Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

THỰC TRẠNG DU LỊCH QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (279.29 KB, 30 trang )

8500
9600
1000
1100
11800
12500
1400012000100008000600040002000
THỰC TRẠNG DU LỊCH QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM
I. THỰC TRẠNG DU LỊCH Và CÁC SẢN PHẨM DU LỊCH HIỆN NAY:
1.1. Thực trạng khách du lịch và một số đặc điểm cơ bản:
Thị trường khách du lịch là một yếu tố rất quan trọng, nó mang tính chất
quyết định đối với sự phát triển của ngành du lịch. Việc nghiên cứu và phân tích
thị trường khách du lịch là một cơ sở khoa học để lựa chọn thị trường ưu tiên, xây
dựng chiến lược về thị trường và chiến lược sản phẩm... nhằm nâng cao hiệu quả
hoạt động du lịch
1.1.1 Thị trường du lịch nội địa
0 1997 1998 1999 2000 2001 2002
Nguồn: Báo cáo thống kê phát triển Du lịch - Tổng cục Du lịch - 2002
Khách du l ch n i aị ộ đị
(Đơn vị tớnh: ngàn người)
1715637
1520128
1781754000
21401000000
2330050
2395780
1.1.2. Khách du lịch quốc tế
2400000
2200000
2000000
1800000


1600000
1400000
1200000
1000000
800000
600000
0 1997 1998 1999 2000 2001 2002
Nguồn: Báo cáo chính thức lượng khách quốc tế đến Việt Nam - Tổng cục Du
lịch - 5/2003 ()
Thị trường khách quốc tế có thể phân theo 3 tiêu chí cơ bản - [4]
* Theo quốc tịch:
Các thị trường then chốt của Du lịch Việt nam bao gồm Trung Quốc, Đài
Loan, Nhật bản, ASEAN, Tây Âu, Bắc Mỹ... Những đặc điểm cơ bản của thị
trường này được đánh giá như sau:
Khách du l ch qu c t n Vi t Namị ố ế đế ệ
(Đơn vị tớnh: lượt người)
• Thị trường khách Trung Quốc: Tăng nhanh từ 484.102 khách năm 1999 lên
724.385 khách năm 2002, tăng trung bình 11,5%/năm. Thị phần tăng từ
27,17% (1999) lên 29,12% (2002). Mục đích chủ yếu qua lại buôn bán, thăm
quan; Phương tiện chủ yếu là đường bộ; Ngày lưu trú trung bình từ 3-4
ngày; Mức chi tiêu thấp: Trung bình 25USD/ngày; Đóng góp vào tổng thu
nhập thấp : năm 2002 chiếm 27,56% về số khách nhưng chỉ chiếm
3,4%/tổng thu nhập toàn ngành.
• Thị trường khách Đài Loan: Tăng từ 70.143 khách (1992) lên 224.127 khách
(1995); Chiếm thị phần 16-18%. Từ 1996-1999: giảm nhanh, chỉ còn
173.920 khách năm 1999 (chiếm 9,76%). Tuy nhiên, đến năm 2002 lượng
khách Đài Loan đã đạt 211.072 lượt người. Mục đích chủ yếu là thương mại
kết hợp thăm quan; Phương tiện chủ yếu là máy bay; Khả năng chi tiêu cao.
• Thị trường khách Nhật Bản: Tăng 113.514 khách (1999) lên 279.769 lượt
người Năm 2002, trung bình tăng 23,7%/năm; Thị phần chiếm 10,6% tổng

