Tải bản đầy đủ (.docx) (49 trang)

HỆ THỐNG TỔ CHỨC QUẢN LÝ LƯU THÔNG PHÂN BÓN VÔ CƠ Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (301.83 KB, 49 trang )

HỆ THỐNG TỔ CHỨC QUẢN LÝ LƯU THÔNG PHÂN BÓN VÔ
CƠ Ở VIỆT NAM
1-/ NHÀ NƯỚC VÀ VAI TRÒ TỔ CHỨC, QUẢN LÝ LƯU THÔNG
PHÂN BÓN VÔ CƠ TRÊN THỊ TRƯỜNG.
1.1-/ Nhà nước và vai trò điều tiết nền kinh tế.
Kinh tế thị trường là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, ở đó sản
xuất cái gì, như thế nào, cho ai đều được quyết định thông qua thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường, các quan hệ kinh tế của các cá nhân, các doanh
nghiệp đều biểu hiện qua mua bán hàng hoá, dịch vụ trên thị trường. Thái độ cư xử
của các thành viên tham gia thị trưòng là hướng vào tìm kiếm lợi ích của mình theo
sự dẫn dắt của giá cả thị trường.
Kinh tế thị trường vận hành theo cơ chế thị trường, đến lượt nó, cơ chế thị
trường tác động dưới sự chi phối của các quy luật thị trường trong môi trường cạnh
tranh nhằm mục tiêu lợi nhuận.
Nhân tố cơ bản của thị trường, cơ chế thị trường là hàng hoá tiền tệ, người
bán, người mua, từ đó hình thành mối quan hệ cơ bản của cơ chế thị trường là quan
hệ cung cầu. Về bản chất, cơ chế thị trường là cơ chế giá cả tự do. Cơ chế này có
một số đặc trưng sau:
-Các vấn đề liên quan đến phân bổ, sử dụng các nguồn tài nguyên, lao động,
vốn được quyết định một cách khách quan thông qua hoạt động của các quy luật
kinh tế.
-Hầu như tất cả các mối quan hệ kinh tế giữa các chủ thể kinh tế đều được
tiền tệ hoá.
-Lợi nhuận là động lực thúc đẩy sản xuất phát triển, thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế và lợi ích kinh tế. Cơ chế thị trường dùng lỗ lãi để quyết định các vấn đề
kinh tế cơ bản.
-Cạnh tranh là môi trường hoạt động của cơ chế thị trường, là yếu tố thúc
đẩy tiến bộ kỹ thuật, tăng năng suất lao động và hiệu quả của sản xuất.
-Cơ chế thị trường không phải là một mớ hỗn độn mà là một trật tự kinh tế,
trật tự này được hình thành bởi sự tác động của hệ thống quy luật của thị
trường.Thông qua sự hoạt động của các quy luật kinh tế, sự linh hoạt của hệ thống


giá cả, nền kinh tế thị trường có khả năng duy trì được sự cân bằng của sức cung
và sức cầu về hàng hoá, dịch vụ, ít khi gây ra sự khan hiếm và thiếu thốn hàng hoá.
Ưu điểm của cơ chế thị trường:
+ Cơ chế thị trường có khả năng tự động điều tiết nền sản xuất xã hội, tự
động phân bổ các nguồn tài nguyên vào các khu vực,các ngành kinh tế mà không
cần bất cứ sự điều khiển từ trung tâm nào.
+ Cơ chế thị trường, với sự dẫn dắt của động lực lợi nhuận có thể phát huy
cao nhất tính năng động, tài năng của mỗi người. Kích thích áp dụng kỹ thuật mới,
giảm chi phí sản xuất, sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả các nguồn lực... thúc đẩy
LLSX phát triển, tăng trưởng kinh tế cả theo chiều rộng và chiều sâu.
+ Cơ chế thị trường có thể đáp ứng nhu cầu đa dạng, phong phú của con
người và xã hội. Cơ chế thị trường buộc người sản xuất phải không ngừng cải tiến
kỹ thuật, mẫu mã sản phẩm để phù hợp với sở thích và lợi ích của người tiêu dùng,
trên cơ sở thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng mà tối đa hoá lợi nhuận, từ đó
làm cho chất lượng cuộc sống không ngừng được nâng cao.
+ Nhờ những ưu thế của mình, cơ chế thị trường có khả năng đảm bảo tốc
độ tăng trưởng và phát triển nhanh chóng về kinh tế, thúc đẩy tiền bộ xã hội mà
không một cơ chế nào trước đây có thể sánh được. Paul A.samuelson nhận xét
rằng:”Một nền kinh tế thị trường là một cơ chế tinh vi để phối hợp một cách không
tự giác nhân dân và doanh nghiệp thông qua hệ thống giá cả và thị trường. Nó là
một phương tiện để giao tiếp, để tập hợp tri thức của hàng triệu cá nhân khác nhau,
không có bộ óc trung tâm, nó vẫn giải được bài toán mà máy tính lớn nhất ngày
nay không thể giải được. Không ai thiết kế ra nó, nó tự xuất hiện và cũng như xã
hội của loài người nó đang thay đổi.”
Những nhược điểm của cơ chế thị trường:
+ Cơ chế thị trường có thể gây ra những mât ổn định và thường xuyên phá
vỡ cân đối trong nền sản xuất xã hội. Thực tế phát triển kinh tế thị trường chỉ rõ
những vấn đề lạm phát và thất nghiệp, chu kỳ kinh doanh luôn là những căn bệnh
kinh niên không thể khắc phục được nếu không có sự can thiệp của nhà nước.
+ Cơ chế thị trường bao hàm cả những thất bại thị trường, nó là môi trường

