Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

TỔNG QUAN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (273.34 KB, 29 trang )

TỔNG QUAN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI
1.1. Tín dụng ngân hàng
1.1.1. Khái niệm về tín dụng ngân hàng
Tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hoá) giữa bên cho vay và bên đi
vay. Trong đó, bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian
nhất định theo thoả thuận và bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi
cho bên vay khi đến hạn.
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng, các tổ chức tín dụng và các
tổ chức kinh tế, cá nhân theo nguyên tắc hoàn trả. Việc hoàn trả được nợ gốc trong tín
dụng có nghĩa là việc thực hiện được giá trị hàng hoá trên thị trường, còn việc hoàn trả
được lãi vay trong tín dụng là việc thực hiện được giá trị thặng dư trên thị trường.
Giáo trình Ngân hàng Thương mại của trường Đại học Kinh tế Quốc dân định
nghĩa: “Ngân hàng thương mại là một tổ chức tài chính cung cấp một doanh mục các dịch
vụ tài chính đa dạng nhất, đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện
nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh
tế”. Như vậy, hoạt động của ngân hàng thương mại là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch
vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi từ khách hàng với trách nhiệm
hoàn trả và sử dụng số tiền đó để đầu tư thu lợi nhuận như cấp tín dụng và cung ứng các
dịch vụ thanh toán. Lượng vốn của các ngân hàng thường nhỏ hơn nhiều so với nhu cầu
vay vốn của các khách hàng, bởi thế ngân hàng thương mại phải huy động vốn từ nhiều
nguồn khác nhau trong xã hội. Những nguồn vốn này là cơ sở để ngân hàng thương mại
đầu tư lại cho nền kinh tế. Đây là chính nguồn gốc của hoạt động tín dụng ngân hàng.
1.1.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng
Các ngân hàng thương mại là các tổ chức kinh doanh tiền tệ, hoạt động chủ yếu là
nhận gửi và cho vay. Chúng đóng góp vai trò quan trọng trong việc khơi nguồn vốn đến
những người vay tiền có khả năng kinh doanh thu lợi, chúng đảm bảo cho nền kinh tế hoạt
động nhịp nhàng, hữu hiệu thông qua hoạt động tín dụng.
1.1.2.1. Đối với Nhà nước
Hoạt động tín dụng tạo ra thu nhập chủ yếu cho ngân hàng, tạo ra nguồn thu cho
ngân sách nhà nước. Tín dụng ngân hàng là công cụ để ngân hàng điều tiết khối lượng tiền


tệ trong lưu thông. Thông qua việc cấp tín dụng cho nền kinh tế, ngân hàng đã tạo nên
cung tiền tệ. Đó chính là khả năng tạo tiền của ngân hàng. Như ta đã biết, một khoản tiền
ban đầu khi gửi vào ngân hàng, sau khi đã trừ đi khối lượng dự trữ, sẽ được ngân hàng sử
dụng để cấp tín dụng. Sau đó, khoản tiền này lại quay trở lại ngân hàng một cách lặp đi lặp
lại. Khối lượng tiền gửi được ghi tại ngân hàng sẽ tăng lên so với số tiền gửi ban đầu. Vì
thế, cung tiền trong nền kinh tế tăng lên. Tỷ lệ cấp tín dụng của ngân hàng so với khối
lượng vốn huy động càng lớn thì mức cung tiền tệ hay khối lượng tiền tệ thực trong lưu
thông càng lớn. Do vậy, bằng các chính sách của mình, Ngân hàng Nhà nước dễ dàng thay
đổi lượng tiền trong lưu thông bằng cách điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc hoặc hạn mức tín
dụng đối với các Ngân hàng thương mại.