số khách; Mục đích chính: Tham quan du lịch, thương mại… Phương tiện
chủ yếu là máy bay; Lưu trú trung bình 5-7 ngày; Khả năng chi tiêu cao: TB
141,1USD/ngày/người; đóng góp cao cho thu nhập của Ngành: năm 2002
chiếm tới 11,5%.
• Thị trường khách ASEAN: Chiếm khoảng 12,9%, chủ yếu là Thái Lan,
Singapore, Malaysia, Campuchia. Mục đích chính: Thương mại 57,1%;
thăm thân 21,4%; tham quan du lịch… Ngày lưu trú ngắn, trung bình 2-3
ngày. Phương tiện chính là đường bộ… Khả năng chi tiêu lớn, đặc biệt là
khách thương mại (150USD/ngày/người). Khả năng đóng góp cho tổng
doanh thu của ngành 10% năm 2002.
• Thị trường khách Tây Âu: Chủ yếu là Anh, Pháp, Đức. Thị trường này tăng
khá nhanh: trung bình 28,9% (1999-2001), chiếm thị phần khoảng 7-10%
tổng số khách. Là thị trường quan trọng, khách có khả năng chi trả rất cao.
Mục đích chủ yếu là tham quan du lịch (86,7%), thương mại (4,5%), thăm
thân (3,4%). Thời gian lưu trú thường dài, trung bình 1-3 tuần, phổ biến tù
7-10 ngày. Chi tiêu trung bình đạt 76USD/ngày/người. Đóng góp cho tổng
doanh thu của ngành 15,1% năm 2002.
• Thị trường Bắc Mỹ (chủ yếu là Mỹ và Canada): là thị trường có mức tăng
trưởng cao, trung bình 48,5%/năm (1999-2002); Thị phần tăng nhanh từ
3,31% (1992) lên 11,81% (1999). Mục đích chủ yếu: tham quan du lịch
(80,1%), thương mại (12,6%), thăm thân (2,1%) và các mục đích
khác(5,2%). Ngày lưu trú trung bình khoảng 7-10 ngày. Phương tiện chính
là máy bay; Chi tiêu trung bình khoảng 100USD/ngày/người (thương mại là
165USD, tham quan du lịch 84,5USD…) đóng góp cho tổng doanh thu của
ngành rất cao, đạt 22,7% năm 2002.
* Theo mục đích chuyến đi:
• Tham quan du lịch: Mức độ tăng trưởng tương đối cao, đạt trung bình
20,07%/năm (1999-2002), từ 837.550 khách năm 1999 lên 1.138200 khách
năm 2002. Về thị phần: từ 47%-55% trong tổng số khách. Có khả năng
thanh toán tương đối cao: 70-80USD/ngày/người, ngày lưu trú trung bình

khoảng 7-8ngày. Năm 2002 chiếm 55% thị phần về khách nhưng chiếm
62,7% thị phần về doanh thu.
• Khách thương mại du lịch: chiếm khoảng 14,9-18,9% thị phần, tăng trưởng
trung bình: 10,1% năm(1999-2002). Tuy nhiên khách có khả năng chi trả
tương đối cao: 160USD/ngày/người, thời gian lưu trú khoảng 5-6 ngày, khả
năng đóng góp cho tổng doanh thu lớn: năm 2002 chiếm 16,9% số khách
nhưng chiếm 20,9% tổng doanh thu.
• Khách thăm thân: tăng từ 337.086 khách (chiếm 18,92% tổng số ) năm 1999
lên 430.994 khách năm 2002, tuy nhiên mức tăng không ổn đinh qua các
năm. Trung bình tăng 10,9%/năm. Mức chi tiêu thấp (khoảng
20USD/ngày/người), ít lưu trú trong hệ thống khách sạn. Năm 2002 chiếm
16,4% tổng số khách nhưng chỉ chiếm 8,5% thị phần về doanh thu. Sự biến
động về thị phần nói chung không ảnh hưởng nhiều đến tổng thu nhập chung
của ngành Du lịch.
* Theo phương tiện vận chuyển:
• Đường không: từ 1.022.073 khách (1999) tăng lên 1.540.108 khách năm
2002. Mỗi năm tăng 11,47%. Thị phần tăng nhẹ qua các năm. Ngày lưu trú
trung bình khoảng 7-8 ngày. Mức chi tiêu trung bình khoảng 90-
95USD/ngày/người. Sự đóng góp trong tổng thu nhập rất lớn, năm 2002
chỉ chiếm 58,35% thị phần nhưng chiếm 87,7% tổng doanh thu.
• Đường bộ: Tăng từ 571.749 người năm 1999 lên 778.800 người năm 2002,
tăng trung bình 12%/năm. Thị phần tăng nhanh và liên tục Ngày lưu trú
trung bình thấp, mức chi tiêu thấp (20-50USD/ngày/người), đóng góp cho
thu nhập hạn chế. Năm 200 chiếm 30,11% thị phần về số lượng nhưng chỉ
chiếm 8,9% thị phần về thu nhập.
• Đường biển: Tăng từ 187.932 khách năm 1999 lên 309.080 năm 2002 tăng
15,145%. Đối tượng là khách Nhật bản, Hàn quốc, Đài loan, Trung quốc,
Tây âu… Lưu trú ngắn, khoảng 2-3 ngày, không sử dụng các dịch vụ lưu
trú mà chỉ sử dụng một số dịch vụ trên mặt đất như phương tiện vận
chuyển, lệ phí tham quan, mua hàng lưu niệm, lệ phí visa. Mức chi tiêu hạn

