãn cũng như mục đích hành nghề và những mục đích khác nữa
trong thời gian liên tục nhưng khơng q một năm ở bên ngồi môi trường
sống định cư nhưng loại trừ các du hành mà có mục đích chính là kiếm tiền.
- Theo I. I. Pirogionic (1985): Du lịch là một dạng hoạt động của dân
cư trong thời gian rỗi liên quan với sự di chuyển và lưu lại tạm thời bên ngoài
nơi cư trú thường xuyên nhằm nghỉ ngơi, chữa bệnh, phát triển thể chất và
tinh thần, nâng cao trình độ nhận thức văn hóa hoặc thể thao kèm theo việc
tiêu thụ những giá trị về tự nhiên, kinh tế và văn hóa.
Khái niệm về du lịch theo cách tiếp cận của các đối tượng liên quan đến
hoạt động du lịch:
- Đối với người đi du lịch: Du lịch là cuộc hành trình và lưu trú của họ
ở ngoài nơi cư trú để thoả mãn các nhu cầu khác nhau: hồ bình, hữu nghị,
tìm kiếm kinh nghiệm sống hoặc thoả mãn các nhu cầu về vật chất và tinh
thần khác.
- Đối với người kinh doanh du lịch: Du lịch là quá trình tổ chức các
điều kiện về sản xuất và phục vụ nhằm thoả mãn, đáp ứng các nhu cầu của
người du lịch và đạt được mục đích số một của mình là thu lợi nhuận.
- Đối với chính quyền địa phương: Du lịch là việc tổ chức các điều kiện
về hành chính, về cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật để phục vụ khách du
lịch, là tổng hợp các hoạt động kinh doanh nhằm tạo điều kiện cho khách du
lịch trong việc hành trình và lưu trú, là cơ hội để bán các sản phẩm của địa

11


phương, tăng thu ngoại tệ, tăng thu nhập, nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần cho dân địa phương.
- Đối với cộng đồng dân cư sở tại: Du lịch là một hiện tượng kinh tế xã
hội mà hoạt động du lịch tại địa phương mình, vừa đem lại những cơ hội để
tìm hiểu nền văn hố, phong cách của những người ngồi địa phương mình,

vừa là cơ hội để tìm việc làm, phát huy các nghề cổ truyền, tăng thu nhập
nhưng đồng thời cũng gây ảnh hưởng đến đời sống người dân sở tại như về
môi trường, trật tự an ninh xã hội, nơi ăn, chốn ở,...
Theo Điều 4, Chương I, Luật du lịch Việt Nam năm 2005, ban hành
ngày 14/6/2005 có định nghĩa “Du lịch là các hoạt động có liên quan đến
chuyến đi của con người ngồi nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp
ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời
gian nhất định” [16, tr.04].
1.1.1.2. Đặc điểm của du lịch:
- Nhìn từ góc độ thay đổi về khơng gian của du khách: Du lịch là một
trong những hình thức di chuyển tạm thời từ một vùng này sang một vùng
khác, từ một nước này sang một nước khác mà không thay đổi nơi cư trú hay
nơi làm việc. Sự khác nhau cơ bản giữa việc tiêu dùng sản phẩm du lịch với
việc tiêu dùng sản phẩm khác đó là tiêu dùng các sản phẩm du lịch hình
thành cùng lúc, cùng nơi với việc sản xuất ra chúng. Do vậy sản phẩm
mang tính đặc thù riêng biệt, khơng thể tùy tiện so sánh giá của sản phẩm du
lịch này với sản phẩm du lịch khác.
- Nhìn từ góc độ kinh tế: Du lịch là một ngành dịch vụ có nhiệm vụ
phục vụ cho nhu cầu tham quan giải trí nghỉ ngơi, có hoặc khơng kết hợp với
các hoạt động chữa bệnh, thể thao, nghiên cứu khoa học và các nhu cầu khác.

