Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ THU QUỸ BẢO HIỂM XÃ HỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.97 KB, 21 trang )

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ THU QUỸ BẢO HIỂM
XÃ HỘI
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BHXH
1. Khái niệm và sự cần thiết khách quan của BHXH
Bảo hiểm xã hội ( BHXH ) ra đời vào những năm giữa thế kỷ 19, khi nền
công nghiệp và kinh tế hàng hoá đã bắt đầu phát triển mạnh mẽ ở các nước Châu
Âu. Như vậy, BHXH là một trong những loại hình bảo hiểm ra đời khá sớm và đến
nay đã được thực hiện ở tất cả các nước trên thế giới. So với các loại hình bảo hiểm
khác, đối tượng, chức năng và tính chất của BHXH có những điểm khác biệt do
bản chất của nó chi phối.
Con người muốn tồn tại và phát triển thì trước hết phải thoả mãn những nhu
cầu tối thiểu như ăn, mặc, ở, đi lại do vậy họ phải lao động để làm ra những sản
phẩm cần thiếp. Khi sản phẩm được tạo ra ngày càng nhiều thì đời sống con người
ngày càng đầy đủ và hoàn thiện, xã hội ngày càng văn minh hơn. Như vậy việc
thoả mãn những nhu cầu sinh sống và phát triển của con người phụ thuộc vào
chính khả năng lao động của họ. Nhưng trong thực tế không phải lúc nào con
người cũng gặp thuận lợi, có thu nhập và điều kiện sống bình thường mà ngoài ra
có rất nhiều trường hợp khó khăn bất lợi ngẫu nhiên phát sinh làm cho người ta bị
giảm hoặc mất thu nhập và các điều kiện sinh sống khác. Những trường hợp như
ốm đau, tai nạn lao động, mất khả năng lao động do tuổi tác... những trường hợp
này, các nhu cầu cần thiết trong cuộc sống không vì thế mà mất đi, trái lại có cái
còn tăng lên thậm chí còn xuất hiện thêm một số nhu cầu mới như cần được khám
chữa bệnh và điều trị khi ốm đau; tai nạn thương tật nặng cần có người chăm sóc,
nuôi dưỡng... Bởi vậy, muốn tồn tại và ổn định cuộc sống, con người và xã hội loài
người phải tìm ra và thực tế đã tìm ra nhiều cách giải quyết khác nhau như: đi vay,
san sẻ, đùm bọc lẫn nhau trong nội bộ cộng đồng, đi xin hoặc sự cứu trợ của Nhà
nước ... Nhưng rõ ràng các cách đó hoàn toàn thụ động và không chắc chắn.
Khi nền kinh tế hàng hoá phát triển, việc thuê mướn công nhân trở lên phổ
biến. Lúc đầu người chủ chỉ cam kết trả công lao động, nhưng về sau đã phải cam
kết cả việc đảm bảo cho người làm thuê có số thu nhập nhất định để họ trang trải
những nhu cầu thiết yếu khi không may họ bị tai nạn, ốm đau, thai sản ... Trong


thực tế nhiều khi các trường hợp trên không xảy ra và người chủ không phải chi trả
một đồng nào, tuy nhiên nhiều khi nó lại xảy ra dồn dập buộc họ phải bỏ ra một lúc
một khoản tiền lớn mà họ không muốn. Vì thế, mâu thuẫn chủ thợ phát sinh. Giới
thợ liên kết đấu tranh buộc giới chủ phải thực hiện cam kết. Cuộc đấu tranh này
diễn ra ngày càng rộng lớn và có tác động nhiều mặt đến đời sống kinh tế xã hội.
Do vậy, Nhà nước phải đứng ra can thiệp và điều hoà mâu thuẫn. Sự can thiệp này
một mặt làm tăng được vai trò của Nhà nước, mặt khác buộc giới chủ và thợ phải
đóng góp một khoản tiền nhất định hàng tháng được tính toán một cách chặt chẽ
dựa trên cơ sở xác suất rủi ro xảy ra đối với người làm thuê. Số tiền đóng góp của
cả chủ và thợ hình thành nên một quỹ tiền tệ tập trung trên phạm vi quốc gia. Quỹ
này còn được bổ sung từ ngân sách Nhà nước khi cần thiết nhằm đảm bảo đời sống
cho người lao động khi gặp phải những biến cố bất lợi. Chính nhờ những mối quan
hệ ràng buộc đó mà rủi ro, bất lợi của người lao động được dàn trải, cuộc sống của
người lao động và gia đình họ ngày càng được đảm bảo ổn định. Giới chủ cũng
thấy mình có lợi và được bảo vệ, sản xuất kinh doanh diễn ra bình thường tránh
được những xáo trộn không cần thiết. Vì vậy, nguồn quỹ tập trung được thiết lập
ngày càng lớn và nhanh chóng. Khả năng giải quyết các phát sinh lớn của quỹ ngày
càng đảm bảo.
Toàn bộ những hoạt động với những mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ trên
được thế giới quan niệm là bảo hiểm xã hội đối với người lao động. Như vậy,
"BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với người lao
động khi gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc
làm trên cơ sở hình thành và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung nhằm đảm bảo đời
sống cho người lao động và gia đình họ góp phần đảm bảo an toàn xã hội".
Qua khái niệm về bảo hiểm xã hội ta có thể thấy được sự cần thiết của
BHXH đối với người lao động và xã hội. BHXH có những chức năng chủ yếu sau
đây:
- Thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động tham gia bảo
hiểm khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do mất khả năng lao động hoặc mất việc
làm. Sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp này chắc chắn sẽ xảy ra vì suy cho cùng mất