đẻ ra các tệ nạn kinh tế như buôn lậu, hàng giả, lừa đảo, cạnh tranh không lành
mạnh.... làm giảm hiệu quả của nền kinh tế.
+ Cơ chế thị trường có xu hướng làm cho sự phân hoá thu nhập ngày càng
tăng giữa các tầng lớp dân cư, gây ra những bất bình đẳng về kinh tế trong xã hội.
+ Trong cơ chế thị trường, vì mục tiêu lợi ích cá nhân, một số hoạt động
kinh tế có khả năng là tăng mức ô nhiễm môi trường, tâm lý chạy theo đồng tiền
làm xuất hiện lối sống ích kỷ, thực dụng, có thể gây ra những hậu quả xấu về mặt
xã hội.
+ Hơn nữa, các lĩnh vực hoạt động rất cần cho sự ổn định và tăng trưởng
kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội như có mức sinh lợi thấp, thời gian thu hồi
vốn chậm thường không được giới kinh doanh chú ý đầu tư phát triển,
Qua sự phân tích trên cho thấy, nền kinh tế thị trường không phải là một hệ
thống được tổ chức hài hoà mà bản thân hệ thống đó chứa đựng rất nhiều nhược
điểm. Những khuyết tật của cơ chế thị trường cần phải được khắc phục hạn chế.
Song bản thân thị trường không thể tự giải quyết những vấn đề đó. Vì vậy, kinh tế
thị trường ngày nay không thể thiếu được vai trò quản lý của nhà nước. Kinh tế thị
trường không phải là gậy thần, liều thuốc vạn năng. Thành công của mỗi quốc gia
khi chuyển sang kinh tế thị trường chủ yếu phụ thuộc vào sự kết hợp giữa khả năng
điều tiết của thị trường (bàn tay vô hình) và sự quản lý điều tiết của nhà nước (bàn
tay hữu hình). Đến nay vai trò của nhà nước trong kinh tế thị trường đã được khẳng
định cả về mặt lý luận và thực tiễn. Vấn đề chỉ còn là sự vận dụng trong từng điều
kiện và hoàn cảnh cụ thể như thế nào để đảm bảo có hiệu và thành công. Vai trò
của nhà nước trong nền kinh tế thị trường được thể hiện ở những mặt sau đây:
- Thứ nhất: Nhà nước tạo môi trường diều kiện cho kinh tế thị trường phát
triển. Nhà nước bảo đảm sự ổn định về mặt kinh tế, chính trị xã hội. Nhà nước tập
trung xây dựng cơ sở vật chất, tài chính, giáo dục và luật pháp. Đối với những
nước mới chuyển sang cơ chế thị trường như nước ta thì phải chú ý nhiều đến kết
cấu hạ tầng, luật pháp và giáo dục.
-Thứ hai: Nhà nước định hướng sự phát triển nền kinh tế thông qua việc xây
dựng và tổ chức thực hện các chiến lược kinh tế xã hội, các chương trình mục tiêu,

