Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc của đồng bào dân tộc h’ mông tại xã trung lèng hồ, huyện bát xát, tỉnh lào cai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.66 MB, 85 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
----------------------

VÀNG VĂN TRUNG

NGHIÊN CỨU TRI THỨC BẢN ĐỊA SỬ DỤNG CÂY THUỐC CỦA
CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC H’MÔNG TẠI XÃ TRUNG LÈNG HỒ,
HUYỆN BÁT XÁT, TỈNH LÀO CAI

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Hệ đào tạo

: Chính quy

Chuyên ngành

: Quản lý Tài nguyên rừng

Khoa

: Lâm nghiệp

Khóa học

: 2015 – 2019

Thái Nguyên, năm 2019



ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
----------------------

VÀNG VĂN TRUNG
NGHIÊN CỨU TRI THỨC BẢN ĐỊA SỬ DỤNG CÂY THUỐC
CỦA ĐỒNG BÀO DÂN TỘC H’MÔNG TẠI XÃ TRUNG LÈNG HỒ,
HUYỆN BÁT XÁT, TỈNH LÀO CAI

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Hệ đào tạo

: Chính quy

Chuyên ngành

: Quản lý Tài nguyên rừng

Lớp

: K46 - QLTNR

Khoa

: Lâm nghiệp

Khóa học

: 2015 - 2019


Giảng viên hướng dẫn : 1. Th.S Đào Hồng Thuận
2. T.S Nguyễn Thị Thu Hiền

Thái Nguyên, năm 2019


i

LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đay là cơng trình nghiên cứu khoa học của bản thân
tôi. Các số liệu và kết quả nghiên cứu là quá trình điều tra trên thực địa hồn
tồn trung thực, chưa cơng bố trên các tài liệu, nếu có gì sai tơi xin chịu trách
nhiệm hoàn toàn.

Thái Nguyên, tháng 06 năm2019
XÁC NHẬNCỦA GVHD

Người viết cam đoan

Vàng Văn Trung

XÁC NHẬN CỦA GV CHẤM PHẢN BIỆN
Xác nhận đã sửa chữa sai sót sau khi Hội đồng đánh giá chấm


ii

LỜI CẢM ƠN
Được sự phân công của Nhà trường, Khoa Lâm Nghiệp, Trường Đại học

Nông Lâm Thái Nguyên, sau 5 tháng thực tập em đã hồn thành khóa luận tốt
nghiệp “Nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc của đồng bào dân
tộc H’ Mông tại xã Trung Lèng Hồ, Huyện Bát Xát, Tỉnh Lào Cai”.
Để hoàn thành nhiệm vụ được giao, ngoài sự nỗ lực học hỏi của bản thân
cịn có sự hướng dẫn tận tình của thầy cô, bạn bè, cô chú, anh chị tại địa bàn
xã Trung Lèng Hồ, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai.
Xin cảm ơn cô giáo – TS. Nguyễn Thị Thu Hiền, Ths. Đào Hồng Thuận
người đã hướng dẫn cho em trong suốt thời gian thực tập đã chỉ dẫn, định
hướng đi cho em để em hoàn thành tốt nhiệm vụ. Xin cảm ơn sự giúp đỡ của
cán bộ Ủy ban Nhân dân xã Trung Lèng Hồ, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai và
cán bộ Kiểm lâm Khu bảo tồn thiên nhiên Bát Xát, cùng sự chỉ bảo tận tình
của các thầy lang, bà mế thuộc xã Trung Lèng Hồ.
Đồng thời xin cảm ơn thầy cô giáo Khoa Lâm nghiệp, các bộ phận liên
quan thuộc Trường và người thân trong gia đình cùng bạn bè thân thiết đã
giúp đỡ tơi trong q trình hồn thành khóa luận tốt nghiệp.
Mặc dù đã nỗ lực cố gắng, tuy nhiên do hạn chế về kinh nghiệm cũng
như về thời gian và trình độ nghiên cứu nên khóa luận tốt nghiệp khơng thể
tránh khỏi thiếu sót. Tơi rất mong nhận được những ý kiến góp ý, chỉ bảo của
thầy cô cũng như các bạn đọc khác để khóa luận được hồn thiện hơn nữa.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, tháng 05 năm 2019
Sinh viên
Vàng Văn Trung


iii

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 3.1. Mẫu bảng điều tra nguồn cây thuốc được cộng đồng dân tộc

H’Mông ở khu vực nghiên cứu ..................................................... 25
Bảng 4.1: Số loài cây thuốc đã phát hiện được ở KVNC ............................... 29
Bảng 4.2. Số lượng họ, chi, loài thuộc hai lớp trong ngành Ngọc lan............ 30
Bảng 4.3. Sự phân bố số lượng loài cây thuốc trong các họ........................... 32
Bảng 4.4. So sánh các họ có nhiều loài cây thuốc ở khu vực nghiên cứu (1)
với số loài của từng họ trong hệ hệ thực vật Việt Nam (2) .......... 33
Bảng 4.5. Thống kê các chi có nhiều lồi được sử dụng làm thuốc ............... 33
Bảng 4.6. Đa dạng về dạng sống của nguồn cây thuốc ở khu vực nghiên cứu..... 35
Bảng 4.7. Sự phân bố nguồn cây thuốc theo môi trường sống ở khu vực
nghiên cứu ..................................................................................... 37
Bảng 4.8. danh lục cây thuốc thuộc diện cần bảo tồn ghi nhận ...................... 40
Bảng 4.9. Đa dạng của các bộ phận cây được sử dụng làm thuốc trong cộng
đồng dân tộc H’Mông ................................................................... 41
Bản 4.10. Đa dạng tần số các bộ phận cây được sử dụng làm thuốc trong cộng
đồng dân tộc H’Mông ................................................................... 43
Bảng 4.11. Tỷ lệ số lồi có cơng dụng chữa các nhóm bệnh cụ thể ............... 45
Bảng 4.12. Hoạt tính kháng khuẩn của cao chiết từ cây Dây nối xươngvà Sâm
quy đá ............................................................................................ 48


iv

DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 3.1. Các dụng cụ sử dụng cho nghiên cứu trong đề tài .......................... 26
Hình 4.1. Hình tỷ lệ các dạng sống của nguồn cây thuốc ở khu vực nghiên
cứu. ................................................................................................ 37
Hình 4.2. Hình Sự phân bố cây thuốc theo môi trường sống của nguồn cây
thuốc tại khu vực nghiên cứu. ....................................................... 39
Hình 4.3. Hình đa dạng của các bộ phận cây được sử dụng làm thuốc trong
cộng đồng dân tộc H’Mơng .......................................................... 43