khả năng lao động sẽ đến với tất cả mọi người lao động khi hết tuổi lao động theo
các điều kiện quy định của BHXH. Còn mất việc làm và mất khả năng lao động
tạm thời làm giảm hoặc mất thu nhập cũng sẽ được hưởng trợ cấp cần thiết, thời
điểm và thời hạn được hưởng phải đúng quy định. Đây là chức năng cơ bản nhất
của BHXH, nó quyết định nhiệm vụ, tính chất và cả cơ chế hoạt động của BHXH.
- Tiến hành phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia
BHXH. Tham gia BHXH không chỉ có người lao động mà cả những người sử dụng
lao động. Các bên tham gia đều phải đóng góp vào quỹ BHXH. Quỹ này dùng để
trợ cấp cho một số người lao động tham gia khi họ gặp phải biến cố làm giảm hay
mất thu nhập. Số lượng những người này chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số những
người tham gia đóng góp. Như vậy, theo quy luật số đông bù số ít, BHXH thực
hiện phân phối lại thu nhập theo cả chiều dọc lẫn chiều ngang. Phân phối lại giữa
những người có thu nhập cao và thu nhập thấp, giữa những người khoẻ mạnh đang
làm việc với những người ốm đau phải nghỉ việc... Thực hiện chức năng này có
nghĩa là BHXH góp phần thực hiện công bằng xã hội.
- Góp phần kích thích người lao động hăng hái lao động sản xuất nâng cao
năng suất lao động cá nhân và năng suất lao động xã hội. Khi khoẻ mạnh tham gia
lao động sản xuất, người lao động được chủ sử dụng lao động trả lương hoặc tiền
công. Khi bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, hoặc khi về
già đã có BHXH trợ cấp thay thế nguồn thu nhập bị mất. Vì thế cuộc sống của họ
và gia đình họ luôn được đảm bảo ổn định và có chỗ dựa. Do đó người lao động
luôn yên tâm gắn bó tận tình với công việc và với nơi làm việc. Từ đó họ rất tích
cực lao động, sản xuất, nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh tế. Chức
năng này biểu hiện như một đòn bẩy kinh tế kích thích người lao động nâng cao
năng xuất lao động cá nhân và kéo theo năng suất lao động xã hội.
- Gắn bó lợi ích giữa người lao động với người sử dụng lao động, giữa lao
động với xã hội. Trong thực tế lao động sản xuất, người lao động và người sử dụng
lao động có những mâu thuẫn nội tại, khách quan về tiền lương, tiền công, thời
gian lao động... Thông qua BHXH những mâu thuẫn đó sẽ được điều hoà và giải
quyết. Đặc biệt cả hai giới này đều thấy nhờ có BHXH mà mình có lợi và được bảo