Mặt khác, tín dụng ngân hàng góp phần tài trợ nguồn vốn sản xuất kinh doanh, mở
rộng sản xuất của doanh nghiệp sẽ góp phần thúc đẩy nền sản xuất xã hội phát triển. Khi
các doanh nghiệp mở rộng sản xuất kinh doanh sẽ tạo điều kiện cho một bộ phận lao động
không nhỏ trong xã hội có công ăn việc làm, tăng thu nhập, cải thiện đời sống, làm hạn chế
các tệ nạn trong xã hội. Đây cũng là một nhân tố thúc đẩy kinh tế-xã hội phát triển.
Ngoài ra, với chức năng là chiếc cầu nối trung gian giữa những người cho vay đầu
tiên và những người đi vay cuối cùng. Tín dụng ngân hàng đã tập trung một khối lượng lớn
vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế, do đó đã làm giảm khối lượng tiền mặt tồn đọng trong lưu
thông. Nếu lượng vốn này tồn đọng mà không được huy động một cách hợp lý và kịp thời
thì có thể ảnh hưởng đến tình trạng lưu thông tiền tệ, dẫn đến mất cân đối trong quan hệ
tiền - hàng và hệ thống giá cả bị biến động là điều khó tránh khỏi. Bởi vậy, tín dụng ngân
hàng góp phần ổn định tiền tệ, giá cả.
1.1.2.2. Đối với ngân hàng thương mại
Tín dụng là hoạt động chủ yếu của Ngân hàng thương mại. Phần lớn vốn do Ngân
hàng thương mại huy động được là dùng để cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn đối với
nền kinh tế.
Hoạt động tín dụng cũng là nguồn thu nhập chủ yếu của các Ngân hàng thương mại.
Bởi vậy, hoạt động tín dụng có vai trò quyết định sự tồn tại và phát triển của các Ngân
hàng thương mại.
Hoạt động tín dụng cũng là cơ sở quan trọng để Ngân hàng thương mại phát triển

các hoạt động khác như huy động vốn, dịch vụ thanh toán và các dịch vụ khác cho tổ chức,
doanh nghiệp và cá nhân.
1.1.2.3. Đối với các doanh nghiệp
Với chức năng chính là “đi vay để cho vay”, ngân hàng đứng ra huy động tiền gửi
từ dân cư và các doanh nghiệp. Mỗi cá nhân và tổ chức, khi có nguồn vốn nhàn rỗi tạm
thời, có thể gửi vào ngân hàng như một sự lựa chọn an toàn và là quyết định đầu tư ít rủi
ro. Ngân hàng dùng số vốn tạm thời này để cung cấp cho các cá nhân và các doanh nghiệp
khác đang có nhu cầu về vốn. Do có ngân hàng đứng ra làm trung gian cho quá trình luân
chuyển vốn nên các nguồn vốn có thể được tập trung và đến với người cần vốn, giảm được
các chi phí xã hội và đảm bảo ba bên cùng có lợi. Chính các lợi ích đó đã khuyến khích các
cá nhân, tổ chức gửi vốn vào ngân hàng. Hợp đồng tín dụng càng phát triển thì càng thúc
đẩy quá trình tích tụ vốn.
Các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh dựa trên vốn chủ sở hữu và vốn
vay. Một trong những nguồn đi vay là từ ngân hàng. Đây là nguồn tài trợ hiệu quả bởi vì
nó thoả mãn nhu cầu vốn về cả số lượng và thời hạn. Hơn nữa, để có thể vay vốn được từ
ngân hàng, các doanh nghiệp buộc phải nâng cao uy tín của mình để đảm bảo được các
nguyên tắc tín dụng. Nó đòi hỏi các doanh nghiệp phải tìm hiểu thị trường, khai thác thông
tin, định lượng hoạt động kinh doanh của mình sao cho có hiệu quả. Điều đó làm tăng hiệu
quả của các dự án và phương án.