Hình 4.4.Hình đa dạng tần số các bộ phận cây thuốc được sử dụng trong cộng
đồng dân tộc H’Mông tại khu vực nghiên cứu. ............................ 44
Hình 4.5. Hình ảnh hoạt tính ức chế S. aureus và E. coli của cây Sâm đá và
cây Dây nối xương ........................................................................ 49


v

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ cái viết tắt/ký hiệu

Cụm từ đầy đủ

Cc

Cả cây

Đ

Sống ở đồi

Ha

Quả, hoa

HTKK

Hoạt tính kháng khuẩn


KBT

Khu bảo tồn

KVNC

Khu vực nghiên cứu

KH&CN

Khoa học & công nghệ

L



Lp

Dây leo

Me

Cây gỗ trung bình

Mi

Cây gỗ nhỏ

Na


Cây bụi

NCTN & MT

Nghiên cứu tài ngun & mơi trường

NĐ - CP

Nghị định Chính phủ

Pp

Kí sinh và bán kí sinh

R

Rễ

R

Sống ở rừng

ST & TNSV

Sinh thái & tài nguyên sinh vật

Th

Thân thảo/thân


UBND

Ủy ban nhân dân

V

Vỏ

Vs

Sống ven sông ven suối

Vu

Sống ở vườn


vi

MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .............................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN ................................................................................................................ ii
DANH MỤC CÁC BẢNG ..........................................................................................iii
DANH MỤC CÁC HÌNH ........................................................................................... iv
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ......................................................................... v
MỤC LỤC ..................................................................................................................... vi
PHẦN 1. MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1
1.1. Tính cấp thiết của đề tài.......................................................................................... 1
1.2. Mục tiêu và yêu cầu của đề tài............................................................................... 2
1.3. Ý nghĩa của đề tài ................................................................................................... 3

1.3.1. Ý nghĩa về mặt khoa học .................................................................................... 3
1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn.................................................................................................. 3
PHẦN 2. TỔNG QUAN VẪN ĐỀ NGHIÊN CỨU............................................... 4
2.1. Cơ sở khoa học của vấn đề nghiên cứu ................................................................ 4
2.2. Tình hình nghiên cứu trên thế giới và trong nước ............................................... 5
2.2.1. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc trên thế giới................................ 5
2.2.2. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc ở trong nước ............................ 12
2.3. Tổng quan khu vực nghiên cứu ........................................................................... 19
2.3.1. Điều kiện tự nhiên khu vực nghiên cứu .......................................................... 19
2.3.2. Điều kiện kinh tế - xã hội khu vực nghiên cứu[26] ........................................ 22
PHẦN 3. ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU ..................................................................................................... 23
3.1. Đối tượng, phạm vi thời gian và địa điểm nghiên cứu ...................................... 23
3.2. Nội dung nghiên cứu ............................................................................................ 23
3.3. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................................... 24


vii

3.3.1. Phương pháp kế thừa ......................................................................................... 24
3.3.2. Phương pháp điều tra cộng đồng...................................................................... 24
3.3.3. Phương pháp thu mẫu ....................................................................................... 25
3.3.4.Phương pháp đánh giá tính đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc.................. 26
3.3.5. Phương pháp đánh giá mức độ nguy cấp ........................................................ 27
3.3.6. Phương pháp nghiên cứuhoạt tính kháng khuẩn ............................................ 27
PHẦN 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN .................................. 29
4.1. Đa dạng nguồn cây thuốc sử dụng trong cộng đồng dân tộc H,Mông tại xã
Trung Lèng Hồ, Huyện Bát Xát, Tỉnh Lào Cai......................................................... 29
4.1.1. Đa dạng các bậc taxon....................................................................................... 29
4.1.2 Đa dang về dạng sống của nguồn cây thuốc .................................................... 35

4.1.3. Đa dạng về môi trường sống của nguồn cây thuốc ........................................ 37
4.1.4. Những cây thuốc thuộc diện cần bảo tồn ở Việt Nam đã được ghi nhận
được tại xã Trung Lèng Hồ, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai. ...................................... 39
4.2. Đánh giá tình hình sử dụng cây thuốc của cộng đồng dân dộc H’Mông tại xã
Trung Lèng Hồ, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai ........................................................... 41
4.2.1. Đa dạng về bộ phận sử dụng của cây thuốc. ................................................... 41
4.2.2. Đa dạng về cơng dụng chữa bệnh của các lồi cây thuốc.............................. 44
4.3. Đánh giá hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc được sử dụng trong
cộng đồng dân tộc H’Mông khu vực nghiên cứu. .................................................... 47
Phần 5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ .................................................................. 50
5.1. Kết luận .................................................................................................................. 50
5.2. Tồn tại .................................................................................................................... 51
5.3. Kiến nghị ............................................................................................................... 51
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................... 53
PHỤ LỤC


1
PHẦN 1
MỞ ĐẦU

1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là một quốc gia có 3/4 diện tích đồi núi, là nơi có nguồn tài
nguyên cây thuốc đa dạng và là nơi cư trú của 54 dân tộc mà phần lớn là dân
tộc thiểu số với khoảng 24 triệu người, chiếm hơn 1/3 dân số quốc gia (Trần
Thúy và cộng sự, 2005) [26]. Chính sự đa dạng về dân tộc người cùng với
sự khác biệt về điều kiện, thổ nhưỡng, khí hậu, phong tục tập qn, văn hóa
từng cộng đồng dân tộc đã tạo nên sự đa dạng và phong phú trong vốn tri
thức dân gian về kinh nghiệm sử dụng cây cỏ xung quanh mình làm cây
thuốc chữa bệnh.

