Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

Tải Vẻ đẹp lãng mạn và hào hùng của nhân vật trữ tình trong bài thơ Lưu biệt khi xuất dương - 3 Bài văn mẫu lớp 11

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (101.79 KB, 6 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Đề bài: Vẻ đẹp lãng mạn và hào hùng của nhân vật trữ tình trong bài thơ</b>
<b>Lưu biệt khi xuất dương Ngữ văn 11</b>


<b>Bài làm:</b>


Bài thơ "Lưu biệt khi xuất dương" là một bài thơ tiêu biểu trong cuộc đời hoạt
động cách mạng của nhà chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu, bài thơ mang ý nghĩa
là lời chia tay, từ biệt bạn bè và đồng chí để lên đường sang Nhật, dấy lên
phong trào Đông Du. Bài thơ là một bài ca hào sảng về lí tưởng yêu nước cao
cả, khí phách anh hùng và khát vọng cứu nước đầy nhiệt huyết của Phan Bội
Châu, đặc biệt bài thơ có sức lay động mạnh mẽ nhờ vẻ đẹp lãng mạn và hào
hùng của nhân vật trữ tình.


Vẻ đẹp lãng mạn và hào hùng của nhân vật trữ tình được bộc lộ rất rõ nét trong
bài thơ, đầu tiên là quan điểm mới mẻ của Phan Bội Châu về chí làm trai:


<i>"Làm trai phải lạ ở trên đời,</i>
<i>Há để càn khơn tự chuyển dời."</i>


Có thể nói đây là một quan niệm mới mẻ và táo bạo về chí làm trai của nhân
vật trữ tình, sinh ra làm đấng nam nhi phải có cái "lạ", nghĩa là phải làm được
những điều phi thường, hơn người. Phải là người chủ động, quyết định tương
lai và chí hướng của mình, khơng phụ thuộc và bị tác động bởi hồn cảnh, thời
thế. Làm trai trước hết phải có sự nghiệp anh hùng, phải tự tin và lạc quan để
mưu đồ nghiệp lớn, đây là một lẽ sống đẹp, thể hiện một vẻ đẹp tâm thế lẫm
liệt, phi thường, tầm vóc lớn lao sánh ngang vũ trụ.


<i>"Trong khoảng trăm năm cần có tớ,</i>
<i>Say này muôn thuở há không ai?"</i>


Vẻ đẹp hào hùng lãng mạn của Phan Bội Châu cịn được hình tượng hóa qua


tầm vóc của con người trong vũ trụ, ý thức tự giác trước trách nhiệm của mình
đối với thời thế và cuộc đời. Nhà thơ khẳng định dứt khoát một sứ mệnh của
bản thân, đó là cống hiến cho đời, lưu danh thiên cổ, trong khoảng trăm năm
phải để lại tên tuổi vẻ vang, không chịu ở trong đám tầm thường, Phan Bội
Châu không phủ nhận những anh hùng khác, mà chỉ không coi anh hùng là cá
nhân duy nhất, đồng thời động viên thế hệ trẻ hãy hướng đến tương lai. Có thể
thấy, nhà chí sĩ có một ý thức trách nhiệm cơng dân rất cao cả, chính đáng, xuất
phát từ chính lịng u nước sơi sục và tha thiết.


<i>"Đã mang tiếng ở trong trời đất,</i>
<i>Phải có danh gì với núi sơng."</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

cho thấy tư tưởng tiến bộ, tiên phong của Phan Bội Châu, ơng nói về nỗi nhục
mất nước nhưng cũng hé mở con đường để rửa nỗi nhục đó.


<i>"Muốn vượt bể Đơng theo cánh gió,</i>
<i>Mn trùng sóng bạc tiễn ra khơi."</i>


Để có thể thực hiện được trách nhiệm lớn lao của mình, nhân vật trữ tình đã
dấy lên khát vọng về một chuyến đi bất chấp khó khăn gian khổ. Những hình
ảnh kì vĩ lớn lao như: "vượt bể Đơng", "cánh gió", "mn trùng", "sóng bạc" đã
diễn tả một tư thế hăm hở, đầy tự tin và lạc quan vào một tương lai tươi sáng
đang chào đón. Khát vọng lớn lao rất tương xứng với một tư thế hào hùng của
nhà chí sĩ trong buổi lên đường, con người như được hòa nhập vào thiên nhiên,
trở thành trung tâm của vũ trụ, "muôn trùng sóng bạc" đã hịa chung vào sự
thăng hoa khí thế anh hùng, cùng hịa nhịp đập với trái tim sơi sục của nhân vật
trữ tình.