Đứng trước xu thế quốc tế hoá, các doanh nghiệp không chỉ có quan hệ mua bán với
các thành phần kinh tế trong nước mà còn quan hệ xuất nhập khẩu với các doanh nghiệp
nước ngoài. Tín dụng ngân hàng có thể thúc đẩy mối quan hệ này thông qua hình thức bảo
lãnh, cho vay đối với doanh nghiệp để từ đó nâng cao uy tín của doanh nghiệp trên trường
quốc tế.
1.1.3. Các hình thức tín dụng ngân hàng
Ngân hàng cung cấp rất nhiều hình thức tín dụng cho nhiều đối tượng khách hàng
với nhiều mục đích sử dụng khác nhau. Để tránh nhầm lẫn và có cái nhìn tổng quát về các
loại hình tín dụng, người ta có thể phân loại tín dụng theo một số tiêu thức nhất định. Theo
điều 49 mục 2 Luật các tổ chức tín dụng thì tín dụng ngân hàng được thể hiện dưới các
hình thức sau:

1.1.3.1. Hình thức cho vay
Quy chế cho vay của các tổ chức tín dụng quy định: cho vay là một hình thức của
cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng cho khách hàng vay một khoản tiền để sử dụng vào
một mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi.
Tổ chức tín dụng cho các tổ chức, cá nhân vay ngắn hạn nhằm đáp ứng nhu cầu cho sản
xuất kinh doanh, dịch vụ và đời sống, cho vay trung và dài hạn nhằm thực hiện các dự án
đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, dịch vụ và đời sống.
1.1.3.2. Hình thức chiết khấu
Trong nền kinh tế thị trường, các giấy tờ có giá được phát hành và lưu thông theo
quy định của Pháp luật. Người giữ các giấy tờ có gía này nếu cần tiền mặt khi các giấy tờ
có giá chưa đến hạn thì có thể mang giấy tờ đó đến ngân hàng thương mại để xin chiết
khấu. “ Tổ chức tín dụng được cấp tín dụng dưới hình thức chiết khấu thương phiếu và các
giấy tờ có giá ngắn hạn khác. Chủ sở hữu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn
khác phải chuyển giao ngay mọi quyền lợi và lợi ích hợp pháp phát sinh từ các giấy tờ có
giá đó cho tổ chức tín dụng” ( Điều 57 mục 2 Luật các tổ chức tín dụng ).
Như vậy về bản chất kinh tế, chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn
hạn khác là tín dụng ngắn hạn mà ngân hàng chuyển tiền cho người chủ sở hữu các giấy tờ
có giá đó khi nó chưa đến hạn thanh toán. Khách hàng muốn bán thương phiếu cho ngân
hàng phải lập đầy đủ thủ tục giống như vay vốn, làm đơn xin chiết khấu thương phiếu, ngâ
hàng kiểm tra khả năng thanh toán nợ khi đến hạn của người phát hành thương phiếu, nếu
được chấp nhận và quyết định mức chiết khấu. Thông thường các ngân hàng chỉ chiết khấu
các thương phiếu có thời gian đến ngắn hạn từ 3 – 6 tháng. Ưu điểm đặc biệt của hình thức
tín dụng chiết khấu là nếu trong trường hợp khó khăn về khả năng thanh toán thì có thể
đem các giấy tờ có giá đó đến Ngân hàng Trung ương xin tái triết khấu.
1.1.3.3. Hình thức nhận trả
Là hình thức tín dụng mà ngân hàng nhận trả nợ thay cho người phát hành kỳ phiếu
khi đến hạn thanh toán mà người phát hành kỳ phiếu không có khả năng thanh toán. Đây là
sự đảm bảo chắc chắn cho người sở hữu kỳ phiếu rằng họ sẽ nhận được tiền khi đến hạn
thanh toán cũng như có thể dễ dàng đem kỳ phiếu đi chiết khấu. Để có được sự đảm bảo
đó, doanh nghiệp phát hành kỳ phiếu sẽ phải trả cho ngân hàng một khoản hoa hồng. Trong

hợp đồng tín dụng giữa người phát hành kỳ phiếu và ngân hàng có quy định người phát
hành kỳ phiếu phải giao số tiền của kỳ phiếu chậm nhất trước ngày kỳ phiếu đến hạn.