Cây thuốc dân gian từ lâu đời đã được nhiều người quan tâm đến, đây là
một nguồn tài nguyên thực vật có giá trị thiết thực cho các cộng đồng địa
phương trong việc phịng chữa bệnh, ngồi ra nó cịn có giá trị trong việc bảo
tồn nguồn gen, cũng cấp cho lĩnh vực dược học.
Việt Nam được đánh giá là nước có nguồn tài nguyên sinh vật đa dạng
và phong phú, trong đó có nguồn tài nguyên cây thuốc, đặc biệt là khu vực
Trường Sơn. Thêm vào đó với những kinh ghiệm đã được tích lũy qua 4000
năm lịch sử, đã sử dụng nguồn tài nguyên phục vụ co nhu cầu cuộc sống từ
ăn, mặc, ở, chăm sóc sức khỏe, chữa bệnh,… của cộng đồng 54 dân tộc anh
em. Đó là một ưu thế lớn trong việc sử dụng nguồn tài nguyên thực vật trong
đó có nguồn tài nguyên cây thuốc góp phần nâng cao đời sống và sức khỏe
của mọi người đặc biệt là các cộng đồng Dân tộc thiểu số ở các vùng sau,
vùng xa nơi cuộc sống của họ gặp nhiều khó khăn phụ thuộc rất nhiều vào
nguồn tài nguyên thiên nhiên trong đó có rừng .
Bằng những kinh nghiệm dân gian của những người làm thuốc trong mỗi
dân tộ, những tri thức về cây thuốc được truyền miệng và lưu truyền cho con
cháu đời sau, từ thế hệ này qua thế hệ khác. Trải qua thời gian, các bài thuốc


2

có tính độc đáo và trở nên thơng dụng trong vuệc chăm sóc sức khỏe người
dân của cộng đồng mình và những dân tộc xung quanh. Vì vậy, đã có rất
nhiều những cơng trình nghiên cứu và bảo tồn cây thuốc cũng như bảo tồn tri
thức y học dân gian được tiến hành và mang lại giá trị khoa học và thực tiễn.
Xã Trung Lèng Hồ thuộc vùng lõi của Khu bảo tồn thiên nhiên huyện
Bát Xát, tỉnh Lào Cai, là một vùng đất giàu tài nguyên, khí hậu nhiệt đới ẩm,
có thảm thực vật rất đa dạng và phong phú, Trong đó, cộng đồng dân tộc
H’Mơng ở xã Trung Lèng Hồ, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai cũng có nhiều
kinh nghiệm độc đáo về việc chữa bệnh bằng cây thuốc, Tuy nhiên, hiện nay

điều kiện kinh tế còn thiếu thốn, khó khăn, tri thức người dân chưa cao, và
diện tích rừng ngày càng bị thu hẹp, tình trạng khai thác, mua bán diễn ra một
cách phức tạp, dẫn đến nguồn tài nguyên cây thuốc ngày càng bị suy giảm.
Mặt khác những bài thuốc được cộng đồng dân tộc H’Mông sử dụng từ lâu
đời trong việc phòng và trị một số bệnh nhưng hoạt tính sinh học và cơ sở
khoa học của các bài thuốc chưa được nghiên cứu, chứng minh bằng con
đường khoa học. Vì vậy, để cung cấp các cơ sở khoa học góp phần bảo vệ
nguồn gen cây thuốc, bảo tồn và phát triển các bài thuốc của cộng đồng dân
tộc H’Mông tại xã Trung Lèng Hồ - huyện Bát Xát, tôi đề xuất ý tưởng đề tài
“Nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc của dân tộc H’Mông tại xã
Trung Lèng Hồ, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai”.
1.2. Mục tiêu và yêu cầu của đề tài
- Đánh giá được tính đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc và kinh
nghiệm sử dụng cây thuốc của cộng đồng dân tộc H’Mông tại xã Trung Lèng
Hồ, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai.
- Đánh giá được hoạt tính kháng khuẩn của một số lồi cây thuốc có giá
trị cao được cộng đồng dân tộc H’Mông tại xã Trung Lèng Hồ, huyện Bát
Xát, Tỉnh Lào Cai sử dụng trong phòng và trị bệnh.


3

- Xác định được những cây thuốc thuộc diện quý hiếm ở Việt Nam, hiện
có ở khu vực nghiên cứu.
1.3. Ý nghĩa của đề tài
1.3.1. Ý nghĩa về mặt khoa học
- Xác định tri thức bản địa sử dụng các lồi cây thuốc của cộng đồng dân
tộc H’Mơng tại xã Trung Lèng Hồ, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai.
- Xác định được hoạt tính kháng khuẩn của một số lồi cây thuốc có giá
trị cao tại khu vực nghiên cứu.

1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Kết quả thu được sẽ là cơ sở thực tiễn cho việc đề xuất công tác bảo tồn
và phát triển nguồn gen cây thuốc của cộng đồng dân tộc H’Mông tại xã
Trung Lèng Hồ, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai.


4

PHẦN 2
TỔNG QUAN VẪN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Cơ sở khoa học của vấn đề nghiên cứu
Cây làm thuốc đã được con người biết đến và sử dụng từ rất lâu đời. với
các lồi cây có sẵn trong tự nhiên, bằng những kinh nghiệm đúc rút từ đời này
ra đời khác con người đã để lại cho hiện tại một kho tàng kinh nghiệm sử
dụng cây thuốc hết sức phong phú và hiệu quả. Trong xa hội phát triển hiện
nay, các thuốc có nguồi gốc tổng hợp hóa học đã phát huy được thế mạnh
trong phòng và điều trị bệnh. Xong các loại thuốc này thường có độc tính và
gây nhiều tác dụng phụ khơng mong muốn. chính vì vậy con người có xu
hướng tìm trở lại các loại thuốc có nguồn gốc thảo mộc mà cơ thể con người
dễ hấp thụ và đào thải. Ngày nay cây thuốc (Cây dược liệu) được sử dụng như
là những vị thuốc, phương thuốc chữa bệnh hiệu nhiệm, thậm trí chữa các
bệnh hiểm nghèo, nan y. Theo tổ chức y tế Thế giới, 80% dân số ở các nước
đang phát triển việc chăm sóc sức khỏe ít nhiều liên quan đến Y học cổ truyền
hoặc thuốc từ dược thảo truyền thống để bảo vệ sức khỏe. Trong vài thập kỷ
gần đây, các nước trên Thế giới đang đẩy mạnh việc nghiên cứu, bào chế và
sản xuất các chế phẩm có nguồn gốc thiên nhiên từ cây thuốc để hố trợ, phòng
ngừa và điều trị bệnh. Theo thống kê của WHO, ở Trung Quốc doanh số thi
trường thuốc từ dược liệu đạt 26 tỷ USD (2008, tăng trưởng hàng năm đạt 20
%),Mỹ đạt 17 tỷ USD (2004), Nhật Bản đạt 1,1 tỷ USD (2006), Hàn Quốc
250 triệu USD (2007), Châu Âu đạt 4,55 tỷ Euro (2004),… Tính trên tồn

Thế Giới, hàng trăm doanh thu thuốc từ dược liệu ước đạt khoảng trên 80 tỷ
USD. Cây thuốc (Cây Dược Liệu) ngày càng có vị trí quan trọng không
những trong y học đẻ chữa bệnh và bồi bổ sức khỏe cho con người mà giá trị
kinh tế của cây thuốc cũng ngầy càng có vị thế và được xem như là “ Cây
công nghiệp cao cấp ”.


