Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN LIÊN QUAN TỚI KẾ HOẠCH HOÁ CHIẾN LƯỢC MARKETING

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (282.22 KB, 37 trang )

CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN LIÊN QUAN TỚI KẾ HOẠCH HOÁ
CHIẾN LƯỢC MARKETING
I - TẦM QUAN TRỌNG CỦA MARKETING
1. Marketing là gì?
Rõ ràng, Marketing là hoạt động của con người có quan hệ với thị trường.
Chúng ta cần nhấn mạnh rằng định nghĩa Marketing biến đổi gắn liền với sự tiến
triển của sản xuất hàng hoá. Marketing được định nghĩa một cách chung nhất là
một dạng hoạt động của con người nhằm thoả mãn các nhu cầu thông qua trao đổi.
Nếu xem xét một cách cụ thể thì Marketing được xác định theo hai mức độ khác
nhau, người ta gọi là định nghĩa cổ điển về môi trường và định nghĩa Marketing
hiện đại.
a. Định nghĩa cổ điển về Marketing.
Marketing là thực hiện các hoạt động kinh doanh nhằm hướng luồng hàng
hoá và dịch vụ từ người sản xuất đến người tiêu dùng hay người mở rộng. Người ta
cũng có thể diễn tả một cách dài dòng hơn, Marketing là một quá trình mà ở đó có
cấu trúc nhu cầu về hàng hoá và dịch vụ được dự đoán và được thoả mãn thông
qua một quá trình từ nhận thức, thúc đẩy và phân phối các hàng hoá và dịch vụ.
Nhiều nhà chuyên môn cho rằng cách hiểu này còn nhiều thiếu sót: chẳng hạn quá
nhấn mạnh vào yếu tố phân phối trong khi đó thì lại quên đi các yếu tố có ảnh
hưởng to lớn đối với Marketing, như Chính phủ, có thể chế phi lợi nhuận khác.
Thuật ngữ dịch vụ trên đây được xem xét không bao gồm các hoạt động của các
thể chế này. Người ta cũng quên đi tầm quan trọng của sự trao đổi giữ người mua
và người bán, chính trị trao đổi này làm nảy sinh ra nhu cầu và làm đảo lộn cơ cấu
nhu cầu - Một yếu tố tích cực của sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó, nhiều nhân tố
có tác động lớn khác mà vai trò của nó là không thể thiếu đối với mọi hoạt động
kinh doanh như lao động, công đoàn, người mua chứng khoán, các nhóm tiêu dùng
và các cơ quan của Chính phủ.... bị người ta bỏ quên.
Định nghĩa này được Hiệp hội Marketing Mỹ (American Marketing
Association) xác định từ năm 1960 và nó đã thịnh hành trong suốt 25 năm. Cho
đến 1985, thực tế phát triển kinh tế xã hội Mỹ đòi hỏi phải có một cách đầy đủ hơn
về Marketing bởi vậy, Hiệp hội Marketing Mỹ đã đưa ra một định nghĩa thích hợp