Ngân hàng phải thẩm định khả năng thanh toán của doanh nghiệp trước khi ngân hàng đảm
bảo cho doanh nghiệp đó phát hành kỳ phiếu.
1.1.3.4. Tín dụng trả nhiều lần
Là hình thức cho vay mà việc trả nợ được phân ra làm nhiều thời hạn, mỗi lần trả
nợ bao gồm một phần gốc và một phần lãi. Loại tín dụng này rất phù hựp với đặc điểm sử
dụng vốn của doanh nghiệp là thu hồi vốn làm nhiều lần. Tín dụng trả nhiều lần bao gồm
bao gồm cácloại tín dụng ngắn, trung và dài hạn. Doanh nghiệp và ngân hàng thoả thuận
mức cho vay, lãi suất cho vay và kỳ hạn trả nợ cũng như số lãi và gốc cho mỗi lần trả nợ.
Tín dụng trả nhiều lần có thị trường rộng lớn nhưng cần có điều kiện đảm baỏ để thực hiện
loại hình cho vay này.
1.1.3.5. Hình thức bảo lãnh
Đây là hình thức tín dụng phát sinh do ngân hàng nhận bảo lãnh dùng uy tín của
mình để đảm bảo thanh toán cho người bán hàng trong trường hợp người mua hàng ( người
được bảo lãnh ) không có khả năng thanh toán nợ.
Có 2 loại bảo lãnh:
Bảo lãnh bằng thư: ngân hàng phát hành một thư bảo lãnh để khách hàng có thể
mua vật tư hàng hoá, bao thầu ... Ttrong thư bảo lãnh ngân hàng cam kết sẽ trả thay cho
khách hàng khi khách hàng không trả tiền, nộp thuế...
Bảo lãnh bằng hình thức chấp nhận: ngân hàng có thể dùng cách ký chấp nhận vào
một thương phiếu do nhà cung cấp lập khi bán chịu cho khách hàng hay do một ngân hàng
lập cho người muốn vay tiền. Bảo lãnh vay tiền cuả một ngân hàng khác còn là cách san sẻ
rủi ro cho nhiều ngân hàng.
1.1.3.6. Hình thức cầm cố bất động sản
Đây là hình thức cho vay dài hạn trên cơ sở đảm bảo bằng bất động sản như nhà
cửa, đất đai, xưởng máy.... Tài sản cầm cố phải được chuyển cho người cho vay, do đó
người cho vay là người sở hữu trực tiếp còn gnười vay chỉ còn là người sở hữu gián tiếp
tài sản cầm cố.
1.2. Rủi ro tín dụng ngân hàng

1.2.1. Các loại rủi ro trong kinh doanh Ngân hàng
Trong nền kinh tế thị trường, kinh doanh và rủi ro là hai phạm trù cặp đôi. Kinh tế
thị trường làm đa dạng hoá các thành phần kinh tế, bình đẳng hoá hoạt động của các thành
phần này và thúc đẩy cạnh tranh lẫn nhau. Rủi ro – tuy là là những khả năng xảy ra tổn
thất ngoài dự kiến song lại là hiện tượng đồng hành với các hoạt động kinh doanh trong cơ
chế thị trường cũng như trong quá trình cạnh tranh.
