Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Tải Cảm nhận về bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - 5 Bài văn mẫu lớp 11

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.71 KB, 16 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Đề bài: Cảm nhận về bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc Ngữ văn 11</b>
<b>Dàn ý chi tiết</b>


<b>1. Mở bài</b>


- Giới thiệu về tác phẩm


- Bài văn tế là khúc tráng ca của những người nghĩa sĩ tuy thất thế nhưng vẫn
hiên ngang.


<b>2. Thân bài</b>


a. Giới thiệu hoàn cảnh ra đời bài văn tế:


- Được viết bởi Nguyễn Đình Chiểu dưới yêu cầu của tuần phủ Gia Định – Đỗ
Quang.


- Được ra đời sau khi đội quân nghĩa sĩ Cần Giuộc tấn công vào đồn Pháp, giết
chết tên quan hai mang người Việt. Nhưng có hơn hai mươi nghĩa sĩ tử trận.
- Bài văn đã khích lệ tinh thần yêu nước của nhân dân và được hưởng ứng nhiệt
liệt.


- Là khúc tráng ca về tượng đài bất tử của người nghĩa sĩ Cần Giuộc.


b. Mở đầu bài thơ là sự khái quát về tình hình thời đại và khẳng định sự bất tử
về tiếng thơm của người nghĩa sĩ nông dân.


- Mở đầu "Hỡi ôi!": lời than khóc, tiếc thương, lời hiệu triệu vong linh nghĩa sĩ.
- Tái hiện khung cảnh thời đại "Súng giặc … trời tỏ: Đất nước đang bị xâm
lược - lòng căm thù quân giặc của người dân thấu tận trời xanh.



- Khẳng định sự bất tử của tượng đài người nghĩa sĩ


- Nghệ thuật đối lập (chưa ắt danh nổi như phao - tiếng vang như mõ).
c. Hình ảnh những người nghĩa sĩ nông dân


- Nguồn gốc xuất thân:


+ Là những người dân nghèo, chỉ biết chăm chỉ, hiền lành, "cui cút làm ăn" =>
Họ là những người dân chất phác, nghèo khổ quanh năm bán mặt cho đất, bán
lưng cho trời.


+ Tác giả sử dụng những từ "chưa quen, chỉ biết", "vốn quen, chưa biết" : Họ là
những người nông dân chỉ biết làm ăn, lao động, chưa từng động binh đao.
- Tấm lòng yêu nước của những người nông dân.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

đứng lên chống lại kẻ thù "nào ai … bộ hổ". => Diễn biến trong tâm trạng của
người nơng dân có sự chuyển hóa phi thường.


+ Họ nhận thức về trách nhiệm với Tổ quốc nên tự nguyện ra nhập quân đội,
chiến đấu tự nguyện, dù biết sẽ hi sinh: "Nào đợi ai … bộ hổ", "Một chắc sa …
treo mộ", "chẳng phải án …đáng số".


+ Họ nhận thức được sự tàn bạo trong sự cai quản của thực dân Pháp, nên nhất
tề đứng dậy khởi nghĩa "Vì ai …thêm buồn".


- Tinh thần chiến đấu quả cảm, không ngại hi sinh của người nghĩa sĩ:


+ Họ chỉ là những người nông dân "dân ấp dân lân" khơng phải "qn cơ qn
vệ" những vẫn hăm hở tịng quân "mến … chiêu mộ".



+ Họ ra sức rèn luyện "Mười tám …bày bố" để có thể đi đánh giặc.


+ Qn trang của họ thơ sơ: "Ngồi cật … con cúi" đối lập với quân trang tối
tân của giặc "thằng Tây … to", "tàu sắt tàu đồng".


=> Thế nhưng họ vẫn chiến đấu hết mình "nào sợ …chẳng có", lập được chiến
công "đốt xong… kia", "chém rớt …hai nọ", khiến cho lũ giặc kinh hồn "làm
cho … hồn kinh".


+ Nghệ thuật đối lập giữa đội quân áo vải và lũ giặc Pháp => tăng sự anh dũng,
hào hùng của những người nghĩa sĩ. Nhịp văn khẩn trương, cao độ như khí thế
đánh trận sục sơi.


- Bức tượng đài người nông dân nghĩa sĩ sừng sững hiên ngang.
- Sự tiếc thương, cảm phục của tác giả dành cho nghĩa sĩ đã hi sinh:


+ Hình ảnh những gia đình tang tóc "Đau đớn …trước ngõ": Bầu khơng khí
tang thương + Niềm cảm thương sâu sắc của tác giả.


+ Sự hi sinh anh dũng của họ được nói lên bằng cảm xúc tơn kính, tự hào,
thương tiếc.


- Ca ngợi chiến công và bức tượng đài bất tử của người nghĩa sĩ:


+ Khẳng định sự tiếc thương của người dân cả nước dành cho những người
nghĩa sĩ "Nước mắt …vương thổ".


+ Nêu cao tinh thần xả thân vì nghĩa lớn của những người lính "Ơi … tiết rỡ".
=> Khúc ca bi tráng dành cho những anh linh nghĩa sĩ anh hùng.



+ Nghệ thuật: Nhịp văn bồi hồi, chậm rãi, xúc động như để tưởng nhớ.
<b>3. Kết bài</b>


- Khẳng định hình tượng bất tử của người nghĩa sĩ


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<b>Bài Mẫu Số 1:</b>


Nguyễn Đình Chiểu - một con người được mệnh danh là ngơi sao sáng trên bầu
trời dân tộc. Ơng khơng chỉ là một người thầy giáo mẫu mực, một người thầy
lang y đức mà còn là một nhà thơ, nhà văn tài năng. Ơng ln dùng văn chương
để chiến đấu vì chính nghĩa. Ta có thể thấy rõ sự chính nghĩa ấy thông qua tác
phẩm nổi tiếng và vang mãi sau này của ông " Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc". Ông
đã dựng lên bức tượng đài bất tử về nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc. Tác phẩm là
tiếng khóc bi tráng trong thời kỳ lịch sử bi thương của dân tộc.