chế, trung bình 25USD/ngày/người, khả năng đóng góp vào thu nhập của
ngành không đáng kể. Năm 2002 chiếm 10,54% thị phần về khách nhưng
chỉ chiếm 2-4% tổng thu nhập.
Qua việc nghiên cứu các tiêu chí nêu trên, ta có thể đánh giá chung về phát
triển thị trường khách du lịch quốc tế đến Việt nam như sau:
+ Về số lượng, trong ba năm 1999-2002, số khách du lịch quốc tế đến Việt nam có
gia tăng nhưng không ổn định, hầu hết các chỉ tiêu đều giảm ở năm 2000.
+ Thị trường Trung quốc có tốc độ gia tăng cao, liên tục, chiếm thị phần lớn nhất
(có thể nói là phát triển bền vững), nhưng đây là thị trường có mức chi tiêu thấp
nhất, có ngày lưu trú thấp nhất nên hiệu quả về kinh tế chưa cao.
+ Các thị trường có khả năng chi tiêu cao như Nhất bản, Hàn quốc, Pháp, Mỹ.. có
mức tăng trưởng tương đối ổn định . Mặc dù thị trường này có lúc suy giảm cả
về số lượng lẫn thị phần và ảnh hưởng đến thu nhập của ngành nhưng sự suy
giảm này là không đáng kể. Với những thị trường này cần có những chiến lược
cụ thể (về sản phẩm, về giá cả …) để khuyến khích và thu hút ngày càng nhiều,
góp phần tăng trưởng ổn định và lâu dài các thị trường nói trên.
+ Thị trường khách tham quan du lịch thuần tuý là thị trường có thị phần lớn nhất,
có ngày lưu trú dài nhất, có khả năng chi trả tương đối cao. Thị trường này phát
triển tương đối ổn định và hiệu quả, đóng góp một phần lớn cho tổng thu nhập
của ngành. Đối với thị trường này cần mở rộng các điểm tham quan mới, tổ chức
các tour mới hấp dẫn để thu hút ngày càng nhiều khách hơn.
+ Thị trường khách du lịch thương mại chiếm thị phần thấp nhất, nhưng đây lại là
thị trường có khả năng chi tiêu cao nhất, có khả năng đóng góp đáng kể cho tổng
thu nhập toàn ngành; đây cũng là thị trường có ý muốn quay trở lại Việt Nam
.Tuy nhiên trong thời gian qua thị trường này phát triển không ổn định, có chiều
hướng suy giảm cả về số lượng lẫn thị phần. Đối với thị trường này cần có
những chính sách, những ưu đãi nhất định về đầu tư để thu hút và hấp dẫn họ
vào Việt Nam.
Thị trường khách du lịch hàng không là thị trường quan trọng nhất: Chiếm
thị phần cao nhất, có khả năng chi tiêu cao nhất, có ngày lưu trú dài nhất, đóng góp