5

Hiện nay, mạc dù việc trồng, chế biến và sử dụng cây thuốc (Cây dược
liệu) ở Việt Nam ngày càng phát triển rộng dãi do nhu cầu gia tăng, nhưng kỹ
thuật trồng cây thuốc ở các vùng sản xuất chủ yếu mang tính kinh nghiệm.
Việc sử dụng giống phân bón, thuốc bảo vệ thức vật, nguồn nước tưới… Còn
tùy tiện. công tác tuyển trọn giống cây thuốc chưa được quan tâm và thiếu
chuyên gia nên năng suất và chất lượng chưa tốt. để khắc phục và những bất
cập này rất cần đến đội ngũ cán bộ kỹ thuật được đào tạo bài bản là cơ sỏ
vững chắc giúp ứng dụng khoa học công nghệ mới vào sảng xuất cây dược
liệu và là hướng đi tất yếu giúp các vùng sản xuất cây dược liệu tăng nhanh
sản lượng và chất lượng dược liệu đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng xã hội.
Vậy, nghiên cứu về các loài cây thuốc là hết sức cần thiết cho việc bảo tồn và
phát triển các lồi cây thuốc và bài thuốc cho thế hệ hơm nay và mai sau.
2.2. Tình hình nghiên cứu trên thế giới và trong nước
2.2.1. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc trên thế giới
Tổ tiên loài người từ khi xuất hiện đã gắn bó với thiên nhiên, trải qua
quá trình đấu tranh với thiên nhiên và bệnh tật để sinh tồn. Trong q trình
đó, tổ tiên chúng ta ngay từ khi còn là các tộc người đã sớm phát hiện ra
những cây cỏ trong tự nhiên có thể sử dụng làm thuốc, đồng thời trong
cuộc sống lao động, đấu tranh với bệnh tật đã sáng tạo ra những bài thuốc
và phương pháp chữa bệnh.
Trong những năm gần đây, những nghiên cứu về sử dụng cây thuốc cho

mục đích chữa bệnh của người dân bản địa ở các khu vực, các quốc gia được
các nhà khoa học thực hiện trên khắp các châu lục trên thế giới:
Ở Châu Á:
Châu Á là châu lục có nhiều dân tộc bản địa sinh sống, với vốn tri thức
bản địa về việc sử dụng các loài thực vật làm thuốc phong phú và đa dạng, đã
có những nghiên cứu cụ thể ở các cộng đồng người, các khu vực khác nhau như:


6

Sanjay Kr Uniyal và cộng sự (2006) [62] khi nghiên cứu về sử dụng kinh
nghiệm sử dụng cây thuốc giữa các cộng đồng của vùng Chho Bhangal, phía
Tây dãy Hymalaya đã tìm thấy 35 lồi thực vật thường được người dân địa
phương sử dụng trong việc chữa các bệnh khác nhau.
Yanchun Liu và cộng sự (2009) [69], đã ghi nhận và thu thập 68 loài cây
thuốc trong 64 chi thuộc 40 họ được người Tây Tạng sử dụng để chữa các
bệnh khác nhau.
Manju Panghal và cộng sự (2010) [51] khi nghiên cứu kiến thức bản địa
về cây thuốc được sử dụng ở cộng đồng Saperas của làng Khetawas, quận
Jhajjar, Haryana, Ấn Độ đã tìm thấy 57 lồi thực vật thuộc 51 chi và 35 họ
được người dân sử dụng để điều trị các bệnh khác nhau, theo nghiên cứu này
cây thuốc được cộng đồng Saperas sử dụng nhiều nhất là các cây thuộc họ
Fabaceae.
Arshad Abbasi và cộng sự (2013) [35] khi thẩm định về thực vật học và
các giá trị văn hóa của các loại rau ăn được hoang dã quan trọng trong y học
của Lesser dãy Hymalaya đã ghi nhận 45 loại rau ăn được hoang dã thuộc 38
chi và 24 họ đã được người dân sử dụng để điều trị các bệnh khác nhau và
tiêu thụ.
Mi-Jang Song và cộng sự (2013) [56] khảo sát cây thuốc ở đảo Jeju, Hàn
Quốc đã tìm thấy 171 lồi thực vật thuộc 141 chi và 68 họ, 777 cách sử dụng

các loài cây thuốc của người dân bản địa được ghi lại.
Auemporn Junsongduang và cộng sự (2013) [36] nghiên cứu về cây
thuốc từ nương rẫy và rừng thiêng của dân tộc Karen và Lawa ở Thái Lanđã
chỉ ra 365 loài thực vật thuộc 244 chi và 82 họ được sử dụng làm thuốc, trong
đó các cây thuộc họ Euphorbiaceae và Lauraceae được người dân sử dụng
nhiều nhất.