Mở đầu tác phẩm nhà văn đã kết hợp một câu cảm thán với nghệ thuật đối lập:
<i>"Hỡi ôi!</i>


<i>Súng giặc đất rền; lịng dân trời tỏ</i>


<i>Mười năm cơng vỡ ruộng, chưa ắt còn danh nổi như phao; một trận nghĩa</i>
<i>đánh Tây, tuy mà mất tiếng vang như mõ."</i>


Phần đầu lung khởi của bài tế đã luận chung về lẽ sống chết. Nguyễn Đình
Chiểu đã sử dụng biện pháp nghệ thuật đối: "Súng giặc đất rền" với " lòng dân
trời tỏ". Nghệ thuật ấy đã mở ra một hồn cảnh tình thế bão táp của lịch sử. Đó
là một sự đụng độ quyết liệt giữa thế lực xâm lăng tàn bạo với ý chí, nghị lực,
kiên cường bảo vệ Tổ quốc của dân tộc ta. Tiếp đó tác giả lại sử dụng nghệ
thuật đối về thời gian: "mười năm công vỡ ruộng" và "một trận nghĩa đánh
Tây", chính "mười" và "một" ấy đã khẳng định ý chí cao quý, những hy sinh


oanh liệt của chiến sĩ Cần Giuộc.


Với những người nghĩa sĩ, nông dân mộc mạc ấy đã dâng hiến cả cuộc đời
mình cho đất nước kể từ lúc chưa có chiến tranh hay điểm diễn ra chiến tranh
xảy ra . Qua phần thích thực, tác giả đã ca ngợi cơng đức phẩm hạnh của người
nông dân- anh hùng dân tộc.


<i>"Nhớ linh xưa:</i>


<i>Cui cút làm ăn; lo toan nghèo khó..."</i>


Nguồn gốc xuất thân của những nghĩa sĩ ấy là những người nơng dân cui cút
làm ăn, chịu thương chịu khó, sống cuộc sống của mình với đồng ruộng xóm
làng với cơng việc quen thuộc: cuốc, cày, bừa, cấy... đâu biết đến "cung ngựa,
trường nhung", đâu biết tập khiên súng gì. Nghe thấy "phong hạc", họ ngóng
trơng triều đình đưa ra kế sách để chống lại quân giặc, thế mà triều đình nhu
nhược, khơng lo toan được việc nước, làm lịng dân càng thêm căm phẫn: "
Bữa thấy bòng bong, che trắng lốp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy
đen sì, muốn ra cắn cổ."


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

ăn tiếng nói của người nông dân lao động. Họ ra trận chiến đấu mà chỉ được
trang bị những dụng cụ thô sơ, thiếu thốn (manh áo vải, ngọn tầm vơng, dao tu,
nón gõ) và nó đối lập hồn tồn với những vũ khí hiện đại tối tân của kẻ xâm
lược (tàu thiếc, tàu đồng, đạn to, đạn nhỏ). Thử hỏi hai thứ vũ khí đối lập ấy
khi tham gia trận chiến bên nào sẽ thiệt thòi và chịu cái kết đau thương? Thiệt
thòi là thế, ấy vậy mà tinh thần của người nghĩa sĩ ấy sắt thép kiên cường, khí
thế tấn cơng như vũ bão, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Bằng loạt ngơn ngữ
góc cạnh, động từ mạnh: đốt, chém, đạp, xơ, xơng,.. Nguyễn Đình Chiểu đã
cho thấy khí thế xông lên trận chiến của người dân với tinh thần bất khuất, xả
thân vì nghĩa lớn của dân tộc. Cái chết- sự thật phũ phàng- nó là một tấn bi kịch


đối với đất nước ta trong thời kỳ lịch sử đen tối ấy.


Trong phần cuối của bài văn tế, đó là tiếng ai vãn, tiếc thương của dân tộc
trước sự hi sinh của những người đã ngã xuống. Tác giả đã bày tỏ nỗi đau đớn
của người dân của chính tác giả qua từng câu chữ thấm đượm tình của mình.
Những nghĩa sĩ ấy đã dùng cái chết của mình để làm sáng tỏ ra một chân lý
"chết vinh còn hơn sống nhục", đấu tranh tới cùng dù chết, còn hơn chung sống
làm nô lệ cho bọn ngoại xâm. Những dịng cuối là những tiếng khóc thể hiện
niềm tiếc thương ấy, bi mà khơng lụy, nó tiếp tục ca ngợi cơng lao của chiến
binh , nó cịn cổ động, thúc giục, khích lệ những người cịn sống sẽ tiếp tục sự
nghiệp chiến đấu của các chiến sĩ Cần Giuộc.


Nguyễn Đình Chiểu đã rất thành công trong việc xây dựng nhân vật, những
nghĩa sĩ giản dị, mộc mạc mà sắt thép, kết hợp với chất trữ tình, tính hiện thực,
ngơn ngữ trong sáng, đậm chất Nam Bộ đã tạo ra một bài ca không tuổi, ca
ngợi về tinh thần oanh liệt của nghĩa sĩ Cần Giuộc.


Bài văn tế đã kể lại công đức phẩm hạnh của những người đã mất đồng thời
cũng bày tỏ lòng tiếc thương của người sống đối với họ với âm hưởng bi tráng.
Những người chiến binh Cần Giuộc ấy sẽ sống mãi trong câu chữ của Nguyễn
Đình Chiểu, sẽ mãi là là bức tượng đài bất tử của của dân tộc Việt Nam ta.
<b>Bài Mẫu Số 2:</b>


Thời gian cứ thế trơi qua nhưng những gì là giá trị, là vẻ đẹp cao q thì ln
cịn mãi. Lịch sử dân tộc ta đã trải qua biết bao cuộc kháng chiến chống giặc
ngoại xâm, oanh liệt có những mất mát cũng quá nhiều. Trong cuộc nổi dậy
chống Pháp, những người nghĩa sĩ Cần Giuộc tuy đã hi sinh nhưng vẻ đẹp hào
hùng, bi tráng của họ mãi trường tồn cùng thời gian. Bởi vậy, “Văn tế nghĩa sĩ
Cần Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu là áng văn bất hủ ca ngợi vẻ đẹp của
những người nghĩa sĩ nông dân.