vệ. Từ đó làm cho họ hiểu nhau hơn và gắn bó lợi ích được với nhau. Đối với Nhà
nước và xã hội chi cho BHXH là cách thức phải chi ít nhất và có hiệu quả nhất
nhưng vẫn giải quyết được khó khăn về đời sống cho người lao động và gia đình
họ, góp phần làm cho sản xuất ổn định, kinh tế chính trị và xã hội được phát triển,
an toàn hơn.
2. Quá trình hình thành và phát triển của BHXH.
BHXH đã xuất hiện từ rất lâu mà mầm mống của nó từ thế kỷ 13 ở Nam Âu
khi nền công nghiệp và kinh tế hàng hoá đã bắt đầu phát triển. Tuy nhiên, ban đầu
BHXH chỉ mang tính chất sơ khai, với phạm vi nhỏ hẹp. Từ thế kỷ XVI đến thế kỷ
XVIII một số nghiệp đoàn thợ thủ công ra đời, để bảo vệ lẫn nhau trong hoạt động
nghề nghiệp họ đã thành lập nên các loại quỹ tương trợ để giúp nhau.( ở Anh năm
) đã thành lập hội "bằng hữu" để giúp đỡ các hội viên khi bị ốm đau hau tai nạn
nghề nghiệp).
Từ sau chiến tranh thế giới thứ II, BHXH lan rộng ra nhiều nước trên thế giới, phát
triển rất phong phú, đa dạng và có nhiều thay đổi bổ sung. BHXH ngày càng có vị
trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, là một trong các trung tâm chú ý của
nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế.
Theo Công ước Giơnever - 1952 của Tổ chức Lao động Quốc tế(TLO) đã xác định
BHXH gồm 9 chế độ sau:
- Chăm sóc y tế
- Trợ cấp ốm đau
- Trợ cấp thất nghiệp
- Trợ cấp tuổi già
- Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
- Trợ cấp gia đình
- Trợ cấp thai sản
- Trợ cấp khi tàn phế
- Trợ cấp cho người còn sống( trợ cấp mất người nuôi dưỡng)
Nhưng trên thực tế không phải nước nào cũng thực hiện được toàn bộ 9 chế
độ trên và không phải nước nào cũng có phạm vi, đối tượng nguồn hình thành quỹ

giống nhau. Có nghĩa là việc thực hiện BHXH ở những nước khác nhau thì khác
nhau tuỳ theo điều kiện cụ thể của từng nước và hoàn cảnh cụ thể của mỗi giai đoạn
phát triển mà mỗi nước có những hình thức áp dụng khác nhau cho phù hợp.
Trên thế giới có 35 nước thực hiện được 9 chế, 37 nước chưa thực hiện được
chế độ thứ 3 ( trợ cấp thất nghiệp), 67 nước chưa thực hiện được chế độ thứ 3 và
chế độ thứ sáu ( trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp gia đình).
TạiViệt Nam dưới chính quyền Pháp thuộc, chúng đã thực hiện BHXH đối
với công chức và quân nhân Việt Nam hưởng lương phục vụ trong bộ máy hành
chính và quân đội Pháp ở Đông Dương khi họ ốm đau, tuổi già hoặc chết. Còn đối
với công nhân Việt Nam việc thực hiện BHXH hết sức khó khăn, gần như chính
quyền Pháp không công nhận một quyền lợi nào về BHXH. Công nhân Việt Nam
chết, ốm đau, tai nạn trong các nhà máy, đồn điền cao su không được mai táng,
chữa bệnh, phụ nữ sinh đẻ vẫn phải làm việc, trẻ em sinh ra yếu ớt không được
chăm sóc.
Từ khi nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà được thành lập. Chính phủ đã ban
hành nhiều văn bản pháp luật về BHXH.Sắc lệnh 54SL ngày 14\6\1946 ấn định
việc cấp hưu bổng cho công chức. Hai sắc lệnh này quy định công chức phải đóng
bảo hiểm và trong quỹ hưu bổng có phần đóng thêm của nhà nước . Sắc lệnh 76/SL
ngày 20\5\1950 ấn định cụ thể hơn các chế độ trợ cấp hưu trí , thai sản và chăm sóc
y tế, tai nạn và tiền tuất đối với công chức. Trong khu vực sản xuất lúc này chưa
thành lập quỹ BHXH , Nhưng sắc lệnh 29\SL ngày 12\3\1947 và sắc lệnh 77/SL
ngày 22\5\1950 đã ấn định cụ thể hơn các chế độ trợ cấp hưu trí . tai nạn lao
động , ốm đau , thai sản , tử tuất đối với công nhân.
Sau khi hoà bình lập lại ở miền Bắc , thực hiện hiến pháp năm 1949 Hội
đồng chính phủ ban hành điều lệ tạm thời về các chế độ BHXH đối với công nhân
vieen chức nhà nước kèm theo nghị định 218/CP ra ngày 27\12\1961 của hội đồng
chính phủ quy điịnh như sau: Chế độ trợ cấp BHXH gồm 6 loại :
1- Trợ cấp ốm đau .
2- Trợ cấp Thai sản.
3- Trợ cấp Tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp.