Hoạt động kinh doanh của ngân hàng cũng không nằm ngoài tác động trên, với các
hoạt động ngân hàng hầu như không có loại nghiệp vụ nào, không có loại dịch vụ nào của
ngân hàng là không có rủi ro. Bởi lẽ, ngân hàng được coi là một loại doanh nghiệp kinh
doanh hàng hoá đặc biệt – hàng hoá tiền tệ, do đó thường xuyên đối mặt với nhiều loại rủi
ro. Các ngân hàng được coi là thành công khi mức độ rủi ro họ tham gia vào ở mức hợp lý,
được kiểm soát trong phạm vi và năng lực tài chính của họ. Có nhiều cách hiểu rủi ro khác
nhau, có nhiều định nghĩa về rủi ro của các nhà kinh tế và các nhà kinh doanh. Thật khó mà
thâu tóm được một định nghĩa rủi ro chuẩn xác cho mọi môi trường kinh doanh cũng như
mọi giai đoạn phát triển của kinh tế - xã hội. Tuy khó tìm được một định nghĩa rủi ro hoàn
hảo, song có thể biết được rằng rủi ro thường có hai đặc tính sau:
- Thứ nhất, biên độ rủi ro, đó là sự thiệt hại từ rủi ro gây ra ở mức độ nào.
- Thứ hai, tần số xuất hiện của rủi ro nhiều hay ít.
Là một doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, Ngân hàng thương mại cũng gánh chịu các
rủi ro do các tác động của môi trường vĩ mô và vi mô gây nên như các doanh nghiệp khác.
Rủi ro trong kinh doanh ngân hàng về cơ bản có thể chia thành 2 loại: rủi ro môi trường và
rủi ro đặc thù.
(1) Rủi ro môi trường hay còn gọi là rủi ro thị trường:
Rủi ro về môi trường luôn luôn tồn tại trong tổ chức và ngoài tổ chức, hay nói cách
khác, rủi ro môi trường gồm 2 loại: rủi ro môi trường vĩ mô và rủi ro môi trường cạnh
tranh.
+ Rủi ro môi trường vĩ mô: Môi trường mà ngân hàng hoạt động chứa đầy muôn
vàn rủi ro, chúng tác động đến ngân hàng bằng nhiều cách: hoặc là suy yếu khả năng chịu
đựng rủi ro của ngân hàng, hoặc gây cho ngân hàng những thiệt hại về tài chính. Những rủi
ro này rất khoa kiểm soát nên chúng được gọi là “rủi ro không kiểm soát được”. Trong

thực tế, người ta có thể kiểm soát chúng ở mức độ hạn chế trên cơ sở dự báo. Các rủi ro
môi trường vĩ mô mà ngân hàng thường gặp là:
- Rủi ro tự nhiên hay rủi ro bất khả kháng: lũ lụt, hỏa hoạn, động đất,…
- Rủi ro về luật pháp liên quan đến việc thay đổi các luật lệ gây bất lợi cho ngân
hàng. Ở các nước đang phát triển, đây là rủi ro có thể gây thiệt hại lớn cho nền kinh tế, do
thiếu các quy định cần thiết.
- Rủi ro về kinh tế liên quan đến sự vận động của nền kinh tế và chu kỳ kinh doanh:
lạm phát, thất nghiệp, suy thoái kinh tế, khủng hoảng…Ảnh hưởng của các yếu tố này đến
ngân hàng thường rất lớn.
- Rủi ro về điều chỉnh: nhằm thực hiện các chính sách vĩ mô, các nhà lãnh đạo đưa
ra các chính sách tiền tệ, lãi suất,… đôi khi gây thiệt hại cho ngân hàng.
+ Rủi ro môi trường cạnh tranh: một ngân hàng trong hoạt động kinh doanh thường
chịu tác động của khách hàng hoặc các đối thủ từ nhiều phía, từ đó luôn nhận rất nhiều các
tác động đầy rủi ro.
(2) Rủi ro đặc thù:
Rủi ro đặc thù luôn tồn tại trong lĩnh vực hoặc ngành nghề kinh doanh. Rủi ro đặc
thù là rủi ro do bản chất của ngành hay lĩnh vực kinh doanh đó tạo ra. Trong lĩnh vực ngân
hàng, rủi ro đặc thù thường bao gồm các yếu tố:
- Rủi ro về quản lý: Rủi ro này có thể bắt nguồn từ ban quản lý ngân hàng do thiếu
kiến thức, thiếu kinh nghiệm hoặc thiếu khả năng điều hành. Nó cũng có thể xảy ra do sự
yếu kém về năng lực hay đạo đức của nhân viên ngân hàng.