</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Mở đầu tác phẩm, trong phần Lung khởi, tác giả tái hiện tình cảnh đau thương
của dân tộc với tiếng súng xâm lược của thực dân Pháp: “Súng giặc đất rền,
lòng dân trời tỏ”. Tác giả đã ca ngợi tấm lòng của nhân dân tỏa sáng dù vũ khí
quân đội vắng mặt. Đồng thời, nhà thơ cũng khái quát về hai quãng đời của
người nông dân nghĩa sĩ: “Mười năm cơng vỡ ruộng, chưa ắt cịn danh nổi như
phao; một trận nghĩa đánh Tây, tuy là mất tiếng vang như mõ”. Tuy quãng thời
gian làm nông dân rất dài, sống một cuộc sống bình yên, song họ sẵn sàng làm
nghĩa sĩ chống giặc trong thời gian ngắn, để rồi danh thơm cịn mãi với mn
đời. Họ là những người trượng nghĩa, mang tinh thần xả thân sẵn sàng đứng lên
chống lại quân giặc.


Trong phần Thích thực từ câu 3 đến câu 15, tác giả ca ngợi vẻ đẹp của người
nghĩa sĩ nông dân trong cuộc sống đời thường và trong chiến tranh. Họ vốn
xuất thân là những người nông dân quanh năm ngày tháng chỉ biết “cui cút làm
ăn, toan lo nghèo khó”, nhưng khi giặc xâm lược, họ giờ đây khơng cịn “trơng
tin quan như trời hạn trơng mưa”. Vẻ đẹp bình dị của những người nơng dân
chân lấm tay bùn giờ đây trở nên huy hoàng hơn bao giờ hết bởi tinh thần căm
thù giặc sâu sắc ngùn ngụt chất chồng. Họ bày tỏ cảm xúc của mình một cách
chân thật “ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ”. Họ nhận thức sâu sắc về trách
nhiệm của mình trong cơng cuộc bảo vệ nền độc lập dân tộc – đó là tham gia
chiến đấu. Họ vào trận với “manh áo vải làm đồng” và những dụng cụ lao động
thô sơ như ngọn tầm vông, rơm con cúi, lưỡi dao phay,… Vậy mà, chỉ với tinh
thần dũng cảm, họ có thể tham gia trận cơng đồn: “Chi nhọc quan quản gióng
trống kỳ, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không; nào sợ thằng
Tây bắn đạn nhỏ đạn to, xơ cửa xơng vào, liều mình như chẳng có”. Họ chiến
đấu với hành động dứt khốt, mạnh mẽ: “đốt”, “chém”, “đạp rào”, “xô cửa
xông vào”, “đâm ngang chém ngược”,… Bởi vậy, họ khiến cho kẻ thù phải
khiếp sợ: “mã tà ma ní hồn kinh, bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu sắt tàu đồng
súng nổ”.



</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

“Hỡi ơi thương thay/ Có linh xin hưởng” cũng thể hiện tấm lòng ngợi ca công
đức theo hướng vĩnh viễn, muôn đời.


Qua việc sử dụng thủ pháp tương phản đối lập, bút pháp hiện thực cùng giọng
điệu trữ tình thống thiết, “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là tượng đài ca ngợi
người nghĩa sĩ Cần Giuộc, đồng thời cũng là tiếng khóc lớn của tác giả dành
cho những người hi sinh và cho cả tình cảnh đau thương của đất nước. Bởi vậy,
tác phẩm luôn song hành cùng thời gian bởi giá trị vĩnh hằng mà nó đóng góp.
<b>Bài mẫu số 3</b>


Nguyễn Đình Chiểu là nhà văn tài ba khi đã nêu lên hình ảnh người nông dân
trong văn học mà trong suốt các thời gian qua chưa được nhắc đến thông qua
bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc.Trong bài văn tế, hình ảnh người nơng dân được
khắc hoạ rõ ràng. Hình ảnh người nơng dân nghèo khổ chỉ biết làm ăn một cách
thầm lặng, quanh năm chỉ biết ruộng trâu, cần cù lao động. Họ là những người
nông dân yêu ghét rõ ràng, căm thù quyết không đội trời chung với giặc khi
thực dân Pháp xâm lược. Họ đã anh dũng chiến đấu và anh dũng hi sinh, trong
lời văn là những lời lẽ bi thương đầy nước mắt nhưng không hề rơi nước mắt.
Đó chính là cái hay của thơ văn Nguyễn Đình Chiểu.


Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc ra đời vào năm 1858, khi thực dân Pháp nổ súng
vào Đà Nẵng, Việt Nam. Sau khi chiếm được thành Gia Định vào đầu năm
1859, quân Pháp bắt đầu một q trình mở rộng tấn cơng ra các vùng lân cận
như Tân An, Cần Giuộc, Gị Cơng... Ngày 15 tháng 11 năm Tân Dậu, những
nghĩa sĩ mà là nông dân, vì quá căm phẫn kẻ ngoại xâm, đã dũng cảm đứng lên
chiến đấu tập kích đồn Pháp ở Cần Giuộc, tiêu diệt được một số quân của đối
phương và viên tri huyện người Việt đang làm cộng sự cho Pháp. Khoảng mười
lăm nghĩa sĩ bỏ mình. Những tấm gương đó đã gây nên niềm xúc động lớn
trong nhân dân. Theo yêu cầu của tuần phủ Gia Định là Đỗ Quang, Nguyễn


Đình Chiểu làm bài "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" để đọc tại buổi truy điệu các
nghĩa sĩ đã hi sinh trong trận đánh này.


Như chúng ta biết thì "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" là một "tác phẩm nghệ
thuật" hiếm có. "Bi tráng" là tầm vóc và tính chất của tác phẩm nghệ thuật ấy:
vừa hoành tráng, hùng tráng, vừa thống thiết, bi ai. Hùng tráng ở nội dung
chiến đấu vì nghĩa lớn. Hùng tráng ở phẩm chất anh hùng, ở đức hi sinh quyết
tử. Hùng tráng ở chỗ nó dựng lên một thời đại sóng gió dữ dội, quyết liệt của
đất nước và dân tộc.