hơn.
b. Định nghĩa hiện đại về Marketing.
Rõ ràng là yêu cầu của việc xác định cách hiểu thích hợp về Marketing trong
tình hình mới đặt ra cho Hiệp hội Marketing Hoa Kỳ một nhiệm vụ nặng nề là phải
đưa ra một định nghĩa thích hợp về Marketing. Ở đó phản ánh đầy đủ các khía
cạnh cần thiết và bao hàm rộng hơn định nghĩa cổ điển về Marketing. Nhiều cuộc
bàn cãi và hội thảo được tổ chức, nhiều ý kiến bảo vệ cho định nghĩa cổ điển trên
được đưa ra, song cuối cùng các nhà học giả cũng đã thống nhất được với nhau
trên những khía cạnh chủ yếu, nhất là về bằng mặt quan niệm. Một định nghĩa
được coi là thích hợp nếu nó không bao hàm các tổ chức (chẳng hạn hội chữ thập
đỏ) con người (chẳng hạn nhà chính trị) vị trí, nơi chốn (chẳng hạn New York) và
những tư tưởng (chẳng hạn giá trị của dây an toàn trên ô tô). Bên cạnh đó, định
hướng của người tiêu dùng phải được xem là trung tâm của định nghĩa này. Bởi vì
cùng biết mục đích đầu tiên của một Công ty là lợi nhuận song để có lợi nhuận thì
mục đích đầu tiên của họ là thoả mãn nhu cầu tiêu dùng. Ở đây cần nhấn mạnh
rằng Marketing không phải nhằm mở rộng nhu cầu mà nó hướng tới việc điều
chỉnh nhu cầu sao cho phù hợp với của sản xuất kinh doanh.
Từ quan niệm đó, Hội Marketing Hoa Kỳ đã khẳng định rằng Marketing là
một quá trình kế hoạch hoá và thực hiện các kế hoạch, giá cả, thúc đẩy và phân
phối các tư tưởng, hàng hoá và dịch vụ để tạo ra sự trao đổi, từ đó thoả mãn các
mục tiêu của các cá nhân và tổ chức? Vậy nếu nói ngắn gọn, thì định nghĩa
Marketing hiện đại "là sự dự đoán, sự quản lý và sự thoả mãn nhu cầu thông qua
quá trình trao đổi", và Marketing bao gồm hàng hoá, dịch vụ, các tổ chức, con
người, nơi chốn và tư tưởng.
Ở đây cần phải nhấn mạnh tới thứ nhất, dự đoán là gì? Dự đoán nhu cầu đòi
hỏi một hãng muốn thúc đẩy sản xuất kinh doanh thì cần phải nghiên cứu người
tiêu dùng trên nhiều phương diện và từ đó đề xuất phương hướng phát triển thực
hiện kinh doanh và đặt ra những sản phẩm phù hợp với mong muốn của người tiêu
dùng; thứ hai là quản lý. Quản lý nhcc là cách thức nhà kinh doanh sử dụng các
loại mẫu mã hấp dẫn, thích hợp để thu hút người tiêu dùng. Khai thông là một quá

trình mà ở đó các hàng phải tạo ra sự dễ dàng cho người mua thông qua việc thiết
lập các cửa hàng thuận tiện, hình thức thanh toán thuận tiện và dễ dàng, và thứ ba
là điều chỉnh nhu cầu. Đây là một công đoạn cần thiết bởi vì giữa nhu cầu của
người tiêu dùng và khả năng đáp ứng của người sản xuất thưoừng diễn biến không
thống nhất với nhau cả về không gian và thời gian. Do vậy, điều chỉnh nhu cầu
cho phép các hãng đáp ứng có hiệu quả nhất nhu cầu của người tiêu dùng và khả
năng thu lợi nhuận cũng sẽ lớn nhất. Thoả mãn nhu cầu là một tổ hợp nhiều yếu tố
khác nhau như thực thi, an toàn, khả năng lựa chọn, dịch vụ sau khi bán (giúp gói,
giúp đưa ra phương tiện...) và.v.v.... ở công đoạn này, người tiêu dùng sẽ được thoả
mãn nhu cầu của mình hoặc là hàng hoá, dịch vụ, tổ chức, con người, nơi chốn
hoặc tư tưởng.
Như vậy hoạt động Marketing, được phản ánh bởi nhu cầu của người tiêu
dùng và nhu cầu công chúng (consumers and publics).
Nhu cầu của người tiêu dùng thể hiện ở các tính chất và nhu cầu xác định
của người tiêu dùng cá thể, của những người tiêu dùng công nghiệp, của những
người bán buôn, bán lẻ, của các thể chế Nhà nước, của các thị trường quốc tế và
của các thể chế phi lợi nhuận. Một hàng nào đó cũng có thể đáp ứng được một
hoặc tổ hợp những nhu cầu của người tiêu dùng nói trên. Còn nhu cầu công cộng
cũng thể hiện ở tính chất và nhu cầu của một tập hợp đông hơn như người lao
động, của các tổ chức công đoàn, của các cổ đông, của nhóm người tiêu dùng, của
công chúng nói chung, của một số cơ quan Nhà nước... mà những nhu cầu của
những tập hợp này ảnh hưởng tới hoạt động của Công ty. Và Marketing là một quá
trình chỉ được coi là hoàn thành khi mà người tiêu dùng (nói chung cả cá nhân và
công chúng) trao đổi đồng tiền của họ, cam kết chi trả hoặc ủng hộ hành động của
một Công ty, một thể chế, một người... được thực hiện.
Như vậy, nếu xét ở những gốc độ rộng hơn thì khái niệm tiếp thị mà những
người dùng ở Việt Nam hiện nay dường như không thích hợp. Phải chăng trong khi
chờ đợi để tìm một từ tiếng Việt tương đương thì cứ dừng Marketing.
2. Vai trò của Marketing.
Marketing có vai trò to lớn trong nền sản xuất hàng hoá nói chung và cả