12


Sự phát triển của du lịch kéo theo sự phát triển của các ngành kinh tế khác vì
sản phẩm du lịch mang tính liên ngành, có quan hệ chặt chẽ với nhiều ngành
nghề khác trong nền kinh tế. Khi một địa phương nào, khu vực nào phát triển
du lịch, du khách khắp nơi sẽ đổ về kéo theo nhu cầu về các dịch vụ, hàng hóa
tăng theo, làm phát sinh các giá trị gia tăng khác. Như vậy, chúng ta thấy
được du lịch là một hoạt động có nhiều đặc thù, bao gồm nhiều thành phần

tham gia, tạo thành một tổng thể hết sức phức tạp. Như vậy, du lịch vừa
mang đặc điểm của ngành kinh tế vừa có đặc điểm của ngành văn hóa – xã
hội, liên quan đến rất nhiều các lĩnh vực của đời sống xã hội.
- Nhìn từ nhu cầu thực tiễn của du khách: Dịch vụ, hàng hóa phục vụ
du lịch phải ln đảm bảo chất lượng cao, phong phú về chủng loại, đa dạng
về hình thức, ln mới mẻ nhằm hấp dẫn du khách. Điều này đòi hỏi các địa
phương, các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế có liên quan phải khơng
ngừng sáng tạo, tìm tịi, phát triển các sản phẩm mới, khơng ngừng nâng cấp
chất lượng dịch vụ, không ngừng nâng cao tay nghề, kỹ năng của đội ngũ
phục vụ nhằm đáp ứng ứng nhu cầu càng ngày cao của du khách. Như vậy du
lịch ln mang tính đổi mới, sáng tạo theo hướng không ngừng nâng cao
chất lượng dịch vụ.
1.1.2. Khái niệm tổ chức thực hiện phát luật về du lịch
Quan hệ trong du lịch là quan hệ giữa các các chủ thể liên quan, giữa
người sử dụng và nhà cùng cấp các sản phẩm, dịch vụ du lịch, quan hệ ấy
được điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật. Theo đó, các quan hệ pháp luật
dân sự được xây dựng dựa trên nguyên tắc bình đẳng. Tuy nhiên, trong quan
hệ giữa người sử dụng và nhà cung cấp các sản phẩm, dịch vụ du lịch sẽ dễ
xảy ra các mâu thuẫn, xung đột về lợi ích của các bên. Hệ quả là nhiều quyền

13


và lợi ích hợp pháp của các bên bị xâm hại và những quy phạm pháp luật
chính là những cơng cụ hiệu quả của nhà nước nhằm điều chỉnh những hành
vi không phù hợp trong mối quan hệ ấy, đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng
của các bên [08, tr.12]
Pháp luật về du lịch có mối liên quan với nhiều ngành luật khác nhau
và nằm trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau. Trong đó có Luật
Dân sự, Luật Hình sự, Luật Quảng cáo, Luật Cạnh tranh…

Theo GS.TS Phạm Hồng Thái và PGS.TS Đinh Văn Mậu, hệ thống
pháp luật là “Tổng thể các quy phạm pháp luật được quy định một cách khách
quan bởi các điều kiện kinh tế - xã hội, được phân chia thành các bộ phận cấu
thành khác nhau (các ngành luật, phân ngành luật, chế định pháp luật), phù
hợp với đặc điểm, tính chất của các quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh, nhưng
các bộ phận khác nhau ấy có mối quan hệ tác động qua lại chặt chẽ và thống
nhất với nhau” [12, tr 50].
Như vậy, có thể đưa ra khái niệm pháp luật về du lịch như sau: Pháp
luật về du lịch là tổng thể các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành và
bảo đảm thực hiện, điều chỉnh các quan hệ phát sinh giữa các chủ thể liên
quan trong hoạt động du lịch, bảo vệ quyền lợi, lợi ích hợp pháp của khách
du lịch, các cá nhân, tổ chức kinh doanh du lịch và lợi ích của toàn xã hội.
Pháp luật về du lịch ở Việt Nam hiện hành bao gồm những nội dung
sau: các quy định về quy hoạch phát triển du lịch, khu du lịch, điểm du lịch,
đô thị du lịch; trách nhiệm của các cá nhân, tổ chức trong hoạt động kinh
doanh du lịch; trách nhiệm quản lý nhà nước về du lịch; chế tài xử lý các hành
vi vi phạm pháp luật về du lịch.