Mở đầu bài văn tế là hai tiếng "Hỡi ôi!" vang lên thống thiết, đó là tiếng
khóc của nhà thơ đối với nghĩa sĩ, là tiếng nấc đau thương cho thế nước hiểm
nghèo:


"Súng giặc, đất rền; lịng dân trời tỏ" có ý nghĩa là Tổ quốc lâm nguy, súng
giặc nổ vang rền trời đất và quê hương .


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Tổ quốc thân yêu mà sự dũng cảm đó xuất phát từ tấm lịng u nước có trong
mỗi con người. Tấm lịng u nước, căm thù giặc của những người nơng dân,
của những người áo vải mới tỏ cùng trời đất và sáng ngời chính nghĩa. Hình
ảnh chính của bài văn tế chính là những chiến sĩ nghĩa quân Cần Giuộc.


Nguồn gốc của họ là nông dân nghèo sống cuộc đời "côi cút" sau luỹ tre
làng. Chất phác và hiền lành, cần cù là chịu khó trong làm ăn, quanh quẩn
trong xóm làng, làm bạn với con trâu, đường cày, sá bừa, rất xa lạ với cung
ngựa trường nhung:


"Nhớ linh xưa:


Cui cút làm ăn; toan lo nghèo khó"



Cui cút làm ăn: có nghĩa là làm ăn lẻ loi, thầm lặng một cách tội nghiệp. Dù
mệt mỏi hay vất vả thì họ vẫn âm thầm, lặng lẽ chịu đựng một mình mà chẳng
nói với ai. "Cui cút làm ăn; toan lo nghèo khó" đã hiện lên đầy đủ một vịng đời
khơng lối thốt của người nơng dân Việt, người "dân ấp dân lân" Nam Bộ. Bắt
đầu bằng cui cút, vật lộn làm ăn, toan lo để cuối cùng kết thúc trong nghèo khó.
Họ là những người nơng dân mà quanh năm chỉ biết làm với làm, chưa hề biết
đến cái gì gọi là cung, cái gì gọi là ngựa.


"Chưa quen cung ngựa đâu tới trường nhung; chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng
bộ".


Họ là lớp người đông đảo, sống gần gũi quanh ta. Quanh năm chân lấm tay
bùn với nghề nơng, "chưa hề ngó tới" việc binh và vũ khí đánh giặc:


"Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm; tập khiên, tập súng,
tập mác, tập cờ mắt chưa từng ngó".


Thế nhưng khi đất nước quê hương bị giặc Pháp xâm lược, những người dân
chân lấm tay bùn ấy đã đứng lên tình nguyện làm quân tự nguyện đánh giặc
cứu nước cứu nhà, bảo vệ cái nghề làm lụng mà họ coi là bát cơm manh áo của
họ là cái nghĩa lớn mà họ "mến" là đeo đuổi:


"Bữa thấy bong bong che trắng lốp, muốn tới an gan; ngày xem ống khói chạy
đen sì, muốn ra cắn cổ".


Đối với giặc Pháp và lũ tay sai bán nước, họ chỉ có một thái độ: "ăn gan" và
"cắn cổ",chỉ có một chí hướng: "phen này xin ra sức đoạn kình..., chuyến này
dốc ra tay bộ hổ".



</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Bài văn tế đã tái hiện lại những giờ phút giao tranh ác liệt của các chiến sĩ
nghĩa quân với giặc Pháp:


"Chi nhọc quan quản gióng trống kì, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng
như không; nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ đạn to, xô cửa xông vào, liều mình
như chẳng có."


"Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho ma ní, mã tà hồn kinh; bọn hè
trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc, tàu đồng súng nổ".


Khơng khí chiến trận có tiếng trống thúc quân giục giã, "có bọn hè trước, lũ
ó sau" vang dậy đất trời cùng tiếng súng nổ. Các nghĩa sĩ của ta coi cái chết
như không, tấn cơng như vũ bão, tung hồnh giữa đồn giặc: "đạp rào lướt tới",
"xô cửa xông vào", "đâm ngang chém ngược", "hè trước, ó sau". Giọng văn của
Nguyễn Đình Chiểu đã tô đậm tinh thần dũng cảm, kiên cường bất khuất của
các nghĩa sĩ nơng dân Cần Giuộc. Ơng cũng thể hiện rõ lịng khâm phục đối với
người nghĩa sĩ nơng dân. Từ trước đến nay, đây là tác phẩm đầu tiên có đưa
hình ảnh của nghĩa sĩ nơng dân.


Trong bài "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" cịn có tiếng khóc của mẹ già nơi
quê nhà trông chờ con về, vợ thương nhớ về chồng, con ngóng cha về nghe
thống thiết, bi ai. Nhiều nghĩa sĩ đã ngã xuống trên chiến trường trong tư thế
người anh hùng:


"Những lăm lòng nghĩa lâu dùng; đâu biết xác phàm vội bỏ".


Đất nước, quê hương vô cùng thương tiếc. Một khơng gian rơng lớn bùi
ngùi, đau đớn:


"Đối sơng Cần Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng; nhìn chợ Trường Bình, già


trẻ hai hàng lụy nhỏ".


Tiếng khóc của người mẹ già, nỗi đau đớn của người vợ trẻ, nỗi nhớ thương
của con cái được nói đến vơ cùng xúc động:


"Đau đớn bấy, mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều; não nùng
thay vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ".


Các nghĩa sĩ đã sống anh dũng chiến đấu, và hi sinh rất vẻ vang. Tấm gương
chiến đấu và hi sinh của họ là để ta biết rằng đất nước nào cũng là độc lập, tự
chủ, không ai được quyền xâm chiếm. Họ là tấm gương sáng rất đáng tự hào:
"Ơi!