7

Naveed Akhtar và cộng sự (2013) [59] nghiên cứu về đa dạng và sử
dụng cây thuốc dân tộc trong khu vực Swat, Bắc Pakistan đã ghi nhận 106
loài thực vật thuộc 54 họ được người dân bản địa sử dụng để điều trị bệnh.
Homervergel G. Ong và Young - Dong Kim (2014) [48] nghiên cứu về
thực vật học định lượng của các cây thuốc được sử dụng bởi các nhóm bản
địa Ati Negrito ở đảo Guimaras, Philippin đã tìm thấy 142 loài cây dược liệu
thuộc 55 họ được sử dụng trong 16 loại bệnh.
Tahira Bibia và cộng sự (2014) [65] nghiên cứu thực vật dân tộc của
cây thuốc ở quận Mastung của tỉnh Balochistan, Pakistan đã chỉ ra 102
loài thực vật thuộc 47 họ được người dân sử dụng cho mục đích điều trị
các loại bệnh khác nhau.
Mi-Jang Song và cộng sự (2014) [57] khi điều tra và phân tích các kiến
thức truyền thống về cây thuốc được sử dụng bởi các cư dân tại Vườn quốc
gia (VQG) Gayasan, Hàn Quốc đã điều tra và thống kê 200 loài thực vật
thuộc 168 chi và 87 họ được các cư dân sử dụng để điều trị các loại bệnh khác
nhau như: rối loạn cơ xương, đau nhức, rối loạn hệ hô hấp, bệnh gan và các
vết cắt vết thương.
Dol Luitel và cộng sự (2014) [43] khi nghiên cứu cây thuốc được sử
dụng bởi cộng đồng người Tamang ở quận Makawanpur của Trung tâm
Nepalđã tìm thấy 161 lồi thực vật thuộc 144 chi và 86 họ đã được người dân

sử dụng để điều trị các loại bệnh khác nhau.
Ở Châu Âu:
Y học dân gian châu Âu có một lịch sử lâu dài, những tri thức dân gian
bản địa được truyền lại cho các thế hệ sau bằng việc ghi chép lại và thông
qua truyền miệng qua nhiều thế kỉ (Evidence-Based Complementary và
cộng sự, 2012) [40]. Những năm gần đây, đã có nhiều cơng trình nghiên
cứu khoa học về việc sử dụng các loài thực vật để điều trị các loại bệnh của
người dân bản địa được thực hiện:


8

Joana Camejo – Rodrigues và cộng sự (2004) [49] khi nghiên cứu về
thực vật học của cây thuốc trong công viên tự nhiên của Sera de Saox
Mamede, Bồ Đào Nha đã cung cấp thơng tin của 165 lồi thực vật được sử
dụng để điều trị các bệnh khác nhau.
Maria Leporatti và cộng sự (2007) [52] khi nghiên cứu về một số công
dụng của cây thuốc trong khu vực Alto Tirreno Cosentino, Calabria, miền
Nam nước Ý đã chỉ ra 52 loài thực vật thuộc 35 họ được người dân sử dụng
để điều trị các loại bệnh chủ yếu như: bệnh ngoài da, bệnh về đường hô hấp,
đau răng, sâu răng và đau thấp khớp.
Montse Parada và cộng sự (2009) [58] nghiên cứu thực vật dân tộc của
khu vực Alt Empordaf, Catalonia, bán đảo Iberia đã tìm thấy trên 518 lồi
thực vật thuộc 335 chi và 80 họ được người dân sử dụng để điều trị các bệnh
khác nhau.
Maria Leporatti và Kamel Gheddira (2009) [53] khi phân tích so sánh
các cây thuốc được sử dụng trong y học cổ truyền tại Ý và Tunisia đã ghi
nhận 153 loài thực vật thuộc 60 họ được người dân sử dụng trong việc điều trị
các bệnh khác nhau.
Ugur Cakilcioglu và cộng sự (2011) [67] khi khảo sát cây thuốc ở

Maden, Elazig, Thổ Nhĩ Kỳ đã tìm thấy 88 lồi thực vật thuộc 41 họ được sử
dụng cho mục đích điều trị bệnh.
Behxhet Mustafa và cộng sự (2012) [38] nghiên cứu về các loài thực vật
được sử dụng làm thuốc của dãy núi Alps Albania ở Kosovo đã ghi nhận 98
loài thực vật thuộc 39 họ được người dân sử dụng để điều trị các loại bệnh
khác nhau, trong đó các cây được sử dụng nhiều nhất chủ yếu thuộc các họ
Rosaceae, Asteraceae và Lamiaceae.
Seyid Ahmet Sargin và cộng sự (2013) [63] nghiên cứu về các loài cây
thuốc được sử dụng bởi người dân địa phương của Alasehir, Manisa, Thổ Nhĩ


9

Kỳ đã thu thập được 137 loài thực vật được người dân bản địa sử dụng để
điều trị các bệnh khác nhau.
Gorka Menedez-Baceta và cộng sự (2014) [47] nghiên cứu về cây dược
liệu truyền thống được sử dụng ở phía Tây Bắc của xứ Basque, bán đảo
Iberiađã chỉ ra 139 loài thực vật thuộc 58 họ được người dân sử dụng để điều
trị bệnh, trong đó các cây được sử sụng nhiều nhất thuộc họ Asteraceae.
Ở Châu Mĩ:
Việc nghiên cứu về việc sử dụng cây thuốc của người dân bản địa cũng
được thực hiện:
Rainer W Bussmann và Douglas Sharon năm (2006) [61] nghiên cứu về
sử dụng cây thuốc cổ truyền ở miền Bắc Peru đã ghi nhận 510 loài thực vật
được người dân địa phương sử dụng để điều trị bệnh, các cây thuộc các họ
được sử dụng nhiều nhất là: Asteraceae, Fabaceae, Lamiaceae, Solanaceae,
Euphorbiaceae và Poaceae.
Cecilia Almeida và cộng sự (2006) [41] nghiên cứu cây thuốc phổ biến
được sử dụng trong các khu vực Xingo – một khu vực khơ hạn ở Đơng Bắc
Brazil đã tìm thấy 187 lồi thực vật thuộc 128 chi và 64 họ được người dân sử

dụng để điều trị các bệnh: cảm lạnh thông thường, viêm phế quản, bệnh tim
mạch, bệnh thận, viêm và an thần.
Gabriele Volpato và cộng sự (2009) [45] nghiên cứu sử dụng cây thuốc
của người nhập cư Haiti và con cháu của họ ở tỉnh Camaguey, Cuba đã chỉ ra
123 loài thực vật thuộc 112 chi và 63 họ được người nhập cư Haiti sử dụng để
điều trị các bệnh khác nhau.
Gaia Luziatelli và cộng sự (2010) [46] nghiên cứu cây thuốc của cộng
đồng Ashaninka (một nghiên cứu từ các cộng đồng bản địa của Bajo
Quimiriki, Junin, Peru đã tìm thấy 402 loài thực vật được cộng đồng sử dụng
để điều trị các loại bệnh, trong đó các cây được sử dụng nhiều nhất chủ yếu