Qua bài thơ "Lưu biệt khi xuất dương", tác giả Phan Bội Châu đã tạo dựng rất
thành cơng hình tượng người chí sĩ cách mạng u nước với vẻ đẹp lãng mạn


và hào hùng. Vẻ đẹp hào hùng và lãng mạn khiến bài thơ trở thành một bài
tráng ca, khúc hát lên đường đầy hào sảng của người anh hùng suốt một đời
không biết mỏi mệt vì đất nước, nhân dân.


<b> Bài làm 2</b>


Xuất dương lưu biệt khơng những là một bài thơ hay, mà cịn là một mốc quan
trọng đánh dấu cuộc đời hoạt động cứu nước sơi nổi cùng thơ văn cổ động lịng
u nước và đấu tranh cách mạng đầy nhiệt huyết của nhà chí sĩ Phan Bội
Châu. Bài thơ được ứng khẩu trong hoàn cảnh tác giả tạm biệt bạn bè đồng chí
để lên đường. Xuất dương lưu biệt là bài ca hào sảng và hùng tráng về chí nam
nhi của nhân vật trữ tình mang vẻ đẹp lãng mạn và hào hùng.


Bài thơ Xuất dương lưu biệt là giờ phút con hổ được về rừng, con cá kình
được ra biển khơi, con đại bàng được tung cánh, dù phía trước cịn biết bao khó
khăn và nguy hiểm, nhưng chúng có cái hanh phúc được vẫy vùng. Sau một
thời gian tham gia các phong trào yêu nước nhưng không đem lại hiệu quả,
Phai Bội Châu đã trăn trở suy tư để tìm ra một con đường cứu nước mới để đưa
nước Việt Nam hùng mạnh như các nước ở Đông Á (Trung Quốc, Nhật Bản).
Đến năm 1905 ông giã biệt bạn bè để sang Nhật cầu giúp đỡ. Xuất dương lưu
biệt là những lời lẽ tỏ rõ quyết tâm của ông trước khi lên đường:


Làm trai há phải lạ trên đời.
Há đế càn không tự chuyển dời.


Câu thơ thể hiện rõ quan niệm về chí nam nhi của Phan Bội Châu, làm trai
trước hết phải được sự nghiệp anh hùng. Chúng ta bắt gặp ý thơ này trong bài
Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão:


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Tu thỉnh nhân gian thuyết Vũ hầu


Hay trong thơ của Nguyễn Cơng Trứ.
Chí làm trai nam bắc đơng tây


Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn biển.


Quan niệm của cụ Phan giống với các nhà nho thuở xưa, đã là con người
sống trong trời đất này, phải làm được một điều gì đấy, đã sinh ra làm kẻ nam
nhi cũng phải mong có điều lạ. Nhưng tới câu thơ thứ hai, ý thơ cửa Phan Bội
Châu đã bắt đầu khác: Lẽ nào để trời đất chuyền vần lấy sao. Nghĩa là Phan
Bội Châu đã thoát ra khỏi tư tưởng thiên mệnh của người xưa. Xưa kia người
anh hùng tiết tháo Đặng Dung chua chát nhận ra thời vận (tức ý trời) là nhân tố
quyết định nên sự thành bại. chứ không phải do tài năng của bản thân:


Thời lai đồ điếu thành công dị.
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa.


(Gặp thời thì anh hùng thật, người câu cá cũng dễ dàng làm nên công trạng /
vận đã hết thì anh hùng cũng chỉ nuốt hận mà thôi).


Với Phan Sào Nam thì ngược lại, ơng đặt con người ngang tầm với càn khôn
(đất trời). Càn khôn xoay vần cuộc đời thi cớ gì con người khơng xoay vần
được càn khơng. Người xưa nói: Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên (Mưu việc
do con người, nhưng thành công là bởi ý trời). Phan Bội Châu không đề cập
chuyện thành bại ở đây nhưng ý chí dám xoay lại càn khơn thì khơng chỉ là
ngang tàng, bướng bỉnh mà có phần tự tin, lạc quan. Thoát khỏi tư tưởng thiên
mệnh là bước đột khởi để người chí sĩ cách mạng thực hiện chí nam nhi của
mình. Sau khi so mình với càn khơn, tác giả lại so mình với đồng loại:


Ưu bách niên trung tri hữu ngã
Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy



(Trong khoảng trăm năm cần có tớ Sau này mn thuở há không ai?).