Một trận khói tan; nghìn năm tiết rỡ"


Sự hi sinh của những người nghĩa sĩ Cần Giuộc là bài học quý báu mà họ đã
để lại: Thà chết vinh còn hơn sống nhục. Họ là tấm gương sáng để dân tộc Việt
Nam noi theo mà làm, là ngọn đèn soi sáng cho dân tộc Việt Nam.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Công lao của người nghĩa sĩ nơng dân Cần Giuộc sẽ đời đời nằm trong lịng
mỗi người dân Việt Nam về tấm gương anh dũng, sẵn sàng xả thân vì độc lập
Tổ Quốc.


"Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên dân; cây hương
nghĩa sĩ thắp thêm thơm, cám bởi một câu vương thổ".


Tóm lại, "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" khẳng định tấm lòng yêu thương dân
thiết tha của Nguyễn Đình Chiểu. "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" là niềm tự hào
và biết ơn sâu sắc của nhân dân ta đối với người nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc
đã anh dũng chiến đấu chống giặc ngoại xâm bảo vệ nền độc lập vững chắc của


quê nhà, nơi họ đã sinh ra và lớn lên hay đó là Tổ quốc mà đối với họ "nó" rất
quan trọng trong cuộc đời. Nghĩa sĩ nơng dân Cần Giuộc chính là tấm gương về
tinh thần dũng cảm, lòng yêu nước sâu sắc để cho các thế hệ đi sau khi đọc
được bài văn tế này mà noi theo để xây dựng đất nước càng ngày giàu mạnh
hơn.


<b>Bài mẫu số 4</b>


Có những cuộc đời cịn sống mãi cùng non sơng, đó là những con người dâng
hiến tất cả tình yêu, sự hi sinh và cả sự sống cho sự trường tồn của non sông
đất nước. Những người nghĩa sĩ Cần Giuộc đã bỏ mình trong cuộc khởi nghĩa
chống Pháp năm nào tuy hi sinh khi tuổi đời cịn trẻ nhưng tình u nước, tấm
lòng của họ mãi được hậu thế trân trọng và lưu danh đến muôn đời. Và bài tế
"Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" của Nguyễn Đình Chiểu viết ra để tế lễ họ có thể
coi là một khúc tráng ca của những người anh hùng tuy thất thế nhưng vẫn hiên
ngang, lẫm liệt.


Vào năm 1859, thực dân Pháp đánh phá ba tỉnh miền đông Nam Bộ. Đến tháng
12/1861, chúng đánh úp ba xứ Cần Giuộc, Tân An, Gò Công. Ngày
16/12/1861, nghĩa quân ba xứ nhất tề tập hợp, nổi dậy, tập kích đồn giặc của
Pháp, giết được tên quan người Việt theo Pháp và một số lính thuộc địa. Trong
trận chiến này, hơn hai mươi người của nghĩa quân đã hi sinh nhưng nó đã làm
dậy lên tinh thần u nước, ý chí sục sơi quyết bảo vệ non sông của những
người dân Việt Nam. Bởi vậy, Đỗ Quang – tuần phủ Gia Định đã yêu cầu
Nguyễn Đình Chiểu viết bài văn tế này nhằm khích lệ tinh thần của các nghĩa sĩ
với lý tưởng "chết vinh còn hơn sống nhục". Bài văn đã được hưởng ứng và
truyền tụng đi khắp nơi và lần đầu tiên trong văn học dân tộc, hình ảnh người
nơng dân nghĩa sĩ chống ngoại xâm được dựng thành một tượng đài nghệ thuật
bất tử.



</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

với một lòng quyết tâm giết giặc thấu tỏ đến tận trời xanh "lòng dân trời tỏ".
Những người nghĩa sĩ Cần Giuộc vốn chỉ là những người nông dân hiền lành,
quanh năm chân lấm tay bùn, chỉ biết quen thân với đồng ruộng, "mười năm vỡ
ruộng, chưa ắt danh nổi như phao", thế nhưng khi giặc đến dày xéo quê hương,
họ quyết tâm đứng dậy đánh đuổi giặc ngoại xâm. Tuy rằng hi sinh nhưng tiếng
thơm vì tình u nước thì cịn lưu truyền mãi "tuy mất nhưng tiếng vang như
mõ". Nghệ thuật đối lập mà Nguyễn Đình Chiểu dùng ở đây đã làm nổi bật lên
khung cảnh của thời đại khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam đồng thời cũng
khẳng định sự quyết tâm đánh đuổi giặc của những người nghĩa sĩ nơng dân và
tiếng thơm của họ cịn lưu danh mn thuở.


Sau phần khẳng định về sự bất tử của hình tượng người nghĩa sĩ, Nguyễn Đình
Chiểu tiếp tục làm rõ thêm về hình ảnh những người nghĩa sĩ đã quên mình vì
đất nước ấy.


Những người nghĩa sĩ ấy vốn chỉ là những người nông dân hiền lành, "cui cút
làm ăn, toan lo khó nghèo", chẳng hề biết tới binh đao, cung trường ngựa đấu.
Họ "cui cút làm ăn" trong âm thầm, lặng lẽ, khơng có ai để nương tựa, vậy mà
vẫn khó nghèo cả một đời. Chỉ một câu thơi cũng đã làm hiện lên đầy đủ cái
vòng luẩn quẩn khơng lối thốt của những người nơng dân Việt. Bắt đầu "cui
cút" làm ăn từ sớm, vật lộn để có cái ăn, chỉ quanh quẩn với xóm làng, con trâu
cái cày, vậy mà kết thúc vẫn trong nghèo khó. Họ nào biết tới "cung ngựa,
trường nhung", cả đời "mắt chưa từng ngó" tới "tập khiên, tập súng, tập mác,
tập cờ". Thế nhưng, đất nước lại bị bọn quân thù giày xéo, họ - những người
nông dân chất phác ấy lại phải sống hàng ngày trong lo sợ bị quân giặc đuổi
đánh "tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng", trông chờ quan quân tới
dẹp lũ giặc mà "như trời hạn trông mưa", càng trông lại càng chẳng thấy. Họ
căm ghét lúc giặc mọi rợ, "vấy vá "tanh hôi" như “nhà nông ghét cỏ". Họ căm
hờn những kẻ "văn minh" đang giẫm đạp đất nước họ bằng "bòng bong che
trắng lốp, muốn tới ăn gan", bằng "ống khói chạy đen xì, muốn ra cắn cổ". Vậy


nên, khi có lời hiệu triệu đứng lên chống lại quân thù, họ đã chẳng ngại ngần
mà đứng lên trở thành những dũng sĩ chống lại giặc Pháp, cứu nước cứu nhà,
bảo vệ manh áo miếng cơm. Nguyễn Đình Chiểu đã khéo léo nhấn mạnh vào
tinh thần yêu nước và tinh thần tự giác của những người nông dân ấy:


"Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu; hai vầng nhật nguyệt chói
lịa, đâu dung lũ treo dê bán chó".