các kế hoạch ngắn và dài hạn.
-Thứ ba: Nhà nước bảo đảm dân chủ, công bằng xã hội. Xây dựng một xã
hội văn minh, dân chủ rộng rãi, tôn trọng nhân cách của con người là điều kiện cho
sự phát triển của xã hội. Trong kinh tế thị trường, sự phân hoá giàu nghèo và giai
tầng rất lớn. Nhà nước cần phải có các chính sách xã hội hợp lý để bảo đảm cuộc
sống của những người nghèo và các đối tượng chính sách xã hội; bảo đảm cho mọi
người được tự do hành nghề, bình đẳng trước pháp luật; bảo đảm môi trường vật
chất tinh thần cho mọi công dân.
-Thứ tư: Nhà nước trực tiếp quản lý các doanh nghiệp nhà nước. Các doanh
nghiệp này ra đời do kết quả của quốc hữu hoá các doanh nghiệp tư nhân, xây dựng
mới các doanh nghiệp trong quá trình phát triển kinh tế xã hội. Đây là những doanh
nghiệp mà nhà nước dựa vào để điều tiết và điều chỉnh nền kinh tế, bảo đảm cho sự
phát triển cân đối cho nền kinh té quốc dân và có thu nhập để trang trải một phần các
chi phí hoạt động của bộ máy nhà nước.
1.2-/ Phân bón vô cơ- đối tượng quản lý và điều tiết lưu thông của nhà nước.
Phân bón là một trong những yếu tố quan trọng trong sản xuất nông nghiệp,
nó giúp cho nhiều nước đông dân trên thế giới tự túc được lương thực, thoát khỏi
đói nghèo. Đồng thời phân bón cũng là mặt hàng kinh doanh có nhiều rủi ro cả cho
những nhà sản xuất lẫn doanh nghiệp lưu thông.
Ở nước ta, có tới 80% dân số làm nông nghiệp, trong những năm tiến hành
công cuộc đổi mới gần đây, nền nông nghiệp nước nhà có những bước phát triển
tương đối ổn định, đã góp phần tăng trưởng kinh tế chung của đất nước, sản lượng
lương thực mỗi năm một tăng, từ chỗ hàng năm thiếu ăn về lương thực, tới nay
chúng ta không những đủ ăn, có dự trữ mà còn xuất khẩu gạo đứng thứ hai trên thế
giới. Có được kết đó là do Chính phủ có những chủ chương, chính sách phù hợp
với yêu cầu thực tiễn, phù với bối cảnh sản xuất hàng hoá trong cơ chế thị trường
và đã làm tăng đáng kể năng suất cây trồng mỗi năm. Theo tính toán của IFRT năm
1996 thì việc tăng năng suất đóng góp trên 80% tăng sản lượng lương thực và
trong tương lai việc tăng sản lượng đó sẽ còn dựa vào việc tăng năng suất.Vì vậy
để đảm bảo an ninh lương thực quốc gia ,thâm canh và giống mới có thể được coi

như là giải pháp duy nhất đối với Việt nam. Trong thâm canh và trong việc sử dụng
giống mới thì phân bón vô cơ vô cùng quan trọng và ngày càng quan trọng. Nó góp
phần tăng năng suất cây trồng qua nhiều cơ chế tác động khác nhau. Song quan
trọng là phân bón cung cấp cho cây trồng những dinh dưỡng cần thiết mà đất
không đủ khả cung cấp, góp phần duy trì độ phì nhiêu của đất trong quá trình canh
tác. Mặt khác cùng với năng suất kinh tế, phân bón góp phần tăng lượng sinh khối
và nhờ đó tăng hữu cơ trả lại cho đất-yếu tố cực kỳ quan trọng với đất nhiệt đới.
Tuy nhiên, để đưa phân bón vô cơ vào sử dụng trong nông nghiệp, đáp ứng nhu
cầu sử dụng cho người nông dân, nhằm tăng năng suất cây trồng, tăng sản lượng
thì không thể không kể đến vai trò của các nhà sản suất-kinh doanh-cung ứng phân
bón vô cơ thên thị trường, đó là các nhà doanh nghiệp kinh doanh phân bón chuyên
ngành, các doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp và đại lý tư nhân. Theo con
số thống kê của các nhà chuyên môn thì khả năng đáp ứng bằng sản xuất phân bón
công nghiệp trong nước còn thấp, mới khoảng 65--75% về phân lân,8-9% về phân
đạm, còn lại đều phải nhập khẩu. Do vậy với nhu cầu phân bón sử dụng hàng năm
cho nông nghiệp nước ta, ước tính năm 2000 là 2,95 triệu tấn thì số lượng phân
bón các loại cần nhập khẩu hàng năm là rất lớn và phải bỏ hàng trăm triệu USD để
nhập phân bón.Vì vậy, làm thế nào để nhập đủ phân bón, cung ứng đúng thời vụ
nhưng lại không để tồn kho gây ứ đọng, gây hiệu quả kinh doanh thấp-đó là bài
toán thật khó giải đối với mỗi doanh nghiệp kinh doanh phân bón trên thị trường
và các cơ quan quản lý vĩ mô của Nhà nước.
Nhìn lại, quá trình kinh doanh phân bón vô cơ từ năm 1991 trở về trước,
việc nhập khẩu phân bón vô cơ (chủ yếu là URê) nằm trong quỹ đạo của kế hoạch
hoá tập trung.Theo phương thức này, mặc nhiên Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước (nay
là Bộ Kế hoạch và Đầu tư) và Bộ Tài chính thay mặt Chính phủ nhận nợ và thanh
toán với phía nước bạn bằng nông sản và các loại hàng hoá khác.Tổng công
tyVTNN tiếp nhận phân nhập khẩu song, tổ chức tiêu thụ được đến đâu thì nộp tiền
cho Bộ Tài chính đến đó. Như vậy”Kinh doanh” theo cơ chế này chẳng mấy khó
khăn, phức tạp và Tổng công ty VTNN luôn an toàn, bởi vì được bao cấp trong giá
nhập khẩu và tỷ giá ngoại tệ, đồng thời được hưởng chiết khấu lưu thông theo tỷ lệ