- Rủi ro cung cấp các dịch vụ tài chính hay rủi ro kinh doanh bao gồm: rủi ro về
hoạt động, rủi ro về sản phẩm, rủi ro về văn hóa, rủi ro về công nghệ, rủi ro đòn cân nợ và
rủi ro do thiếu nỗ lực nghiên cứu và phát triển.
- Rủi ro thích ứng vốn: nó thể hiện ngân hàng có quy mô vốn nhỏ thường ít an toàn
hơn ngân hàng có qui mô vốn lớn.
- Rủi ro tài sản thế chấp: tài sản thế chấp không đủ giá trị để bù đắp thiệt hại cho
ngân hàng…
Trên thực tế, các loại rủi ro cần được nghiên cứu trong mối liên hệ không thể tách
rời. Một loại rủi ro này có thể đưa tới một loại rủi ro khác, các loại rủi ro có mối liên quan

chặt chẽ với nhau trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại. Ngày nay các
loại rủi ro không chỉ xảy ra ở các lĩnh vực truyền thống như cho vay hay đầu tư chứng
khoán, mà còn có thể xảy ra trong đảm bảo tín dụng và các hoạt động ngoại bảng khác.
Việc nghiên cứu một cách tỉ mỉ khái niệm các loại rủi ro trong hoạt động ngân hàng góp
phần làm phong phú thêm lý luận kinh doanh và góp phần áp dụng một cách có nhận thức
khái niệm này trong thực tiễn hoạt động ngân hàng khi thông qua quyết định trên thương
trường. Thực ra không thể loại trừ tuyệt đối rủi ro ra khỏi hoạt động kinh doanh của Ngân
hàng thương mại, tuy nhiên có thể soạn thảo những biện pháp nhằm hạn chế đến mức thấp
nhất các rủi ro này.
Hoạt động ngân hàng là một trong những hoạt động kinh tế có nhiều rủi ro hơn hết.
Một hệ thống ngân hàng hoạt động tốt có thể làm giảm bớt tới mức tối thiểu tất cả những
khả năng rủi ro, ngoại trừ những “rủi ro vì tai họa: (như động đất…), những đợt suy thoái
lớn về kinh tế trên thế giới,…Việc nghiên cứu những rủi ro này không thể tách rời với việc
nghiên cứu luật lệ ngân hàng, vì mục đích chính của luật lệ ngân hàng là bắt buộc các ngân
hàng phải có thái độ thận trọng với các rủi ro. Dưới đây là các loại rủi ro cơ bản của ngân
hàng:
1.2.1.1. Rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra những tổn thất ngoài dự kiến cho ngân hàng do
khách hàng vay không trả đúng hạn, không trả, hoặc không trả đầy đủ vốn và lãi.
Rủi ro tín dụng cũng được định nghĩa là khoản lỗ tiềm năng vốn có được tạo ra khi
cấp tín dụng cho một khách hàng.
Đây là rủi ro gắn liền với các hoạt động ngân hàng, cho vay bao giờ cũng bao gồm
rủi ro và xảy ra mất mát. Rủi ro tín dụng không giới hạn ở hoạt động cho vay, mà còn bao
gồm nhiều hoạt động mang tính chất tín dụng khác của ngân hàng như: các hoạt động bảo
lãnh, cam kết, chấp thuận tài trợ thương mại, cho vay ở thị trường liên ngân hàng, …
1.2.1.2. Rủi ro lãi suất
Rủi ro lãi suất là khả năng xảy ra tổn thất cho ngân hàng khi lãi suất thay đổi ngoài
dự tính. Lãi suất ngân hàng (cả bên tài sản lẫn bên nguồn vốn) thường xuyên biến động với
các mức độ khác nhau có thể dẫn đến tổn thất. Rủi ro lãi suất có liên quan chặt chẽ với rủi
ro tín dụng.