"Nào đợi ai địi ăn bắt, phen này xin ra sức đoạn kình; chẳng thèm trống ngược
trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ".


Vì u nước, những người nơng dân quyết đem tâm sức để đánh đuổi quân thù,
tự nguyện ra nhập hàng ngũ, chẳng chờ đợi "ai đòi ai bắt".


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

công vô tư ấy. Nếu như khi xưa, những người nơng dân bị bắt đi lính cho
những cuộc chiến tranh phi nghĩa với thái độ đau khổ:


"Thùng thùng trống đánh ngũ liên


Bước chân xuống thuyền, nước mắt như mưa"


Thì những người lính nơng dân ở đây lại tự giác xung vào quân đội với sự vui
vẻ, thái độ vô tư, tinh thần yêu nước và trách nhiệm với dân tộc. Họ chẳng chờ
ai giục ai đòi đã hăm hở nhập ngũ. Dẫu họ biết rằng, ra trận "chữ hạnh" khó
giữ, "nào ngờ da ngựa bọc thây, trăm năm âm phủ ấy chữ quy". Thế nhưng,
ngối trơng nhìn thấy sự tàn bạo của quân giặc, sự tàn phá chúng để lại khiến
"cây cỏ mấy dặm sầu giăng", "già trẻ hai hàng lụy nhỏ" khiến cho họ càng
muốn tự giác xung quân "vi binh" để đánh tan lũ giặc "cho cam tâm".


Ở đây, Nguyễn Đình Chiểu đã dùng diễn biến tâm trạng của những người nghĩa


sĩ để thổi lên tượng đài người nông dân nghĩa sĩ anh hùng. Họ từ những người
nơng dân hiền lành, chịu khó làm ăn, chỉ biết trông chờ tin quan tới dẹp giặc,
vậy mà càng trông càng không thấy trở thành những nghĩa sĩ anh dũng, tự mình
chống lại kẻ thù. Họ căm hờn những kẻ đã phá tan ruộng vườn của họ "bát cơm
manh áo ở đời, mắc mớ chi ơng cha nó", căm ghét những kẻ khiến "quan quân
khó nhọc, ăn tuyết nằm sương", những kẻ đã "quăng vùa hương, xô bàn độc"
của họ. Vậy nên họ đứng lên theo tinh thần của tổ tiên truyền lại "đặng câu địch
khái, về theo tổ phụ"


Tinh thần những người nghĩa sĩ ở đây đã chuyển hóa phi thường, từ lo sợ, đợi
chờ, tới khi quyết tâm tự mình đứng lên chống trả, tạo nên hình tượng những
người nghĩa sĩ anh dũng, bất tử trong lòng người dân quê hương.


Hai ngày để tập hợp đội nghĩa binh, chỉ hai ngày ngắn ngủi mà khơng có sự
giúp sức của quan quân triều đình. Họ thiếu thốn đủ thứ, vũ khí, trang bị, lại chỉ
là những "dân ấp dân lân" chỉ vì "mến nghĩa làm quân chiêu mộ", thế nhưng họ
vẫn hăm hở rèn luyện hết sức:


"Mười tám ban võ nghệ, nào đợi tập rèn; chín chục trận binh thư, không chờ
bày bố".


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

"Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ma ní hồn kinh; bộn hè
trước, lũ ó sau, trối kệ tàu sắt tàu đồng súng nổ".


Khơng khí trận chiến thật ác liệt, có tiếng trống thúc quân, tiếng gọi nhau vang
dậy đất trời, hòa cùng tiếng súng nổ liên hồi. Các nghĩa sĩ Cần Giuộc chẳng
quản tính mạng "liều mình như chẳng có" xông vào đồn giặc như vũ bão, "đâm
ngang, chém ngược" khiến cho kẻ thù phải "hồn kinh". Nguyễn Đình Chiểu đã
tô đậm tinh thần quyết tử, dũng cảm, kiên cường của những người lính Cần
Giuộc. Đồng thời ơng cũng bày tỏ lòng khâm phục sâu sắc trước họ - những


người nghĩa sĩ nông dân. Đây là tác phẩm đầu tiên trong đời của ơng với hình
tượng là người nghĩa sĩ nông dân áo vải. Nhưng ông đã dựng lên tượng đài bất
tử về người nghĩa sĩ nông dân đánh giặc, cứu dân cứu nước.


Kết lại bài văn tế là sự cảm thương, sự thương tiếc của tác giả trước sự hi sinh
anh dũng của những người nghĩa sĩ và lời khẳng định tấm gương của họ sẽ còn
lưu mãi tới mn đời sau.


Nguyễn Đình Chiểu đã dùng những lời văn đẹp đẽ nhất để dựng lên hình tượng
người nghĩa sĩ. Thế nhưng, ông cũng không che giấu đi những sự tiếc thương,
sự thật đau lòng khi những người nghĩa sĩ đã phải ngã xuống. Hình ảnh người
"mẹ già khóc trẻ", "vợ yếu chạy tìm chồng" khiến cho chúng ta cảm thấy thật
thống thiết, bi thương:


"Đau đớn bấy! Mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều; não
nùng thay! Vợ yếu chạy tìm chống, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ".