ấn định doanh số. Từ tháng 8-1991, tình trạng bắt đầu biến đổi khác hẳn,Tổng công
ty chỉ được tiếp nhận nốt 100.000 tấn URE theo nghị định thư bằng 10% số nhập
khẩu theo kế hoặch hàng năm trước đó (do liên xô cắt viện trợ),còn lại chuyển
hướng khai thác nguồn hàng này ở khu vực II.Cùng thời gian đó, chúng ta thiếu
ngoại tệ, với Tổng công ty VTNN, toàn bộ vốn kinh doanh chỉ có114 tỷ đông, giá
ngoại tệ tăng liên tục tới 7000Đ/USD và giá URE quốc tế cũng tăng từ 190-
210USD/tấn. Như vậy Tổng công ty chỉ nhập thêm được 184.000 tấn URE từ thị
trường mới, nâng tổng khả năng cung ứng lên hơn 284.000 tấn, bằng khoảng 25%
nhu cầu phân bón cả nước lúc bấy giờ. Do sự mất cân đối cung-cầu này, lập tức
dẫn tới cơn sốt phân bón vô cơ, tỷ giá cánh kéo bất hợp lý đến mức 1kgURE=2,5-
2,6 kg thóc. Đến năm 1992&1993, việc kinh doanh nhập khẩu phân bón gần như
được thả nổi toàn bộ theo cơ chế thị trường; Năm 1992 có tới trên 100 đầu mối
nhập khẩu phân bón, năm 1993 các doanh nghiệp có chức năng hay không có đều
đi buôn phân bón (khi đó chưa có hạn ngạch), nhiều doanh nghiệp vốn lưu động
tuy ít nhưng do nhà nước có chủ trương cho vay Đôla với điều kiện là phải nhập
khẩu hàng hoá (đồng thời có chủ trương cấm nhập khẩu 17 mặt hàng) nên đã cố
tình vay Ngân hàng, và vay vốn này dồn đi buôn phân bón về nhiều. Trong thời
gian ngắn có tới gần 100 đơn vị đi buôn, phân bón về nhiều, ứ đọng, phát sinh tăng
thêm các loại chi phí lưu kho,lưu bãi,hao hụt, hao hụt, lãi suất ngân hàng....Do vậy
buộc phải bán giá thấp; giá lúc bấy giờ rẻ hơn nhiều vùng, nhiều nước trong khu
vực. Đồng thời lúc này do do chênh lệch mức lãi suất giữa vay tiền đồng và tiền đô
la càng khích lệ các doanh nghiệp nhẩy vào lãnh vực nhập khẩu phân bón. Cụ thể
vay đô la thì mức lãi suất 0,5% tháng (=6% năm) trong khi tỷ giá ít thay đổi, nếu
vay tiền đồng 2,1% tháng (=25,2% năm) như vậy chênh lệch lãi suất giữa vay đô la
và tiền đồng trong 6 tháng là 9,6%, bán lỗ phân bón 5%(trong 6 tháng) nẫn còn lãi
4,6%. vì thế nên có nhiều doanh nghiệp làm ngơ chuyện lỗ lãi. Theo ước tính của
các nhà kinh tế thì quý IV/1992 và cả năm 1993 cả nước lỗ khoảng 200-300 tỷ
đồng, số lỗ này nhà nước gánh chịu chủ yếu vì vốn kinh doanh của các doanh
nghiệp quốc doanh phần lớn là vốn ngân sách cấp.Bước sang năm 1994, do năm
1993 phân bón ứ đọng, thua lỗ nên Chính phủ đã cấm nhập khẩu phân bón tràn lan,