14


Tổ chức thực hiện pháp luật về du lịch là khái niệm được xây dựng dựa
trên cơ sở khái niệm tổ chức thực hiện pháp luật nói chung. Để có thể hiểu
khái niệm tổ chức thực hiện pháp luật về du lịch trước hết cần tìm hiểu các
khái niệm về tổ chức thực hiện pháp luật nói chung. Tổ chức thực hiện pháp
luật là một nội dung nghiên cứu quan trọng của lý luận về Nhà nước và Pháp
luật. Lý luận về Nhà nước và Pháp luật khẳng định pháp luật và tổ chức thực
hiện pháp luật là hai quá trình hoạt động có mối liên quan chặt chẽ với nhau.
Xây dựng pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật đều là những hoạt động có
mục đích điều chỉnh các quan hệ xã hội và quản lý các quá trình xã hội. Trong

đó xây dựng pháp luật là hoạt động đầu tiên và có ý nghĩa quan trọng để đạt
được mục đích điều chỉnh của pháp luật. Nhà nước ban hành các quy phạm
pháp luật là để hướng các quan hệ xã hội phát triển theo những hướng nhất
định, với những mục đích nhất định. Chính vì vậy phải xây dựng được một hệ
thống pháp luật hoàn chỉnh, phản ánh đúng quy luật phát triển khách quan của
xã hội. Thế nhưng, hệ thống các quy phạm pháp luật ít khi có tác động vào ý
thức của cơng dân. Pháp luật chỉ có thể có tác dụng điều chỉnh các quan hệ xã
hội khi nó được áp dụng vào cuộc sống. Pháp luật như vậy là pháp luật trọng
cuộc sống, trong hành động, được thể hiện thông qua hoạt động của các cơ
quan nhà nước, các tổ chức và mọi cơng dân. Vai trị đó thuộc về tổ chức thực
hiện pháp luật. Tổ chức thực hiện pháp luật có vai trò “đưa pháp luật” vào
cuộc sống. Tổ chức thực hiện pháp luật là giai đoạn tiếp nối các giai đoạn xây
dựng pháp luật trong cơ chế điều chỉnh pháp luật. [10, tr. 35-37]
Với tư cách chủ thể quản lý, nhà nước đã sử dụng pháp luật làm
phương tiện quan trọng nhất để tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội.
Khi ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, nhà nước mong muốn các văn

15


bản đó phải được tơn trọng và thực thi có hiệu quả trong thực tế. Tổ chức thực
hiện pháp luật là q trình hoạt động có mục đích, định hướng nhằm hiện
thực hóa nội dung các quy định của pháp luật bằng các hành vi thực tế của các
chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật.
Có thể thấy, tổ chức thực hiện pháp luật đóng một vai trị hết sức quan
trọng trong đời sống kinh tế, xã hội bởi bởi pháp luật dù có tốt, có ưu việt đến
đâu đi chăng nữa mà không được thực thi trên thực tế, khơng đi vào đời sống
nhân dân thì cũng khơng mang lại lợi ích gì cho nhân dân và cho xã hội. Vai
trò của pháp luật chỉ phát huy được trên thực tế khi pháp luật được mọi chủ
thể tuân thủ, chấp hành và sử dụng có hiệu quả cũng như các chủ thể được