Lời văn thật thống thiết, lâm li, bi ai. Hình ảnh những người nghĩa sĩ ngã
xuống:"đâu biết xác phàm vội bỏ" khiến chúng ta vơ cùng đau xót. Tiếng khóc
nghẹn của người mẹ già, người vợ trẻ đều khiến chúng ta vô cũng xúc động,
cảm thương.


Họ - những người nghĩa sĩ đã sống và chiến đấu anh dũng, hết mình cho Tổ
quốc. Họ hi sinh với sự vẻ vang, với tiếng thơm muôn đời con mãi. Họ ngã
xuống nhưng khẳng định một điều rằng: Đất nước của họ là độc lập, tự chủ,
khơng một ai có quyền xâm lấn, nếu không, họ sẽ cầm súng, cầm dao, giáo
mác, đứng lên mà đánh đuổi kẻ thù. Họ chính là những tấm gương anh dũng
nhất, đáng tự hào nhất:


"Ôi!



Một trận khói tan, nghìn năm tiết rỡ"


Sự hi sinh của những người nghĩa sĩ Cần Giuộc ấy là ngọn đèn, là tấm gương
soi sáng cho dân tộc Việt Nam về tinh thần yêu nước, về bài học quý báu: "chết
vinh còn hơn sống nhục":


"Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp
được nguyện trả thù kia"


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

"Nước mắt anh hùng chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên dân; cây hương nghĩa
sĩ thắp thêm thơm, cám bởi một câu vương thổ".


"Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" là tiếng khóc bi tráng dành cho tượng đài những
người lính nghĩa sĩ nơng dân Cần Giuộc dũng cảm trong thời kì đầu tiên của
cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược. Kết hợp với nghệ thuật xây dựng hình
tượng độc đáo, nhuần nhuyễn với chất liệu trữ tình, tính hiện thực cùng ngơn
ngữ bình dị, sinh động đã tạo nên một trong những tượng đài người nghĩa sĩ
đẹp nhất trong dòng lịch sử dân tộc ta.


Bài "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" khơng chỉ khẳng định một lịng yêu nước thiết
tha của những người nông dân áo vải, của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu mà cịn
là lời tự hảo, lời cảm tạ sâu sắc của những người dân Việt Nam tới những
người nghĩa sĩ áo vải kiên trung đã anh dũng đứng lên chống lại kẻ thù, bảo vệ
quê hương. Họ là những tấm gương sáng về sự dũng cảm, tinh thần bất khuất,
chí cơng vơ tư, về lòng yêu nước nồng nàn mà các thế hệ chúng ta sau này phải
luôn ghi nhớ và học tập.


Súng giặc đất rền; lịng dân trời tỏ



Mười năm cơng vỡ ruộng, chưa ắt còn danh nổi như phao; một trận nghĩa đánh
Tây, tuy mà mất tiếng vang như mõ."


Phần đầu lung khởi của bài tế đã luận chung về lẽ sống chết. Nguyễn Đình
Chiểu đã sử dụng biện pháp nghệ thuật đối: "Súng giặc đất rền" với " lòng dân
trời tỏ". Nghệ thuật ấy đã mở ra một hồn cảnh tình thế bão táp của lịch sử. Đó
là một sự đụng độ quyết liệt giữa thế lực xâm lăng tàn bạo với ý chí, nghị lực,
kiên cường bảo vệ Tổ quốc của dân tộc ta. Tiếp đó tác giả lại sử dụng nghệ
thuật đối về thời gian: "mười năm công vỡ ruộng" và "một trận nghĩa đánh
Tây", chính "mười" và "một" ấy đã khẳng định ý chí cao quý, những hy sinh
oanh liệt của chiến sĩ Cần Giuộc.


Với những người nghĩa sĩ, nông dân mộc mạc ấy đã dâng hiến cả cuộc đời
mình cho đất nước kể từ lúc chưa có chiến tranh hay điểm diễn ra chiến tranh
xảy ra . Qua phần thích thực, tác giả đã ca ngợi cơng đức phẩm hạnh của người
nông dân- anh hùng dân tộc.


"Nhớ linh xưa:


Cui cút làm ăn; lo toan nghèo khó..."


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

Trước khi cầm vũ khí đánh giặc, họ đều là những người nông dân xa lạ với
chiến tranh, nhưng từ khi thực dân Pháp xâm lược đã làm nên một sự chuyển
biến trong tâm hồn họ, họ đã trở thành những người lính can trường, yêu nước
căm thù giặc, tự nguyện đứng lên chiến đấu, sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc.
Nguyễn Đình Chiểu đã miêu tả một cách chân thực sinh động gần gũi với tiếng
ăn tiếng nói của người nông dân lao động. Họ ra trận chiến đấu mà chỉ được
trang bị những dụng cụ thô sơ, thiếu thốn ( manh áo vải, ngọn tầm vông, dao
tu, nón gõ) và nó đối lập hồn tồn với những vũ khí hiện đại tối tân của kẻ
xâm lược ( tàu thiếc, tàu đồng, đạn to, đạn nhỏ). Thử hỏi hai thứ vũ khí đối lập


ấy khi tham gia trận chiến bên nào sẽ thiệt thòi và chịu cái kết đau thương?
Thiệt thòi là thế, ấy vậy mà tinh thần của người nghĩa sĩ ấy sắt thép kiên cường,
khí thế tấn công như vũ bão, coi cái chết nhẹ tựa lơng hồng. Bằng loạt ngơn
ngữ góc cạnh, động từ mạnh: đốt, chém, đạp, xơ, xơng,.. Nguyễn Đình Chiểu
đã cho thấy khí thế xơng lên trận chiến của người dân với tinh thần bất khuất,
xả thân vì nghĩa lớn của dân tộc. Cái chết- sự thật phũ phàng- nó là một tấn bi
kịch đối với đất nước ta trong thời kì lịch sử đen tối ấy.