cho tổng thu toàn ngành lớn nhất. Tuy nhiên, trong thời gian qua lại tăng trưởng
chậm, mặc dù số lượng có tăng lên nhưng thị phần có xu hướng giảm dần. Đây là
một yếu tố không có lợi cho sự phát triển của du lịch Việt Nam. Để thu hút được
nhiều khách du lịch hàng không, cần có sự phối hợp kinh doanh giữa hai ngành Du
lịch và Hàng không. Khách du lịch đường bộ và đường biển vào Việt Nam phát
triển nhanh cả về số lượng, tốc độ tăng trưởng cũng như thị phần. Tuy nhiên, đây
là những thị trường có khả năng chi tiêu thấp, ngày lưu trú ngắn… nên đóng góp
cho tổng thu nhập của ngành còn hạn chế. Sự biến động của các thị trường này ảnh
hưởng rất nhỏ đến hiệu quả kinh doanh của ngành du lịch.
1.2. Sự phù hợp giữa các chương trình du lịch với nhu cầu thị trường:
Qua các thống kê của báo du lịch cho thấy, hầu hết các chương trình du lịch
được đem ra quảng cáo, bán hiện nay đều chưa đáp ứng được những nhu cầu cụ thể
của du khách. Các chương trình đó đơn thuần chỉ là những chương trình được tạo
ra để trưng bày, để chào mới. Thị trường khách nói chung chưa được xem xét,
nghiên cứu một cách kỹ càng. Chính vì vậy các chương trình du lịch được thiết kế
chưa sát với nhu cầu thị trường. Dưới đây là một số ý kiến của khách đi du lịch ở
Việt nam:
* Một khách nước ngoài đi Tour xuyên việt 10 ngày do công ty Deithelm Travel
Việt nam tổ chức, ông nói rằng:
- Ông hài lòng về chất lượng và phong cách phục vụ
- Thời gian của chương trình quá ngắn
- Một số điểm như Hà nội, Hạ Long không đủ thời gian để tham quan và tìm
hiểu
- Ông góp ý: với chương trình 10 ngày nên tạo những điểm nhấn quan trọng,
không nên chia số ngày đều nhau cho mỗi điểm mà nên dành nhiều thời gian
hơn cho các điểm du lịch đẹp, hấp dẫn.
(Tuần báo Du lịch số 24 (189)ngày 15/6/2001)
* Thêm một ý kiến khách cho các chương trình du lịch cuối tuần ngắn ngày cho
khách nội địa: Về cơ bản, các chương trình du lịch cuối tuần thuận tiện cho
khách du lịch công sở và trường học. Đối với các đối tượng khác thì các chương

trình này thường không được coi là phù hợp, bởi vì với đối tượng khách này:
- Họ thường đi nghỉ cùng gia đình, bạn thân cho nên họ không thích đi ghép đoàn,
họ thích tự do hơn về thời gian và tham quan
- Họ thường đi tự túc vì đã theo tour là phải theo tập thể, theo những quy định
chung của chương trình về ăn ngủ, nghỉ...
- Các điểm du lịch và chương trình du lịch của các công ty tương đối giống nhau
nên tạo cảm giác nhàm chán
- Đối với khách Việt đi tour 2 ngày thì chưa thoả mãn, thừa thời gian, còn 1 ngày
thì các sản phẩm, dịch vụ còn đơn điệu.
(Tuần báo Du lịch số 23 (188) ngày 8/6/2001)
Từ những nhận xét của khách, ta thấy rằng nội dung các chương trình còn
chưa phù hợp với thời gian của chương trình. Một số chương trình thừa thời gian,
tạo cho khách cảm giác nhàm chán, ngược lại, một số chương trình thì quá ít thời
gian để tham hết các điểm... Có thể kết luận: Các chương trình du lịch ở nước ta
chưa phong phú và đa dạng, nhiều sản phẩm du lịch mang tính đơn điệu và lặp lại,
nội dung chương trình chưa có sự đổi mới để tạo yếu tố hấp dẫn, nội dung nghèo
nàn và chương trình thường bị cắt khúc giữa các vùng, chất lượng dịch vụ chưa
tương xứng với giá cả, các chương trình chậm đổi mới do vậy chưa bám sát được
nhu cầu thực tế của thị trường.
II. TÌNH HÌNH KINH DOANH LỮ HÀNH QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Tình hình chung:
Hiện trên cả nước có 14 Sở du lịch, 47 Sở thương mại du lịch,trên 1000 doanh
nghiệp lữ hành thuộc mọi thành phần, trong đó có 108 doanh nghiệp lữ hành quốc
tế, 150 nghìn lao động trực tiếp, 3000 lao động gián tiếp trong ngành du lịch, 13
trường và trung tâm dạy nghề khách sạn, 9 trường đại học có khoa Du lịch. [5]
Hầu hết các hoạt động lữ hành quốc tế của các doanh nghiệp là việc đón
khách nước ngoài vào Việt nam để du lịch, trước đây chủ yếu là du khách các nước
gần kề hoặc có quan hệ với Việt nam, đến nay Việt Nam đã đón được rất nhiều
khách từ khắp các châu lục do Việt nam mở rộng quảng bá về Du lịch.
Các doanh nghiệp quốc doanh kinh doanh du lịch quốc tế vẫn chiếm ưu thế,