nhà nước trao quyền, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng đúng đắn
pháp luật. Nói cách khác, là pháp luật đó phải được thực hiện nghiêm chỉnh
trong thực tế cuộc sống.
Tổ chức thực hiện pháp luật có thể được hiểu theo hai nghĩa cơ bản:
- Tổ chức thực hiện pháp luật được hiểu theo nghĩa danh từ của từ “tổ
chức”, nhằm chỉ về cơ cấu tổ chức của một thực thể.
- Tổ chức thực hiện pháp luật được hiểu theo nghĩa hành vi của từ “tổ
chức”, là hoạt động lập kế hoạch, phân công thực hiện và kiểm tra đánh giá việc
thực hiện nhiệm vụ phổ biến pháp luật của các cơ quan nhà nước.
Từ những phân tích trên, có thể định nghĩa: Tổ chức thực hiện pháp
luật về du lịch là hoạt động sắp xếp, định hướng một cách có tổ chức, có ý
thức, có mục đích, có kế hoạch và thường xuyên, do cơ quan nhà nước có
thẩm quyên thực hiện làm cho pháp luật về du lịch được triển khai trong thực
tiễn nhằm bảo vệ quyền lợi, lợi ích hợp pháp của khách du lịch, các cá nhân,
tổ chức kinh doanh du lịch và lợi ích của tồn xã hội.

16


1.2. Đặc điểm, chủ thể, vai trò và nội dung tổ chức thực hiện pháp
luật về du lịch
1.2.1. Đặc điểm của tổ chức thực hiện phát luật về du lịch
1.2.1.1. Tổ chức thực hiện pháp luật về du lịch do nhiều chủ thể pháp
luật phối hợp tiến hành
Pháp luật về du lịch có phạm vi điều chỉnh rộng, liên quan đến nhiều
lĩnh vực trong đời sống xã hội. Hệ thống quy phạm pháp luật về du lịch nằm
trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau. Chúng được quy định trong Luật Du
lịch và các văn bản hướng dẫn thi hành; Luật Hình sự, Luật Dân sự, Luật Bảo
vệ mơi trường, Luật Quản lý xuất nhập cảnh…. Tổ chức thực hiện pháp luật
về du lịch là thực hiện các quy phạm pháp luật được quy định trong nhiều lĩnh

vực khác nhau, là trách nhiệm của nhiều chủ thể trong xã hội. Chính vì vậy,
muốn thực hiện có hiệu quả pháp luật về du lịch phải có sự kết hợp chặt chẽ
giữa các chủ thể pháp luật.
Ví dụ, một đồn khách du lịch quốc tế đến Việt Nam qua cảng hàng
không quốc tế, các thủ tục nhập cảnh, kiểm soát an ninh được thực hiện để
đảm bảo an toàn, an ninh sẽ tuân thủ theo các quy định tại Luật Hàng không
dân dụng, Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước
ngoài… và trách nhiệm quản lý sẽ thuộc về các cơ quan chức năng như Bộ
Giao thông vận tải, Bộ Cơng an… Trong q trình đồn khách du lịch đi tham
quan tại các địa phương cũng sẽ chịu sự quản lý, kiểm tra của Bộ Y tế (liên
quan đến vấn đề An toàn vệ sinh thực phẩm tại các nhà hàng, khách sạn), Bộ
Giao thông vận tải (liên quan đến tiêu chuẩn an toàn của phương tiện vận
chuyển khách du lịch)… Các hành vi vi phạm pháp luật khơng được xử lý
nghiêm minh, góp phần răn đe đối với các chủ thể vi phạm pháp luật nếu Uỷ

17


ban nhân dân các cấp không nhận thức rõ trách nhiệm của mình trong tổ chức
thực hiện pháp luật về du lịch (như các hành vi chèo kéo, lừa đảo, đeo bám
khách du lịch tại các điểm du lịch, khu du lịch cần phải có được sự phối hợp
vào cuộc của các lực lượng như Uỷ ban nhân dân, Công an phường, các lực
lượng đoàn thể và nhân dân).
Mặt khác, các quy định pháp luật về du lịch chỉ có thể trở thành các
hành vi xử sự thực tế của các chủ thể pháp luật nếu các tổ chức, cá nhân kinh
doanh du lịch có ý thức chấp hành các quy định của pháp luật về du lịch. Một
tổ chức, cá nhân muốn phát triển, thành công, trước hết cần quan tâm đến
khách du lịch – chủ thể quan trọng nhất của hoạt động du lịch, lắng nghe nhu
cầu, mong muốn của khách du lịch, cung cấp cho khách du lịch những dịch
vụ, sản phẩm có chất lượng tốt nhất. Các tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch

phải có ý thức tuân thủ các quy định của pháp luật về du lịch, tích cực phối
hợp với các cơ quan chức năng quản lý nhà nước trong việc kiểm tra, kiểm
soát chất lượng dịch vụ du lịch, đảm bảo an toàn tuyệt đối cho khách du lịch.
1.2.1.2. Tổ chức thực hiện pháp luật về du lịch là trách nhiệm cao nhất,
đầu tiên của chủ thể là nhà nước
Bản chất quan hệ giữa các chủ thể trong hoạt động kinh doanh du lịch
là quan hệ dân sự và được thực hiện thông qua các hợp đồng dân sự. Để đảm
bảo quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan, nhà nước có trách nhiệm can
thiệp vào mối quan hệ giữa các chủ thể này. Sự can thiệp của nhà nước vào
mối quan hệ giữa các chủ thể này trước hết thông qua hoạt động ban hành
pháp luật về du lịch. Ngày 14/6/2005, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam đã ban hành Luật Du lịch, đây là văn bản pháp lý quan trọng
thể hiện chính sách nhất quán của nhà nước ta về bảo vệ quyền và lợi ích

18


chính đáng của các tổ chức, cá nhân Việt Nam, tổ chức, cá nhân nước ngoài
hoạt động du lịch trên lãnh thổ Việt Nam; các cơ quan, tổ chức, cá nhân, cộng
đồng dân cư có hoạt động liên quan đến du lịch.
Không chỉ dừng lại ở việc ban hành các văn bản pháp luật về du lịch,
nhà nước phải có trách nhiệm tổ chức thực hiện, triển khai các văn bản pháp
luật về du lịch trở thành các hành vi xử sự thực tế của các chủ thể trong xã
hội. Tổ chức thực hiện pháp luật về du lịch là trách nhiệm của mọi thành viên
trong xã hội. Trong đó trách nhiệm đầu tiên và cao nhất thuộc về nhà nước.
Bởi lẽ pháp luật về du lịch không thể được tuân thủ nghiêm minh trên thực
tiễn cuộc sống, quyền lợi của các chủ thể liên quan không thể được bảo vệ
hữu hiệu khi khơng có sự tham gia tích cực của nhà nước.
Trong nền kinh tế thị trường, nếu như khơng có sự quản lý chặt chẽ của
nhà nước đối với các hoạt động kinh doanh du lịch của các chủ thể sẽ dễ dẫn

đến các hành vi cung cấp các sản phẩm dịch vụ, sản phẩm du lịch chất lượng
kém, làm ảnh hưởng đến du khách… Vì mục đích lợi nhuận, nhiều chủ thể
liên quan sẽ sẵn sàng vi phạm pháp luật về du lịch. Do vậy, hoạt động kiểm
tra, thanh tra của các cơ quan nhà nước là điều kiện quan trọng đảm bảo sự
tuân thủ pháp luật về du lịch của các tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch. Bên
cạnh đó, việc giải quyết các khiếu nại, tố cáo, xử lý nghiêm minh các vi phạm
pháp luật trong lĩnh vực du lịch của các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm
quyền là nhân tố thúc đẩy q trình hiện thực hóa các quy định pháp luật vào
thực tiễn cuộc sống. Ý thức tuân thủ pháp luật về du lịch các tổ chức, cá nhân
kinh doanh du lịch chỉ được nâng lên khi các hành vi vi phạm pháp luật về du
lịch bị nhà nước dùng các biện pháp quản lý, xử lý nghiêm minh, kịp thời.
Các biện pháp xử lý đủ sức răn đe của nhà nước đối với các đối tượng vi

19


×