Lãi suất cho vay của ngân hàng khác với lãi suất của các công cụ trên thị trường tiền
tệ, chẳng hạn như ngân khố phiếu và thương phiếu, ở chỗ là chúng được đàm phán giữa
người vay và ngân hàng hơn là được quyết định trong một thị trường được tổ chức sẵn. Vì
là kết quả của phương pháp xác định giá cả tín dụng được đàm phán, các mức lãi suất cho
vay của ngân hàng không đồng nhất. Chúng phản ánh cả đặc tính cá biệt của khoản tín
dụng lẫn cung cầu về tín dụng trên thị trường vốn và tiền tệ. Lãi suất cũng thay đổi so với
mức rủi ro tín dụng trên hàng loạt các yếu tố: tiền cho vay, thời hạn, quy mô cho vay, chi
phí thực hiện và giám sát khoản cho vay, số dư tiền gửi của người vay và các chứng khoán.
Hơn nữa, lãi suất còn bị ảnh hưởng bởi phong tục tập quán, sự cạnh tranh giữa các ngân
hàng và các nguồn vốn khác, lãi suất khống chế tối đa và thái độ của các giám đốc ngân
hàng và người vay, liên quan đến các điều kiện kinh tế trong tương lai.
Lãi suất có thể cố định hoặc biến đổi. Lãi suất cố định là một lãi suất nguyên như cũ
suốt thời kỳ hợp đồng. Lãi suất biến đổi là một lãi suất có thể thay đổi suốt thời hạn cho
vay, tùy vào các thay đổi của lãi suất tham khảo được sử dụng cho hầu hết những khoản
cho vay có mức lãi biến đổi là lãi suất cơ bản, lãi suất áp dụng cho vay kinh doanh. Mức lãi
cơ bản tiếp tục là mốc tham khảo đối với hầu hết các khoản cho vay kinh doanh qui mô
nhỏ và vừa và thường được hiểu là mức lãi cho vay cơ bản của một ngân hàng. Tuy nhiên,
trong những năm gần đây, nhiều khoản cho vay kinh doanh lớn và ngắn hạn đã bị ghìm ở
mức thị trường tiền tệ, mà nói chung thấp hơn mức cơ bản. Sự thay đổi này xảy ra do sự
cạnh tranh từ thị trường thương phiếu và những người cho vay nước ngoài.
Rủi ro lãi suất ảnh hưởng đến tình hình ngân hàng theo hai cách. Cách thứ nhất
được biết rõ nhất và nghiên cứu nhiều nhất, là mối quan hệ trái ngược giữa lãi suất – giá trị
một tài sản tài chính. Nếu ta coi bảng cân đối ngân hàng như một bộ chứng khoán tài
chính, thì mỗi chứng khoán phản ứng khác nhau, thuận lợi hoặc bất lợi đối với biến động
về lãi suất. Cách thứ hai dẫn đến sự sai lệch lâu dài về thu nhập của sử dụng vốn và chi phí
của nguồn vốn trong tài khoản kết quả tài chính.
1.2.1.3. Rủi ro hối đoái
Rủi ro hối đoái là khả năng xảy ra những tổn thất ngoài dự kiến cho ngân hàng khi
tỷ giá hối đoái thay đổi vượt quá thay đổi dự tính. Trong cơ chế thị trường, tỷ giá thường
xuyên dao động. Sự thay đổi này cùng với trạng thái hối đoái của ngân hàng tạo ra thu

nhập thặng dư hoặc thâm hụt tạm thời. Tuy nhiên, có những thay đổi tỷ giá ngoài dự kiến
dẫn đến những tổn thất cho ngân hàng.