10

thuộc các họ: Asteraceae, Araceae, Rubiaceae, Euphorbiaceae, Solanaceae và
Piperaceae.
Yadav Uprety và cộng sự (2012) [68] nghiên cứu sử dụng cây thuốc
trong rừng phương Bắc của Canada đã điều tra và thống kê 546 loài cây thuốc
được sử dụng bởi những người thổ dân của rừng phương bắc Canada, các loại
cây thuốc này được sử dụng để điều trị 28 bệnh và triệu chứng rối loạn khác
nhau, trong đó các cây thuốc được sử dụng để chữa bệnh rối loạn dạ dày –
ruột, rối loạn cơ xương là chủ yếu.
Theo nghiên cứu “Thực vật dân tộc của người dân Rayones, Nuevo
León, Mexico” năm 2014, đã ghi nhận 252 loài thực vật thuộc 228 chi và 91
họ được người dân Rayones sử dụng để điều trị các bệnh, trong đó các họ
được sử dụng chủ yếu là: Asteraceae và Fabaceae (Eduardo Estrada-Castillón
và cộng sự, 2014) [44].
Nghiên cứu “Cây thuốc trong bối cảnh văn hóa của một cộng đồng
Mapuche – Tehuelche trong thảo nguyên Datagonia Argentina” đã chỉ ra 121
loài thực vật được cộng đồng sử dụng để điều trị các bệnh liên quan đến tiêu

hóa, hơ hấp, tim mạch, giảm đau, chống viêm, sản khoa, phụ khoa và sinh dục
(Soledad Molares và Ana Ladio, 2014) [64].
Ở Châu Phi:
Người dân Châu Phi đã sử dụng cây thuốc bản địa hàng nghìn năm nay
để bảo vệ sức khỏe của họ, những nghiên cứu gần đây cho thấy việc sử dụng
cây thuốc của những người dân bản địa ở châu Phi rất đa dạng và phong phú
(Cây thuốc Châu Phi, 2013) [35]:
Rainer W Bussmann (2006) [60] nghiên cứu về thực vật dân tộc của
Samburu ở Nam Turkana, Kenya đã thống kê được 448 loài thực vật mà
người dân bản địa sử dụng để điều trị các bệnh khác nhau.
Tilahun Teklehaymanot và Mirutse Giday (2007) [66] nghiên cứu về
thực vật học của cây thuốc được sử dụng bởi người dân ở Zegie Peninsula,


11

Tây Bắc Ethiopia đã ghi nhận 67 loài cây thuốc thuộc 64 chi và 42 họ được
người dân sử dụng để điều trị các bệnh liên quan đến rối loạn tiên hóa, kí
sinh trùng và nhiễm trùng.
Theo nghiên cứu của David J Simbo “Một cuộc khảo sát về các loài thực
vật được sử dụng làm thuốc trong Babungo, khu vực Tây Bắc, Cameroon”, đã
xác định và ghi nhận 107 loài thực vật thuộc 98 chi và 54 họ được người dân
địa phương sử dụng để điều trị các bệnh, trong đó họ được sử dụng chủ yếu là
họ Asteraceae (David J Simbo, 2010) [42].
“Nghiên cứu về thực vật học và kiến thức bản địa về sử dụng cây thuốc
của các thầy lang trong khu vực Oshikoto, Namibia”, đã tìm thấy 61 loài cây
thuốc thuộc 25 họ được các thầy lang trong khu vực sử dụng để điều trị các
bệnh khác nhau như: Tâm thần, nhiễm trùng da, vết thương ngoài da, rắn cắn
và các vấn đề tim mạch (Ahmad Cheikhyoussef và cộng sự, 2011) [34].
“Nghiên cứu cây thuốc của Otwal và Ngãi ở quận Oyam, Bắc Uganda”,

đã chỉ ra 71 loài thực vật thuộc 41 họ được người dân địa phương sử dụng để
điều trị các loại bệnh khác nhau, trong đó họ được sử dụng chủ yếu là họ
Asteraceae (Maud M Kamatenesi và cộng sự, 2011) [54].
Nghiên cứu “cây thuốc được sử dụng bởi phụ nữ từ rừng ven biển
Agnalazaha Đơng Nam Madagascar”, đã thống kê được 152 lồi cây thuốc
được sử dụng bởi người dân địa phương để điều trị các bệnh, trong đó ghi
nhận 8 lồi được sử dụng bởi những người phụ nữ để điều trị các biến chứng
trong khi sinh, các bệnh nhiệt đới như: sốt rét, giun chỉ và các bệnh liên quan
đến tình dục như bệnh lậu và giang mai (Mendrika Razafindraibe và cộng sự,
2013) [55].
Nghiên cứu về “sử dụng và quản lý cây thuốc truyền thống của cộng
đồng dân tộc Maale và Ari, ở miền nam Ethiopia”, đã ghi nhận 128 loài cây
thuốc thuộc 111 chi và 49 họ được cộng đồng người Maale và Ari sử dụng để
điều trị các loại bệnh khác nhau (Berhane Kidane và cộng sự, 2014) [39].


12

Kết quả nghiên cứu về cây thuốc được sử dụng trong y học cổ truyền bởi
những người Oromo, quận Ghimbi, Tây Nam Ethiopia, đãthống kê được 49
loài cây thuốc thuộc 31 họ và 46 chi được người Oromo sử dụng để điều trị
các loại bệnh khác nhau (Balcha Abera, 2014) [37].
Ở Châu Úc:
Những nghiên cứu về việc sử dụng cây thuốc bản địa được thực hiện ở
châu Úc còn rất ít. Một nghiên cứu về các loài cây thuốc được sử dụng bởi
cộng đồng thổ dân Yaegl ở miền Bắc New South Wales, Australia, đã ghi
nhận 32 loài cây thuốc thuộc 21 họ được thổ dân Yaegl sử dụng để điều trị
các bệnh (Joanne Packera và cộng sự, 2012) [50].
Như vậy, việc điều tra và thống kê các loài cây thuốc đã để lại những
cơng trình mang tính khoa học, tính dân tộc sâu sắc, cho thấy vốn tri thức dân

gian bản địa về sử dụng cây thuốc trên thế giới là vơ cùng đa dạng và phong phú.
2.2.2. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc ở trong nước
Ở Việt Nam, tập quán sử dụng cây thuốc đã có từ lâu. Hơn 4000 năm
dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã trải qua cuộc đấu tranh chống
giặc ngoại xâm, đấu tranh với thiên nhiên và bệnh tật. Ngay từ những buổi
đầu sơ khai, khi con người cịn sống theo lối ngun thủy, trong q trình tìm
thức ăn, tổ tiên chúng ta đã phát hiện ra công dụng và tác hại của nhiều loại
cây. Suốt một thời gian dài như vậy, tổ tiên chúng ta đã dần dần tích lũy được
nhiều kinh nghiệm, biết lợi dụng tính chất của cây rừng để làm thức ăn và làm
thuốc chữa bệnh (Trần Thúy và cộng sự, 2005) [26].
Thế kỷ thứ XI (TCN), nhân dân ta có tục ăn trầu cho ấm người, thơm
miệng, uống nước chè xanh cho mát, nụ vối cho dễ tiêu,… Điều đó nói lên
những hiểu biết về dinh dưỡng và sử dụng thuốc của dân tộc (Lê Trần Đức,
1997) [11].