thu nhập tăng đều mỗi năm vừa hoàn thành nộp ngân sách Nhà nước vừa tăng thu
nhập cho nhân viên. Ngoài ra, các doanh nghiệp này còn đầu tư vốn, mở rộng trang
thiết bị, đào tạo chuyên sâu nguồn nhân lực, nâng cao chất lượng dịch vụ... Tuy
nhiên, so với tốc độ phát triển các ngành khác, ngành du lịch quốc tế có phần tăng
trưởng chậm hiệu quả kinh tế chưa cao, lợi nhuận không ổn định, mặc dù chất
lượng quản lý đã được cải thiện đáng kể nhưng vẫn chưa đủ sức cạnh tranh với các
doanh nghiệp lữ hành quốc tế nước ngoài.
Trong nền kinh tế thị trường, ngành dịch vụ phát triển khá nhanh, đặc biệt là
dịch vụ du lịch. Đầu những năm 90, doanh nghiệp lữ hành mọc lên như nấm, một
số công ty sản xuất quốc doanh cũng tham gia kinh doanh lĩnh vực này. Một số
công ty nhà nước đứng ra bảo trợ cho một số công ty tư nhân mở văn phòng du
lịch và được coi như một chi nhánh của công ty. Các cửa hàng ăn uống, shop bán
lưu niệm xuất hiện ngày càng nhiều, phần lớn là để đáp ứng nhu cầu ngày một cao
của người Việt Nam và khách nước ngoài.
Tuy nhiên, cho một mục tiêu lâu dài, sự quản lý không chặt chẽ sẽ gây ra
những ảnh hưởng không tốt cho hoạt động du lịch cả nước. Nhiều công ty nhỏ và
văn phòng du lịch vì không đủ kinh nghiệm mở rộng và khai thác thị trường,
không đủ sức cạnh tranh với các công ty chuyên môn lớn nên đã hạ giá thành kéo
theo chất lượng dịch vụ kém, rút ngắn thời gian thực hiện tour và gây ra một tâm lý
mất tin tưởng ở du khách. Khi đến mùa du lịch, tình trạng “chiến tranh giá cả” đã
xảy ra, gây ra ảnh hưởng xấu cho uy tín của ngành Du lịch Việt Nam và ảnh hưởng
đến hiệu quả kinh doanh của lữ hành quốc tế. Nhiều doanh nghiệp Nhà nước bằng
cách trực tiếp hoặc gián tiếp đã giúp các doanh nghiệp lữ hành nước ngoài và
doanh nghiệp tư nhân không được phép kinh doanh lữ hành quốc tế trốn thuế, thậm
chí một số văn phòng du lịch và thương mại nước ngoài không được phép kinh
doanh du lịch cũng tham gia kinh doanh.
Trong những năm qua, quản lý trong ngành du lịch chưa tốt và hoạt động du
lịch cũng chưa xứng với tiềm năng, song lực lượng lao động du lịch cũng tăng
đáng kể. Thống kê ở bảng dưới đây cho thấy sự tăng trưởng mạnh về nguồn lao
động ở Du lịch Việt nam