4- Trợ cấp hưư trí .
5- Trợ cáp mất sức lao động
6- Trợ cấpTử tuất.
Do môthành phần kinh tế thời kỳ dài bao cấp , nhìn chung 6 chế độ này đã đáp ứng
được yêu cầu của người lao động và của xã hội.Gop phần vào việc thực hiện nhiều
chính sáchxã hội của đảng và nhà nước.Tuy nhiên khi chuyển sang kinh tế thị
trường điều kiện kinh tế của nhà nước đã thay đổi vì vậy nghị định43\CP ra đời
ngày 22/6/1993 và nghị định 12\ CP ngày 26\1\1995 đều thống nhất một quan
điểm là chỉ thực hiện 5 chế độ và bỏ trợ cáp mất sức lao động (MC)
3. Tính chất của bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm xã hội gắn liền với người đời sống của người lao động, vì vậy nó có
một số tính chất cơ bản sau:
- Tính tất yếu khách quan trong đời sống xã hội.
Trong quá trình lao động sản xuất người lao động có thể gặp phải nhiều biến
cố, rủi ro khi đó người sử dụng lao động cũng rơi vào tình cảnh khó khăn không
kém như: sản xuất kinh doanh bị gián đoạn, vấn đề tuyển dụng và hợp đồng lao
động luôn phải được đặt ra để thay thế v.v... Sản xuất càng phát triển, những rủi ro
đối với người lao động và những khó khăn đối với người sử dụng lao động càng
nhiều và trở nên phức tạp, dẫn đến mối quan hệ chủ – thợ ngày càng căng thẳng.
Để giải quyết vấn đề này, Nhà nước phải đứng ra can thiệp thông qua bảo hiểm xã
hội. Và như vậy, bảo hiểm xã hội ra đời hoàn toàn mang tính khách quan trong đời
sống kinh tế xã hội của mỗi nước.
- Bảo hiểm có tính ngẫu nhiên, phát sinh không đồng đều theo thời gian và
không gian. Tính chất này thể hiện rất rõ ở những nội dung cơ bản của bảo hiểm xã
hội. Từ thời điểm hình thành và triển khai, đến mức đóng góp của các bên tham gia
để hình thành quỹ bảo hiểm xã hội. Từ những rủi ro phát sinh ngẫu nhiên theo thời
gian và không gian đến mức trợ cấp bảo hiểm xã hội theo từng chế độ cho người
lao động v.v...
- Bảo hiểm vừa có tính kinh tế, vừa có tính xã hội , đồng thời còn có tính dịch
vụ.

Tính kinh tế thể hiện rõ nhất là ở chỗ, quỹ bảo hiểm xã hội muốn được hình
thành, bảo toàn và tăng trưởng phải có sự đóng góp của các bên tham gia và phải
được quản lý chặt chẽ, sử dụng đúng mục đích. Mức đóng góp của các bên phải
được tính toán rất cụ thể dựa trên xác suất phát sinh thiệt hại của tập hợp người lao
động tham gia bảo hiểm xã hội. Quỹ bảo hiểm xã hội chủ yếu dùng để trợ cấp cho
người lao động theo các điều kiện của bảo hiểm xã hội. Thực chất, phần đóng góp
của mỗi bên người lao động là không đáng kể, nhưng quyền lợi nhận được là rất
lớn khi gặp rủi ro. Đối với người sử dụng lao động việc tham gia đóng góp vào quỹ
bảo hiểm xã hội là để bảo hiểm cho người lao động mà mình sử dụng. Xét dưới
góc độ kinh tế, họ cũng có lợi vì không phải bỏ ra một khoản tiền lớn để trang trải
cho những người lao động bị mất hoặc giảm khả năng lao động. Với Nhà nước,
bảo hiểm xã hội góp phần làm giảm gánh nặng cho ngân sách, đồng thời quỹ bảo
hiểm xã hội còn là nguồn đầu tư đáng kể cho nên kinh tế quốc dân.
BHXH là bộ phận chủ yếu của hệ thống đảm bảo xã hội vì vậy tính xã hội của
nó thể hiện rất rõ. Xét về lâu dài, mọi người lao động trong xã hội đều có quyền
tham gia BHXH. Và ngược lại, BHXH phải có trách nhiệm bảo hiểm cho mọi
người lao động và gia đình họ, kể cả khi họ còn đang trong độ tuổi lao động. Tính
xã hội của BHXH luôn gắn chặt với tính chấ dịch vụ của nó. Khi nền kinh tế – xã
hội ngày càng phát triển thì tính dịch vụ và tính xã hội hoá của BHXH cũng ngày
càng cao.
II: THU QUỸ BHXH VÀ VẤN ĐỀ CHỐNG THẤT THU.
1. Quỹ bảo hiểm xã hội
a. Khi niệm về quỹ bảo hiểm xã hội
Quỹ BHXH là tập hợp đóng góp bằng tiền của các bên tham gia bảo hiểm:
người lao động, người sử dụng lao động, Nhà nước nhằm mục đích chi trả cho các
chế độ BHXH và đảm bảo hoạt động của hệ thống BHXH.
Quỹ BHXH là quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài ngân sách Nhà
nước.
b. Đặc điểm
- Là một quỹ tiền tệ tập trung, giữ vị trí là khâu tài chính trung gian trong hệ