13

Từ thời Hùng Vương, tổ tiên ta đã biết nấu rượu, biết dùng Thủy ngân để
ướp xác và sử sách đã ghi chép về một lương y tên là Thôi Vỹ đã biết chữa bệnh
lao hạch ở thời An Dương Vương (257 – 207) (Trần Thúy và cộng sự, 2005) [26].
Thời nhà Lý (1010 – 1221) đã có tổ chức Ty Thái Y chăm lo và bảo vệ
sức khỏe cho nhà vua, có nhiều thầy thuốc chuyên lo việc chữa bệnh cho nhân
dân và phương pháp chữa bệnh bằng tâm lý liệu pháp phát triển. Trong sử
sách còn ghi lại năm 1136, vua Lý Thần Tông bị điên được lương y Nguyễn
Chí Thành người Gia Viễn – Ninh Bình dùng tâm lý liệu pháp và tắm nước
Bồ hòn chữa cho khỏi bệnh. Nhà Lý đặt quan hệ với Tống Huy Tông (Trung
Quốc) trao đổi thuốc Nam lấy thuốc Bắc (Trần Thúy và cộng sự, 2005) [26].
Ở thời này, làng Đại Yên là một làng thuốc nổi tiếng, chuyên trồng và bán các
loại cây thuốc Nam phục vụ công tác chữa bệnh (Viện dược liệu, 1993) [30].

Thời nhà Trần (1224 – 1399), y học cũng khá phát triển, đã có kế hoạch
tự túc thuốc Nam để kháng chiến. Tướng Phạm Ngũ Lão đã trồng cây thuốc
ở Vạn An và Dược Sơn (xã Hưng Đạo – Chí Linh – Hải Dương) để cung cấp
cho quân y (Lê Trần Đức, 1997) [10]. Nổi bật ở thời này là nhà sư Tuệ Tĩnh
(Nguyễn Bá Tĩnh) – được nhân dân tơn trọng, gọi là “Ơng thánh thuốc
Nam”. Tuệ Tĩnh đã xây dựng 74 ngôi chùa chữa bệnh cho nhân dân không
lấy tiền và gây phong trào trồng thuốc ở gia đình. Ơng là một đại sư nước
Việt dùng thuốc Nam giảm giá trị của thuốc Bắc, sắc thuốc chữa bệnh cho
nhân dân với phương châm: “thuốc Nam chữa bệnh người Nam” ông đã
truyền bá y dược cổ truyền cho nhân dân trong các tác phẩm (Lê Trần Đức,
1997) [11]. Thời kỳ nhà Lê (1428 – 1876) đã có những chủ trương tiến bộ
trong việc chăm sóc và bảo vệ sức khỏe của nhân dân, tổ chức Thái Y Viện,
có lương y chăm lo việc chữa bệnh cho quân đội, hàng năm tổ chức các đợt
phòng và chống dịch bệnh cho nhân dân. Trong giai đoạn này có làng thuốc
ở thơn Nghĩa Trai, huyện Văn Lâm, hiện nay vẫn còn tồn tại và phát triển
(Trần Thúy và cộng sự, 2005) [26].


14

Thế kỷ XVIII, Lê Hữu Trác hiệu là Hải Thượng Lãn Ông (1729 – 1791)
đã thừa kế dược học của Tuệ Tĩnh chép vào tập “Lĩnh Nam bản thảo” nội
dung gồm 496 vị thuốc Nam của “Nam dược thần hiệu” và phát hiện thêm
hơn 300 vị nữa. Tác giả đã để lại bộ sách thuốc rất có giá trị là: “Tân Hoa Hải
Thượng Lãn Ơng y tơng tâm lĩnh dương an tồn trạch” gọi tắt là “Lãn Ơng Y
Nghiệp” hay “Lãn Ông Y Tập” gồm 66 quyển (Nguyễn Nhân Thống, 2008)
[16]. Suốt 30 năm của cuộc dời mình, tác giả đã xây dựng được nền móng cho
nền y học cổ truyền Việt Nam toàn diện cả về lý luận, phương pháp điều trị
và dược liệu.
Ngồi các bộ sách trên, cịn kể đến tập “Vạn phương thập nghiệm” của

Nguyễn Nho và Ngô Văn Tĩnh gồm 8 tập, xuất bản 1763. Tập “Nam bang
thảo mộc” của Trần Nguyệt Phương mô tả 100 loài cây thuốc Nam, xuất bản
năm 1858 (Lê Trần Đức, 1997) [12].
Thời kỳ Tây Sơn (1788 – 1808) Nguyễn Hoành đã để lại tập “Nam
dược” với 590 vị thuốc, với các phương thuốc kinh nghiệm gia truyền (Lê
Trần Đức, 1997) [11].
Thời kỳ từ năm 1802 – 1883, nhà Nguyễn cũng tổ chức Thái Y Viện, tổ
chức điều trị bệnh phong tập trung, mở trường dạy thuốc ở Huế (Trần Thúy
và cộng sự, 2005) [26]. Nguyễn Quang Lượng, Nguyễn Kinh,… là những
danh y nổi tiếng thời này, đã góp phần phát triển nền y học với quyển: “Nam
dược tập nghiệm quốc âm” bằng chữ Nôm của Nguyễn Quang Lượng về
phương thuốc dân gian.
Trong thời Pháp thuộc (1848 – 1945), y học cổ truyền nước ta có một số
hoạt động như: thành lập các hội y học ở Bắc bộ, Trung bộ, Nam bộ; mở các
lớp huấn luyện y học cổ truyền, mở các phòng chữa bệnh, tổ chức triển lãm y
học cổ truyền,… (Trần Thúy và cộng sự, 2005) [26]. Đến đầu thế kỷ XX, đã
cho xuất bản một số sách Y học cổ truyền bằng chữ quốc ngữ như “Việt Nam
dược học” của Phó Đức Thành. Nhiều nhà thực vật học người Pháp và người