Một ngân hàng giao dịch ngoại hối, phải giới hạn việc tham gia vào các loại tiền tệ
khác nhau và thực hiện một khối lượng kinh doanh vừa đủ để các thiệt hại có thể được bù
đắp bằng các lợi tức. Hơn nữa, ngân hàng phải cảnh giác không chỉ với những thay đổi về
tỷ giá hối đoái, mà cả với các nguyên nhân của những thay đổi ấy để có thể áp dụng các
biện pháp giảm bớt rủi ro. Về các loại tiền tệ chủ yếu, các ngân hàng hay các khách hàng
có thể giảm bớt rủi ro với các giao dịch trong thị trường tỷ giá hối đoái có kỳ hạn. Chúng
ta sẽ thấy là rủi ro hối đoái và rủi ro lãi suất đan xen với nhau vì trong một giao dịch hối
đoái có kỳ hạn, giai đoạn đầu là bán ngoại tệ giao ngay làm phát sinh rủi ro hối đoái và giai
đoạn hai là đem đầu tư số nội tệ hay ngoại tệ trên thị trường vốn làm phát sinh rủi ro lãi
suất.
1.2.1.4. Rủi ro thanh khoản
Rủi ro thanh khoản là khả năng xảy ra tổn thất ngoài dự kiến cho ngân hàng khi
nhu cầu thanh khoản thực tế vượt quá (hoặc nhỏ hơn) khả năng thanh khoản dự kiến làm
gia tăng các chi phí để đáp ứng nhu cầu thanh khoản hoặc làm cho ngân hàng mất khả năng
thanh toán.
Sự an toàn của các ngân hàng vẫn luôn luôn là mối quan tâm với nhiều người, từ
các giới chức điều hành đến các nhà kinh doanh, các cổ đông ngân hàng và những công
dân của đất nước, vì những vụ phá sản ngân hàng có lẽ có ảnh hưởng bất lợi đối với nền
kinh tế hơn bất cứ vụ phá sản ở bất cứ loại hình doanh nghiệp nào khác.
Khả năng thanh toán của ngân hàng không phải là một đại lượng thống kê: nó
không được đánh giá một cách trực tiếp. Trái lại, người ta dễ dàng có thể hiểu được những
biến đổi của khả năng thanh toán của ngân hàng biểu hiện cái gì. Một ngân hàng đều có
một khả năng thanh toán càng nhiều hơn, nếu nó càng có nhiều tiền tệ trung ương hơn, có
nghĩa là số dư cao hơn trong tài khoản vãng lai ở ngân hàng trung ương, hay là tài sản có
của chúng đều dễ dàng chuyển sang tiền trung ương, cùng với khả năng tăng vốn nhanh từ
các nguồn khác nhau nhiều khiến nó có khả năng đáp ứng các nghĩa vụ chi trả và các ràng
buộc tài chính, theo một phương pháp thích hợp. Nên giữ bao nhiêu thanh khoản, giữ nó
dưới hình thức nào là mối quan tâm thường xuyên của các nhà quản lý ngân hàng. Các

ngân hàng phải tuân theo các yêu cầu dự trữ bắt buộc, các ngân hàng cần thanh khoản ðể
ðáp ứng các nhu cầu tín dụng bất ngờ và theo thời vụ những dao ðộng về tiền gửi. Ða số
các giao dịch này có thể từ tiền gửi, thu nợ… Ðể ðịnh ðýợc một cách thích hợp nào ðó của
thanh khoản, ngýời ta phải so sánh số thanh khoản ðang nắm giữ với các nhu cầu về thanh
khoản cần ðến. Sự ðánh giá về thanh khoản ðýợc ðồng tình nhiều nhất xuất phát từ quan
niệm cho rằng, mức độ thanh khoản mà một ngân hàng riêng biệt nào đó cần đến tùy thuộc
vào lượng biến đổi xảy ra ở số dư tiền gửi và nhu cầu tín dụng trong một khoảng thời gian
nhất định được xác định.
1.2.1.5. Rủi ro hoạt động

×