Hào kiệt xưa kém thua càn khơn nhưng với đồng loại thì tự cho mình là xuảt
chúng, khơng bao giờ chịu ở trong đám đơng tầm thường. Với Phan Bội Châu
thì khác nhiều, ơng vừa đánh giá cao cá nhân anh hùng, nhưng cũng không cho
cá nhân ấy là duy nhất. Câu thơ thứ ba của bài rất gần với ý thơ của Nguyền
Công Trứ.


Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải cỏ danh gì với núi sông.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Bản thân là một nhà nho, nhưng khơng vì thế mà Phan Bội Châu giữ lấy sự
cố hữu của nhà nho, trái lại ông là con người của thực tiễn, hăm hớ với trào lưu
đổi mới. Đầu tiên đó là sự dổi mới của tư tưởng nhận thức.


Non sông đã chết sống thêm nhục Hiền thánh còn đâu học cũng hoài.


Nhà thơ đã đặt số phận của đất nước bên cạnh số phận cùa mỗi người, điều
này khơng phải đến Phan Bội Châu mới có. Nhưng có lẽ ít ai nói được điều đó
da diết thống thiết như cụ Phan. Nước đã mất đồng nghĩa với anh hùng chịu
nhục. Nhục thì phải đứng lên rửa nhục, làm được điều đó thì xứng đáng là anh
hùng. Việc học cũng phải quan niệm lại. Nếu như ở Nguyên Khuyến hay Tú
Xương:


Sách vở ích gì cho buổi ấy
Hay:


Ơng nghè ơng cống cũng nằm co.



Chỉ là niềm cảm khái cho đạo thánh hiền đến buổi lụi tàn, thì ở Phan Bội
Châu là sự phê phán đến gay gắt. Sách vở thánh hiền vơ dụng mà cịn ngồi tong
thì chỉ là hồi, là nghi mà thôi.


Sau đổi mới về tư tưởng, nhận thức là sự đổi mới về hành động:
Muốn vượt biển đơng theo cách gió Mn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.
(Nguyện trục trường phong đơng hải khứ Thiên trùng bạch lãng nhất tề phỉ).
Sóng gió ở đây khơng phải là sóng gió bình thường, mà là gió dài (trường
phong), sóng bạc (bạch lãng) tức sóng to gió lớn (phong ba bão táp). Người hào
kiệt khơng những khơng sợ sóng gió mà cịn coi sóng gió là bạn đường (những
khó khăn nguy hiểm trên dường hoạt động) là đối tượng để mình dua sức, đua
tài


Hai câu thơ cuối thế hiện ý chí mạnh mẽ của Phan Bội Châu, mong muốn
được ra đi bất chấp mọi khó khăn gian khổ. Câu thơ gợi một cảm giác bừng
bừng tráng khí chứ khơng mang một chút lo âu, cũng chẳng hề nghĩ đến quan
san muôn dặm hay lữ thứ tha hương. Nhiệt huyết cứu nước cứu nòi đã lấn át đi
tất cả. Câu thơ vượt Biển Đông cũng ngầm ý là sang Nhật Bản, đất nước nhờ
biết duy tân mà trở nên hùng cường, đánh thắng cả nước Nga hùng mạnh, là
tấm gương sáng cho các dân tộc noi theo.


Vẻ đẹp lãng mạn và hào hùng của nhân vật trữ tình trong tác phẩm đã được
thế hiện rõ nét trong chí làm trai của tác giả. Nó thể hiện khát vọng độc lập tự
do cùa các bậc chí sĩ yêu nước thuở xưa.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

nhi, trở thành gạch nối giữa lí tưởng cao đẹp của nhà nho chân chính với lí
tưởng cách mạng xã hội chủ nghĩa của người cộng sản, mà tiêu biểu là Nguvền
Ái Quốc - Hồ Chí Minh.


<b>Bài làm 3</b>



Ưu bách niên trung tri hữu ngã
Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy


(Trong khoảng trăm năm cần có tớ Sau này mn thuở há không ai?).