trong xã hội phát triển theo định hướng tiêu dùng. Nó có vai trò lớn đối với cả
người sản xuất, cả người tiêu dùng theo nghĩa rộng nhất của nó. Theo quan niệm
về Marketing hiện đại thì không một cá thể nào tồn tại biệt lập với nền sản xuất
hiện hành và cả đối với xã hội mà họ đang sống. Người sản xuất muốn tạo ra được
nhiều lợi nhuận, người bán hàng cũng muốn tạo được nhiều lợi ích, người tiêu
dùng muốn mua được những loại hàng hoá, hàng dịch vụ hợp với nhu cầu và khả
năng thanh toán của mình.v.v.... Nhà chính trị trong các xã hội phát triển muốn tập
hợp những người ủng hộ mình.... và .v.v.... Khi họ muốn tồn tại đều sử dụng
những cách thức đó để thực hiện mục tiêu của mình, có nghĩa là họ đã thực hành
hay tiếp xúc với Marketing.
Marketing là một môn học cần thiết cho nhiều loại người khác nhau, chẳng
hạn họ là người chào hàng, người bán lẻ, người bán buôn, người quản lý sản xuất
các mặt hàng mới, người quảng cáo... thậm chí đối với cả người tiêu dùng trực tiếp
các sản phẩm hàng hoá hoặc dịch vụ.
Hiểu biết Marketing cho phép mỗi chủ thể dù ở vị trí nào trong các khâu của
quá trình tái sản xã hội đều có thể có những giải pháp tối ưu để giải quyết công
việc của mình. Thậm chí trong hoạt động xã hội, Marketing giúp cho chủ thể nắm
bắt được những điều kiện cần thiết nhất để tiến tới mục tiêu của mình.
Marketing là một môn học hấp dẫn vì nó gắn liền với hoạt động thực tiễn
của con người nó mang tính năng động và cập nhật. Chẳng hạn cũng chỉ có một
hàng Coca - Cola nổi tgiếng song việc quảng cáo về sản phẩm này lại rất khác
nhau ở mỗi nước; chính thói quen tiêu dùng, tâm lý của người tiêu dùng, thu nhập
của người tiêu dùng, thậm chí luật lệ của nước sở tại... quy định hình thức quảng
cáo của Coca - Cola.
Marketing ảnh hưởng và gắn liền với cuộc sống hàng ngày của con người
dưới nhiều hình thức góc độ khác nhau, chẳng hạn họ là người tiêu dùng, người
cung cấp hàng hoá và dịch vụ, hoặc là người đầu tư.v.v... Các quy định của
Marketing được thực hiện gắn liền với hoạt động sống khi chúng ta sinh ra (lựa
chọn bác sĩ hay bệnh viện, mua sắm đồ dùng của trẻ sơ sinh), khi chúng ta lớn lên
(lựa chọn một trường học, hay mua sắm một loại ô tô, xe máy thích hợp...). Khi