Trong phần cuối của bài văn tế, đó là tiếng ai vãn, tiếc thương của dân tộc
trước sự hi sinh của những người đã ngã xuống. Tác giả đã bày tỏ nỗi đau đớn
của người dân của chính tác giả qua từng câu chữ thấm đượm tình của mình.
Những nghĩa sĩ ấy đã dùng cái chết của mình để làm sáng tỏ ra một chân lí
"chết vinh còn hơn sống nhục", đấu tranh tới cùng dù chết, cịn hơn chung sống
làm nơ lệ cho bọn ngoại xâm. Những dịng cuối là những tiếng khóc thể hiện
niềm tiếc thương ấy, bi mà khơng lụy, nó tiếp tục ca ngợi cơng lao của chiến
binh , nó cịn cổ động, thúc giục, khích lệ những người cịn sống sẽ tiếp tục sự
nghiệp chiến đấu của các chiến sĩ Cần Giuộc.


Nguyễn Đình Chiểu đã rất thành cơng trong việc xây dựng nhân vật, những
nghĩa sĩ giản dị, mộc mạc mà sắt thép, kết hợp với chất trữ tình, tính hiện thực,
ngôn ngữ trong sáng, đâm chất Nam Bộ đã tạo ra một bài ca không tuổi, ca
ngợi về tinh thần oanh liệt của nghĩa sĩ Cần Giuộc.


Bài văn tế đã kể lại công đức phẩm hạnh của những người đã mất đồng thời
cũng bày tỏ lòng tiếc thương của người sống đối với họ với âm hưởng bi tráng.
Những người chiến binh Cần Giuộc ấy sẽ sống mãi trong câu chữ của Nguyễn
Đình Chiểu, sẽ mãi là là bức tượng đài bất tử của của dân tộc Việt Nam ta.
<b>Bài mẫu số 5</b>


Những người nghĩa sĩ Cần Giuộc năm xưa đã đứng dậy chống Pháp và lựa


chọn cho mình một cái chết thật oanh liệt: “thác mà trả nước non rồi nợ, danh
thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen; thác mà ưng đình miếu để thờ, tiếng ngay
trải mn đời ai cũng mộ”. Có thể nói, bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là “khúc
ca của những người thất thế nhưng vẫn hiên ngang” theo như cố thủ tướng
Phạm Văn Đồng đã nói.


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

là như vậy. Nhưng bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu đã
khiến cho họ sống lại trong những hình tượng mang đầy khí phách và hiên
ngang. Những tấm gương đại nghĩa vằng vặc như trăng sao đã hiển hiện trong
bài văn tế với âm hưởng của một khúc ca bi tráng. Người nghĩa quân Cần
Giuộc chỉ là những nông dân hiền lành, quanh năm cơi cút làm ăn, toan lo
nghèo khó, chưa quen cung ngựa đâu tới trường nhung… Ấy thế mà khi giặt
đến, họ liền trở thành những người dũng sĩ. Ở họ, nhà thơ nhấn mạnh tinh thần
hoàn toàn tự nguyện, tự giác tham gia đánh giặc: “Nào đợi ai địi, ai bắt, phen
này xin ra sức đoạn kình; Chẳng thèm trốn ngược, trốn xuôi, chuyến này dốc ra
tay bộ hổ.


Trong khi triều đình nhu nhược, chỉ bàn những kẻ nhượng bộ, đầu hàng
quân giặc thì họ đã tự mình đứng dậy. Tinh thần: mến nghĩa làm quân chiêu mộ
của những người dân cày thật là đáng khâm phục. Cuộc chiến đấu của họ rất
nhiều khó khăn với những gian nan: lực lượng địch, lực lượng ta quá chênh
lệch, thiếu kĩ thuật qn sự, thiếu qn trang, vũ khí. Đồn nghĩa quân nông
dân lại rất nghèo khổ, lam lũ. Họ gần như đi thẳng đến chiến trường từ những
túp lều tranh rách nát và những luống cày quen thuộc, không mũ nón, khơng
giáp trụ và cũng chẳng gươm giáo cung tên…


Tất cả trang bị của họ đều rất thô sơ, là những đồ dùng thường ngày, quen
thuộc nhưng lại khiến cho kẻ thù thích điên bát đảo. Sức mạnh của họ không
chỉ là sức mạnh thể lực mà đó cịn là sức mạnh tinh thần. Họ đã lấy danh vàng
đỏ với đạo, lấy lòng dũng cảm để chống lại những chiếc tàu sắt, tàu đồng.


“Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan;


Ngày xem ống khói chạy đèn xì, muốn ra cắn cổ”


Lòng căm thù giặc ấy đã đem đến cho những người nghĩa sĩ sự dũng cảm và
sức mạnh đến phi thường. Họ tả xung hữu đột, tung hồnh ngang dọc như ở
chỗ khơng người.


Nguyễn Đình Chiểu đã ca ngợi những nghĩa sĩ nơng dân bằng những hình
tượng thật chói lọi và những lời văn đầy trang trọng, đẹp đẽ. Nhưng ông lại
không thể che dấu sự thật đau lòng… Bài văn tế cịn là đời ai ốn, là tiếng khóc
của ơng trước sự thất thế và cái chết của nghĩa quân Cần Giuộc. Cái chết của
họ khiến cho những người đọc chúng ta cảm thấy đau lòng. Đất trời, cỏ cây
cũng phải rung động:


“Đối trơng Cần Giuộc; cỏ cây mấy dặm sầu giăng, nhìn chợ Trường Bình
già trẻ hai hàng luỵ nhỏ.”


Đó cịn là tiếng khóc của chính tác giả:
“Ơi thơi thơi!


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

Cái bi bao trùm lên cả đoạn văn, nhưng đại bi ở đây không phải là bi thảm
mà là bi tráng. Đây là nỗi đau đớn vì nước nhà, vì nhân dân. Đau mà khơng
khiến cho người ta nản lịng thối chí, bi mà giục giã mọi người đứng dậy, hiên
ngang chống lại kẻ thù. Cuộc khởi nghĩa tuy đã thất bại, nhiều người đã phải
ngã xuống nhưng chết vinh còn hơn sống nhục. Họ đã để lại danh thơm muôn
đời. Ra đi như những tấm gương sáng, trái lại vẫn cịn sống mãi và có sức động
viên lớn đối với cuộc chiến sau này…


</div>


<!--links-->

×