Hào kiệt xưa kém thua càn khơn nhưng với đồng loại thì tự cho mình là xuảt
chúng, không bao giờ chịu ở trong đám đông tầm thường. Với Phan Bội Châu
thì khác nhiều, ơng vừa đánh giá cao cá nhân anh hùng, nhưng cũng không cho
cá nhân ấy là duy nhất. Câu thơ thứ ba của bài rất gần với ý thơ của Nguyền
Công Trứ.


Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải cỏ danh gì với núi sông.


Nhưng ở câu thơ thứ tư thì lại rất khác. Tác giả đặt vai trị của cá nhân mình
bình đẳng với các cá nhân khác, tuy rằng đó mới chỉ là một câu nghi vấn: Sau
này muôn thuở, há không ai? Nhưng đã chứng tỏ Phan Bội Cháu khơng coi
mình Là duy nhất.


Bản thân là một nhà nho, nhưng khơng vì thế mà Phan Bội Châu giữ lấy sự
cố hữu của nhà nho, trái lại ông là con người của thực tiễn, hăm hớ với trào lưu
đổi mới. Đầu tiên đó là sự dổi mới của tư tưởng nhận thức.


Non sơng đã chết sống thêm nhục Hiền thánh cịn đâu học cũng hoài.


Nhà thơ đã đặt số phận của đất nước bên cạnh số phận cùa mỗi người, điều
này khơng phải đến Phan Bội Châu mới có. Nhưng có lẽ ít ai nói được điều đó
da diết thống thiết như cụ Phan. Nước đã mất đồng nghĩa với anh hùng chịu
nhục. Nhục thì phải đứng lên rửa nhục, làm được điều đó thì xứng đáng là anh


hùng. Việc học cũng phải quan niệm lại. Nếu như ở Ngun Khuyến hay Tú
Xương:


Sách vở ích gì cho buổi ấy
Hay:


Ơng nghè ơng cống cũng nằm co.


Chỉ là niềm cảm khái cho đạo thánh hiền đến buổi lụi tàn, thì ở Phan Bội
Châu là sự phê phán đến gay gắt. Sách vở thánh hiền vơ dụng mà cịn ngồi tong
thì chỉ là hồi, là nghi mà thôi.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

(Nguyện trục trường phong đông hải khứ Thiên trùng bạch lãng nhất tề phỉ).
Sóng gió ở đây khơng phải là sóng gió bình thường, mà là gió dài (trường
phong), sóng bạc (bạch lãng) tức sóng to gió lớn (phong ba bão táp). Người hào
kiệt khơng những khơng sợ sóng gió mà cịn coi sóng gió là bạn đường (những
khó khăn nguy hiểm trên dường hoạt động) là đối tượng để mình dua sức, đua
tài


Hai câu thơ cuối thế hiện ý chí mạnh mẽ của Phan Bội Châu, mong muốn
được ra đi bất chấp mọi khó khăn gian khổ. Câu thơ gợi một cảm giác bừng
bừng tráng khí chứ khơng mang một chút lo âu, cũng chẳng hề nghĩ đến quan
san muôn dặm hay lữ thứ tha hương. Nhiệt huyết cứu nước cứu nòi đã lấn át đi
tất cả. Câu thơ vượt Biển Đông cũng ngầm ý là sang Nhật Bản, đất nước nhờ
biết duy tân mà trở nên hùng cường, đánh thắng cả nước Nga hùng mạnh, là
tấm gương sáng cho các dân tộc noi theo.


Vẻ đẹp lãng mạn và hào hùng của nhân vật trữ tình trong tác phẩm đã được
thế hiện rõ nét trong chí làm trai của tác giả. Nó thể hiện khát vọng độc lập tự
do cùa các bậc chí sĩ yêu nước thuở xưa.



Trong bối cảnh đất nước Vua là tượng gỗ, dân là thân trâu (á - tế - á - ca), sự
xuất hiện của Phan Bội Châu với sứ mệnh hai vai gánh vác cả sơn hà đã thổi
vào lịch sử văn học một luồn sinh khí hào hùng chưa từng có. Qua vẻ đẹp lãng
mạn mà hào hùng của nhân vật trữ tình, Phan Bội Châu mn hát vang chí nam
nhi, trở thành gạch nối giữa lí tưởng cao đẹp của nhà nho chân chính với lí
tưởng cách mạng xã hội chủ nghĩa của người cộng sản, mà tiêu biểu là Nguvền
Ái Quốc - Hồ Chí Minh.


</div>

<!--links-->

×