chúng ta xây dựng một nghề nghiệp (sử dụng quảng cáo như thế nào để thúc đẩy
kinh doanh, phản ứng đối với những đòi hỏi của khách hàng...). Khi chúng ta thích
ứng với cuộc sống hàng ngày (dùng loại thuộc đánh răng gì, mua gạo tám thơm
hay gạo tẻ Nam Bộ...) và khi chúng ta về hưu (chuẩn bị các kế hoạch đi du lịch để
tiêu phí thời gian và tiền bạc, ở đây, sống một mình hay đi nhà dưỡng lão...).
Marketing bao gồm rất nhiều hoạt động liên quan và hỗ trợ cho nhau, chẳng
hạn như thông tin về Marketing, phân tích tiêu dùng, quản trị môi trường, kế hoạch
hoá sản phẩm, kế hoạch phân phối, kế hoạch giá cả, Marketing quốc tế.v.v... và vai
trò của môi trường thay đổi tuỳ thuộc vào sự biến đổi của tình hình thực tiễn liên
quan tới các quyết định của Marketing.
Như vậy để thực hành Marketing đòi hỏi người ta phải sử dụng tổng hợp
các chính sách, các phương pháp hay chung hơn là phải sử dụng một nghệ thuật
kinh doanh thích hợp để đạt mục tiêu.
II - KẾ HOẠCH HÓA MARKETING (MARKETING PLANNING)
1. Kế hoạch hoá là gì?
Ông chủ hãng General Motor rất vui khi về đích năm 1994 với doanh số
đứng đầu nước Mỹ là 155 tỷ USD, nhưng vẫn chưa hài lòng vì trước ông là bốn
"chàng khổng lồ" Nhật Bản, trong đó Mitsubichi đạt doanh số nhât toàn cầu: gần
176 tỷ USD.
Cũng giống các doanh nhân nổi tiếng khác trên thế giới, bí quyết thành công
của ông chính là thành công về kế hoạch hoá chiến lược.
Nhiều chuyên gia Marketing đã nghiên cứu về kế hoạch hoá chiến lược với
những góc độ khác nhau. Một số tác giả đề cập kế hoạch hoá theo góc độ quản lý
(như Kotler): Một số khác có thể nhấn mạnh đến kế hoạch hành động, hoặc
chương trình... Chúng ta có thể đi đến khái niệm sau về kế hoạch hoá (KHH).
Kế hoạch hoá trong Marketing là quá trình quản lý, theo đó toàn bộ chương
trình xây dựng kế hoạch và thực hiện kế hoạch phải dự vào sự kết hợp hài hoà giữa
một bên là môi trường và thị trường với bên kia là khả năng và mục tiêu của doanh
nghiệp nhằm đạt được hiệu quả kinh doanh tối ưu (hình 1).
QUÁ TRÌNH QUẢN LÝ

KẾ HOẠCH HOÁ
Hình 1 - Minh hoạ khái niệm kế hoạch hoá trong Marketing
2. Nội dung kế hoạch Marketing.
a. Mô hình kế hoạch hoá Marketing.
Suốt nhiều thập kỷ qua, những biến động lớn của môi trường và thị trường
đã dẫn tới những thay đổi cơ bản trong quá trình kế hoạch hoá (KHH). Từ những
năm 1950, Marketing ngày càng đóng vai trò quan trọng trong kế hoạch hoá, đặc
biệt là kế hoạch hoá dài hạn nhằm có được những quyết định nhanh chóng và thích
ứng kịp với những cơ may và hiểm hoạ. Kế hoạch hoá không chỉ bao gồm việc
xây dựng kế hoạch mà cả phần quan trọng hơn là thực hiện kế hoạch, không chỉ là
những chính sách hay chiếm lược mà cả chương trình triển khai và kế hoạch hoá
hành động (hình 2).
KHÁCH QUAN
CHỦ QUAN
BÊN TRONGBÊN NGOÀI
Mục tiêuKhả năng
Thị trường Môi trường
Hiệu quả tối ưu
(3) (4)
(2)
()() (5)
(1)
(6)
(12)
(7)
(11) (8)
(10) (9)
Hình 2 - Mô hình tóm tắt kế hoạch hoá Marketing
b. Cơ sở xây dựng kế hoạch hoá.
Gồm những thông tin cần và đủ về môi trường vĩ mô bên ngoài (yếu tố

khách quan) và môi trường vi mô bên trong doanh nghiệp (yếu tố chủ quan) (hình
3).
Môi trường kinh tế Môi trường công nghệ
XÂY DỰNG KẾ HOẠCH
(I + II + III)
Chiến lượcChẩn đoán
Phân tích Chiến lược
v à đánh giá v mà ục tiêu

I II
IV III
H nh à động Khả năng
Doanh nghiệp
Mục tiêu
Mục tiêu
Doanh nghiệp
Chương trình
triển khai
Môi trường và
thị trường
Đầu v oà
Con người
Sửa đổi
Kế hoạch
h nh à động
Thực thi
THỰC HIỆN KẾ HOẠCH
(IV)
Cạnh tranh tiềm t ngà
áp lực của nh cung à ứng