15

Việt góp cơng nghiên cứu cây thuốc Việt Nam, như: bộ “Trung Việt dược
tính hợp biên” của Đinh Nho Chân với 1.600 vị thuốc Nam Bắc. Cơng trình
nghiên cứu của Crévót, Pétélot. Pétélot đã cho xuất bản bộ “Catalogue des
produitsde L’Indochine” (1928 – 1935), trong đó tập V (Produits medicinaux,
1928) đã mô tả 368 cây thuốc và vị thuốc là các lồi thực vật có hoa. Năm
1952, tác giả đã cho bổ sung và xây dựng thành bộ “Les plantes de
médicinales du Cambodge, du Laos et du Vietnam”, gồm 4 tập và thống kê
được 1.482 vị thuốc thảo mộc ở ba nước Đông Dương (dẫn theo Lê Thị

Thanh Hương, 2007) [10].
Sau cách mạng tháng 8 – 1945, y dược học cổ truyền đạt được những
thành tựu to lớn. Dưới sự lãnh đạo của Bộ y tế cùng y học hiện đại, sức khỏe
của người dân được quan tâm và chăm lo chu đáo hơn. Chỉ thị số 210
TTG/VG ngày 06/12/1966 của thủ tướng chính phủ đã nhận định như sau:
“Dược liệu nước ta rất nhiều, gồm các loài cây thuốc và một số động vật. Có
nhiều lồi q, hiếm ở trên thế giới. Dược liệu ở nước ta chẳng những là cơ
sở cho nền y học dân tộc mà còn có một vị trí quan trọng trong nền y học hiện
đại, chẳng những là nguồn tự cung tự cấp về các lồi cây thuốc Nam, thuốc
Bắc, thuốc Tây, mà cịn là loại hàng xuất khẩu có giá trị,… phải coi trọng
dược liệu như cây công nghiệp cao cấp” (Võ Văn Chi, 1996) [32].
Vì vậy, sau khi nước nhà thống nhất, việc nghiên cứu cây thuốc ở nước
ta được quan tâm nhiều hơn. Có nhiều tác giả đi sâu nghiên cứu, tìm tịi và
phát hiện thêm nhiều lồi cây thuốc mới. Tiêu biểu có thể kể đến bộ sách
“Dược liệu học và các vị thuốc Việt Nam”gồm 3 tập, do Đỗ Tất Lợi biên soạn
năm 1957 và đến năm 1961, cuốn sách này được tái bản in thành 2 tập. Trong
đó, tác giả đã mô tả chi tiết và nêu công dụng của hơn 100 cây thuốc nam
(Nguyễn Tập, 2007) [17]. Đỗ Tất Lợi đã tiếp tục dày công nghiên cứu và
trrong những năm từ 1959 – 1965, tác giả cho xuất bản bộ “Những cây thuốc
và vị thuốc Việt Nam” gồm 6 tập, năm 1969 tái bản trong 2 tập. Cuốn sách


16

này của tác giả đã đề cập đến trên 500 vị thuốc có nguồn gốc thảo mộc, động
vật và khống vật. Tác giả đã kiên trì nghiên cứu, bổ sung liên tục các lồi cây
thuốc trong các cơng trình nghiên cứu của mình và sách đã được tái bản nhiều
lần và các năm 1970, 1977, 1981, 1986, 1995, 1999, 2001 và năm 2003. Lần tái
bản thứ 7 vào năm 1995 số cây thuốc của ông nghiên cứu đã lên tới 792 loài và
gần đây nhất là lần tái bản lần thứ 13 (dẫn theo Lê Thị Thanh Hương, 2007)

[10]. Bộ sách của ông đã mang lại giá trị khoa học và giá trị thực tiễn sâu sắc, thể
hiện sự kết hợp giữa khoa học dân gian và khoa học hiện đại.
Trong những năm này, nhiều cơng trình nghiên cứu của các nhà khoa
học đã được xuất bản thành các tập sách như: “Tài Nguyên cây thuốc Việt
Nam” vào 1993 của Viện Dược liệu, với khoảng 300 loài cây thuốc (Phạm
Hoàng Hộ, 2006) [22]; Trần Đình Lý với cuốn “1900 lồi cây có ích” năm
1995, đã thống kê ở Việt Nam có khoảng 76 lồi cho nhựa thơm, 260 lồi cho
dầu béo, 160 lồi có tinh dầu, 40 lồi tre nứa, 40 loài song mây (dẫn theo Lê
Thị Thanh Hương, 2007) [10]. Lương y lão thành, thầy thuốc ưu tú Lê Trần
Đức với cuốn: “Cây thuốc Việt Nam” năm 1995 đã giới thiệu hơn 830 lồi
cây thuốc chính, phụ (Lê Trần Đức, 1997) [11]. Võ Văn Chi là một nhà thực
vật lớn của Việt Nam, đã đóng góp rất nhiều trong q trình nghiên cứu về
các lồi thực vật ở Việt Nam và ông đã biên soạn cuốn “Từ điển cây thuốc
Việt Nam”, trong đó ơng mơ tả rất tỷ mỷ về các cây được sử dụng làm
thuốc ở Việt Nam bao gồm 3.200 cây (Nguyễn Thượng Dong và cộng sự,
2006) [18]. Ngồi ra, cuốn “Cây cỏ có ích ở Việt Nam” tập I, II đề cập đến
rất nhiều cây cỏ có ích như làm gỗ, làm lương thực, làm thuốc (Nguyễn
Thượng Dong và cộng sự, 2006) [20].
Trong những năm từ 2000 đến nay, đã có nhiều cuốn sách và các tài liệu
về cây thuốc được xuất bản nhằm đáp ứng nhu cầu của nhiều người quan tâm
tới cây thuốc trên khắp đất nước Việt Nam như: “577 bài thuốc dân gian gia
truyền” (Âu Anh Khâm, 2001) [1]; “Thuốc Nam, thuốc Bắc và các phương


×