thống tài chính quốc gia. Là tổ chức tài chính nằm giao thoa giữa ngân sách Nhà
nước với các tổ chức tài chính Nhà nước, tài chính doanh nghiệp và sau đó là tài
chính dân cư.
- Phân phối quỹ BHXH vừa mang tính hoàn trả, vừa mang tính không hoàn
trả. Tính không hoàn trả của quỹ BHXH được áp dụng với những người đã tham
gia BHXH trong suốt qúa trình lao động nhưng không ốm đau, tai nạn lao động,
sinh con.
- Sự ra đời, tồn tại và phát triển của BHXH gắn liền với chức năng vốn có của
Nhà nước là vì quyền lợi của người lao động chứ không vì mục đích kiếm lời,
đồng thời nó cũng phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế xã hội và điều kiện lịch
sử trong từng thời kỳ của mỗi quốc gia. Khi nền kinh tế càng phát triển thì càng có
nhiều chế độ BHXH được thực hiện, và bản thân từng chế độ cũng được áp dụng
rộng rãi hơn, nhu cầu thoả mãn về BHXH đối với người lao động càng được nâng
cao. Mặt khác, khi nền kinh tế phát triển thì mức thu nhập của người lao động càng
cao và họ càng có khả năng tham gia vào nhiều chế độ BHXH.
- Một mặt, quỹ BHXH mang tính tiêu dùng được thể hiện thông qua mục tiêu,
mục đích của nó là chi trả cho các chế độ BHXH. Nhưng mặt khác nó lại mang
tính dự trữ vì thông thường, khi người lao động đóng góp vào quỹ BHXH thì họ
không được quỹ này chi trả ngay khi gặp rủi ro mà phải có đủ thời gian dự bị.
- Hoạt động của quỹ BHXH đặt ra yêu cầu và hình thành tất yếu chế độ tiết
kiệm bắt buộc của xã hội và người lao động dành cho ốm đau, hưu trí. Đó cũng là
quá trình phân phối lại thu nhập của cá nhân và cộng đồng.
c. Nguồn quỹ bảo hiểm xã hội
Quỹ BHXH là một quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài ngân sách Nhà
nước.
Quỹ BHXH được hình thành chủ yếu từ các nguồn sau đây:
- Người sử dụng lao động đóng góp.
- Người lao động đóng góp.
- Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm.
-Người tự nguyện tham gia BHXH đóng.

- Các nguồn thu khác( như cá nhân và các tổ chức từ thiện ủng hộ, lãi do đầu
tư phần quỹ nhàn rỗi ...).
Trong nền kinh tế hàng hoá, trách nhiệm tham gia đóng góp BHXH cho
người lao động được phân chia cho cả người sử dụng lao động và người lao động
trên cơ sở quan hệ lao động. Điều này không phải là sự phân chia rủi ro, mà là lợi
ích giữa hai bên. Về phía người sử dụng lao động, sự đóng góp một phần BHXH
cho người lao động sẽ tránh được thiệt hại kinh tế do phải chi ra một khoản tiền
lớn khi có rủi ro xảy ra đối với người lao động mà mình thuê mướn. Đồng thời nó
còn góp phần giảm bớt tình trạng tranh chấp, kiến tạo được mối quan hệ tốt đẹp
giữa chủ – thợ. Về phía người lao động, sự đóng góp một phần để BHXH cho mình
vừa biểu hiện sự tự gánh chịu trực tiếp rủi ro của chính mình, vừa có ý nghĩa ràng
buộc nghĩa vụ và quyền lợi một cách chặt chẽ.
Mối quan hệ chủ – thợ trong BHXH thực chất là mối quan hệ lợi ích. Vì thế,
cũng như nhiều lĩnh vực khác trong quan hệ lao động, BHXH không thể thiếu được
sự tham gia đóng góp của Nhà nước. Trước hết các luật lệ của Nhà nước về BHXH
là những chuẩn mực pháp lý mà cả người lao động và người sử dụng lao động đều

×