Doanh nghiệp v à đổi thủ cạnh tranh
áp lực của người mua
Sản phẩm thay thế


Môi trường văn hoá
Xã hội
Môi trường Chính phủ luật pháp,
chính trị

Môi trường tự nhiên
Hình 3 - Kết hợp các bộ phận của môi trường vĩ mô và môi trường ngành
Khi hoạch định kế hoạch, quản trị gia phải phân tích kỹ sáu vấn đề lớn - sáu
vấn đề được coi như các nhân tố kết quả chiến lược dưới đây.
* Sự hấp dẫn thị trường như: Mức tăng trưởng thị trường, tỷ lệ xuất khẩu...
* Tình hình cạnh tranh: Phần thị trường tương đối của doanh nghiệp so với
tống ba đổi thủ cạnh tranh lớn nhất.
Phần thị trường tương
đối % doanh nghiệp =
Phần thị trường tuyệt đối của doanh
nghiệp
x 100
Tổng phần thị trường tuyệt đối của
ba đối thủ cạnh tranh lớn nhất
Đây chính là chỉ tiêu mà sử dụng để phân tích cho từng loại sản phẩm của
doanh nghiệp.
* Hiệu quả của các hoạt động đầu tư: cường độ đầu tư, doanh thu trên mỗi
hoạt động đầu tư.
* Sử dụng ngân sách doanh nghiệp: Chi cho Marketing trong doanh thu, hệ
số tăng sản xuất.

* Các đặc điểm của doanh nghiệp như: Quy mô doanh nghiệp, mức độ phân
tán của doanh nghiệp.
* Cuối cùng là phân tích sự thay đổi của các yếu tố: Phần thị trường, liên
kết, giá cả, chất lượng sản phẩm, và sự thay đổi sản lượng.
Trên cơ sở phân tích các vấn đề trên nhằm xác định tỷ suất lợi nhuận so với
tổng vốn kinh doanh của từng đơn vị sản xuất chiến lược của doanh nghiệp (ROI:
Retuon on Investment - Tỷ lệ hoàn vốn đầu tư).
ROI =
Tổng doanh thu
x
Lợi nhuận
x 100 =
Lợi nhuận x 100
Tổng vốn kinh doanh Tổng doanh thu Tổng vốn kinh doanh
Cụ thể hơn, cơ sở xây dựng kế hoạch hoá gồm bốn nội dung chính sau:
- Thông tin về môi trường: Phải phân tích toàn diện và có trọng điểm để rút
ra những ảnh hưởng cốt lõi cho việc xây dựng kế hoạch.
- Kết quả nghiên cứu thị trường: gồm các kết quả phân tích và dự đoán (cảnh
định hướng lẫn định hướng) về cầu, cung, giá cả của những mặt hàng và thị trường
đang quan tâm.
- Đánh giá đầy đủ các yếu tố nguồn lực của bản thân doanh nghiệp.
+ Nhân sự
+ Tài chính
+ Công nghệ
+ Văn hoá
- Khả năng thích ứng của doanh nghiệp trước biến động môi trường và thị
trường như:
+ Khả năng điều hành quản lý
+ Khả năng thích ứng công nghệ mới.
+ Khả năng thích ứng về bốn "P" trong tiếp thị (Marketing)

- Mix...
c. Lựa chọn chiến lược.
- Nhiều tác giả đã kết luận: "kế hoạch Marketing là hiện thân của chiến
lược". Do vậy, chọn chiến lược là nội dung cốt lõi của kế hoạch hoá.
- Tiếp cận các kiểu lựa chọn chiến lược (phân tích môi trường cạnh tranh để
lựa chọn) như:
• BCG (Boston Consulting Group)
• ADL (Arther Doo Little)
• Mc Kinsey
• M.Porter
- Đơn vị kiểu ma trận BCG (lập khung ô) như sau:
Thị phần tương đối (Relative market shore) của SBU
Mạnh
10 1
Yếu
0
Tốc độ
tăng
trưởng
của thị
trường
(của
ngành)
20%
Cao
10%
thấp
0%
Ô 2: Ngôi sao -
Stars

Ô1 Dấu hỏi
Question mark
(lưỡng lự)
?
Ô 3: Túi tiền (cash)
- Bò sữa
Ô 4: Con chó -
Dos
x
Ô 1: Dấu hỏi: Question mark (lưỡng lự)
- Sinh lợi thấp
- Nhu cầu vốn nhiều
- Thị phần thấp
- Tăng trưởng cao...
Cần phân tích kỹ để xây dựng.
Ô 2: Ngôi sao - Stars
- Sinh lợi khá
- Cần vốn nhiều hơn
- Tăng trưởng cao...
- Thị phần cao
Vậy nên duy trì
Ô 3: Túi tiền (cash) - Bò sữa (cow)
- Sinh lợi cao
- Cần vốn vừa
- Thị phần cao
- Tăng trưởng thấp
Cần khai thác đúng lúc
Ô 4: Con chó - Dos
- Sinh lợi thấp
- Cần vốn ít