81.760
98.700
120.000
130.000
135.000
150.000
0
30.000
60.000
90.000
120.000
150.000
180.000
1995 1996 1997 1998 1999 2000
Nguån: ViÖn NCPT Du lÞch - 2001
Lao ®éng trong ngµnh du lÞch giai ®o¹n 1995 - 2000
Trong những năm gần đây, do sức cạnh tranh của thị trường, việc đào tạo và
bồi dưỡng nhân viên cho du lịch, đặc biệt là các công ty liên doanh đòi hỏi chất
lượng cao. Do chiến lược phát triển tổng thể của Tổng cục Du lịch Việt Nam nên
nguồn nhân lực cho du lịch rất dồi dào, tuy nhiên vẫn thiếu nhân viên có trình độ
thực sự cao cấp. Nguồn nhân lực du lịch ở trình độ cơ sở chiếm khoảng 85%. Đây
cũng là một mặt kém sức hấp dẫn du khách nước ngoài. Hầu hết các doanh nghiệp
đào tạo nhân viên bằng cách thuê giáo viên du lịch giảng dạy ngắn hạn, nên nhân
viên thường thiếu kỹ năng phục vụ ở mức độ cao.
Hầu hết các công ty kinh doanh lữ hành thiếu những nhà quản lý tốt. Quản lý
ở đây thường do kinh nghiệm lâu năm được đề bạt, họ có kinh nghiệm, kiến thức
thực tế nhưng thiếu trình độ quản lý.
Một dự án nghiên cứu được tiến hành ở một số công ty du lịch lớn: Công ty
Du lịch Hà nội, Công ty dịch vụ và du lịch Hà nội, Công ty hướng dẫn và điều
hành du lịch, Công ty Du lịch Sài Gòn, công ty Thương mại và Du lịch Bến Thành

cho thấy những người quản lý đã qua đào đạo quản lý chuyên môn chỉ chiếm
khoảng 20%, số còn lại được đào tạo qua các khoá ngắn hạn từ 1 đến 2 tháng.
Thực tế khoá đào tạo ngắn như vậy trình độ của họ không được nâng cao bao
nhiêu. Đây là thực trạng chung của các doanh nghiệp Nhà nước.
Trong cả nước hiện nay có khoảng 2.850 hướng dẫn viên du lịch được cấp thẻ
hướng dẫn, trong đó chỉ 50% là thẻ chính thức, còn lại là loại thẻ tạm thời. Hướng
dẫn viên được đào tạo qua đại học chiếm 70%. Họ có khả năng giao dịch với du
khách bằng một số ngoại ngữ phổ thông. Tuy nhiên, họ thiếu hiểu biết về lịch sử,
văn hoá, địa lý... Vì thế số hướng dẫn được đánh giá cao còn hạn chế. Chất lượng
hướng dẫn viên tuy có đủ về số lượng và đáp ứng được nhu cầu trung bình của du
khách, nhưng xét về chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp thì chưa đủ để đáp ứng các
nhu cầu đòi hỏi cao của khách sang trọng. Hơn nữa, nhiều sinh viên tốt nghiệp các
trường khác như luật, văn hoá, ngoại ngữ, kinh tế... chưa xin được việc làm đúng
sở trường, họ chỉ cần thông thạo ngoại ngữ một chút là có thể xin làm hướng dẫn
tạm thời. Chính vì vậy mà lực lượng làm du lịch dồi dào nhưng đáp ứng được như
yêu cầu là không nhiều. Đây cũng là lý do làm chất lượng tour bị giảm sút.
Hiện nay, lượng hướng dẫn viên tự do khá nhiều. Mặc dù quy định của ngành
Du lịch là các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành phải có đội ngũ hướng dẫn chuyên
nghiệp, được đào tạo kiểm tra và được cấp thẻ hướng dẫn nhưng số doanh nghiệp
thực hiện đúng không nhiều, hầu hết là vi phạm quy định quản lý hướng dẫn, thậm
chí có doanh nghiệp có hướng dẫn viên là người nước ngoài. Vì vậy, ngành Du lịch
cần có những chế tài nghiêm minh, chặt chẽ hơn nữa để làm giảm và ngăn chặn
hậu quả đáng tiếc xảy ra.
Một số doanh nghiệp lữ hành quốc tế có quy mô lớn như Công ty ty du lịch
Việt nam (VINATOUR), Công ty Du lịch Hà nội hoàn toàn có đội ngũ quản lý và
nhân viên được đào tạo cơ bản, tuy nhiên đến mùa cao điểm vẫn nảy sinh tình
trạng thiếu nhân viên chuyên nghiệp. Lúc này hướng dẫn viên được thuê có thể

×