- Thị phần thấp
- Tăng trưởng thấp
Cần loại bỏ đúng lúc.
Ví dụ:
Một doanh nghiệp có năng lực sản xuất tối đa là 15.000 sản phẩm X/ tháng.
Hiện tại mỗi thàng doanh nghiệp chỉ tiêu thụ được 12.000 sản phẩm với giá
7.500đ/sản phẩm. Biết rằng chi phí biến đổi cho một đơn vị sản phẩm là
4.500đ/sản phẩm và tổng chi phí cố định là 27 triệu đồng. Để tận dụng tối đa năng
lực sản xuất sản phẩm X doanh nghiệp dự kiến ba phương án sau:
Phương án 1: Tăng cường đầu tư cho mạng lưới tiêu thụ và nâng cao chất
lượng sản phẩm hết 7,5 triệu đồng.
Phương án 2: Phương án của bộ phận tiếp thị đề nghị giảm giá bán
200đ/sản phẩm và tăng chi phí quảng cáo ba triệu đồng.
Phương án 3: Một khách hàng đặt thêm 3000 sản phẩm X/ tháng với điều
kiện giảm giá 20% và phải chuyên chở đến tận nơi theo yêu cầu chi phí vận chuyển
hết 1,5 triệu đồng.
Các phương án này độc lập với nhau. Nếu cả ba phương án có thể thực hiện
được thì chủ doanh nghiệp nên chọn phương án nào và vì sao?
Biết rằng doanh nghiệp có thị phần tương đối trên thị trường của sản phẩm X
là 1,5 và tốc độ tăng trưởng là 8%.
Giải pháp phân tích và lựa chọn
- Năng lực sản xuất đối đa: 15.000sản phẩm/ tháng
- Chỉ tiêu thụ: 12.000sản phẩm/ tháng
- Chi phí biến đổi: 4.500đ/sản phẩm với 7.500đ/sản phẩm
- Tổng chi phí cố định: 27 triệu
Để tận dụng tối đa năng lực sản xuất sản phẩm X, doanh nghiệp dự kiến ba
phương án:
Sản
phẩm
Năng lực sản

xuất
Năng lực
tiêu thụ
Giá bán
Chi phí biến
đổi cho 1
đơn vị sản
phẩm (V)
Tổng chi
phí cố
định (c)
Tổng chi
phí tăng
thêm
Sản
phẩm X
15.000sp
/tháng
12.000sp/
tháng
7.500đ/sp 4.500đ/sp 27 triệu
P. án 1
15.000sp
/tháng
7.500đ/sp 4.500đ/sp 27 triệu 7,5 triệu
P. án 2
15.000sp
/tháng
7.300đ/sp 4.500đ/sp 27 triệu 3 triệu
P. án 3 3000 sp

12.000sp/
tháng
6.000đ/sp 4.500đ/sp 27 triệu 1,5 triệu
Công thức:
∑ DT = ∑ Q tiêu thụ x P bán
∑ Chi phí = ∑Z sản phẩm = V x q tiêu thụ + C + ∑ Chi phí tăng thêm
= Z1 sản phẩm x ∑ q tiêu thụ
∑ Lợi nhuận = ∑ Doanh thu - ∑ Chi phí
Trong đó:
V: Chi phí biến đổi cho 1 đơn vị sản phẩm
C: Chi phí cố định
Phương án 1:
∑ DT = 15.000 sản phẩm x 7.500đ/sản phẩm = 112,5 triệu
∑ CP = 15.000sản phẩm x 4.500đ/sản phẩm + 27 + 7,5 = 102 triệu
∑ LN = 112,5 - 102 = 10,5 triệu
Phương án 2:
∑ DT = 15.000 sản phẩm x 7.300đ/sản phẩm = 109,5 triệu
∑ CP = 15.000sản phẩm x 4.500đ/sản phẩm + 27 + 3 = 97,5 triệu

×