gom lại chỉ có 17 đầu mối, trong đó có 16 đầu mối nhập khẩu 40% còn 01 đầu mối
đảm nhận 60%. Sự thay đổi về nhập khẩu phân bón theo chiều hướng thu gọn lại
đầu mối và các đơn vị được giao hạn ngạch nhập chưa đủ điều kiện đảm nhận đã
đẩy đến sự hững hụt trong nhập khẩu phân bón, thị trường trong nước bị thiếu trầm
trọng, con sốt phân bón thịnh hành. Để duy trì mặt hàng cung cấp liên tục phân bón
cho hệ thống đại lý có phân bón phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh không có hạn ngạch phải đi kiếm hạn ngạch của các
doanh nghiệp quốc doanh để nhập khẩu phân bón. Sang đầu năm 1995 do ảnh
hưởng giá phân bón của thị trường thế giới liên tục tăng và tăng cao ở mức Urê
khoảng 260-265 USD/T, lúc này cũng là thời điểm chuẩn bị phải sử dụng phân
bón, các doanh nghiệp chạy theo lợi nhuận lại lại đua nhau nhập khẩu phân bón và
tình trạng mua bán hạn ngạch giữa các doanh nghiệp quốc doanh và ngoài quốc
doanh càng trở nên phức tạp và tiêu cực hơn. Cho đến tháng 4/1995 giá phân bón
thế giới đột biến hạ Urê còn 215-220 USD/T và tồn kho vẫn nhiều , lập tức ban vật
giá Chính phủ đã có quyết định cho phụ thu phân bón nhập khẩu với mức 7% trên
gáa nhập thực tế và sau hơn 1 tháng hạ xuống còn 4%. Khi đó Tạp chí phân bón thị
trường quốc tế ngày 8/5/1995 nhận xét: “Việc Chính phủ Việt nam cho ra phụ thu
7% thực tế là thuế nhập khẩu, mức thuế này nhằm mục đích là cứu lấy các doanh
nghiệp kinh doanh “cá mập” ”, và kèm theo đó là trợ giá cước phí vận chuyuển
phân bón cho nông dân ở các tỉnh miền núi để nông dân ở các vùng này được
hưởng giá tương ứng với giá ở các tỉnh miền xuôi. Như vậy, những giải pháp can
thiệp của Nhà nước trong thời gian này nhằm bảo vệ lợi cho người đã nhập khaảu
phân bón, tuy nhiên vẫn chỉ là các giải pháp tình thế, chắp vá bởi lẽ nó chỉ là các
giải pháp cụ thể xảy ra từng năm. Khi đó nhiều ý kiến cho rằng, để doanh nghiệp
kinh doanh phân bốn tự xử lý tìm ra sự an toàn về tài chính, lấylãi lúc này bù lỗ lúc
khác, tự giữ vốn tiếp tục hoạt động thì các doanh nghiệp phải tự vươn lên trở thành
nghề kinh doanh, chấm dứt tình trạng kinh doanh theo kiểu “chụp dật, đánh quả”,
có lời thì nhập khó khăn thì bỏ. Nhận thức này đã được dần sáng tỏ nên năm 1996-
1997 cơ chế nhập khẩu và cơ chế quản lý giá phân bón đã có chặt chẽ hơn. Chính
phủ trực tiếp quy định đầu mối nhập khẩu phân bón và thành lập tổ điều hành để

chỉ đaọ, đôn đốc, kiểm tra việc nhập khẩu làm sao khớp với thời điểm mùa vụ, đảm
bảo nhu cầu cho sản xuất nông nghiệp; cơ chế vay ngân hàng và bảo lãnh cũng
được quy định chặt chẽ hơn, không bảo lãnh nhập trả chậm tràn lan như trước đây,
vì thế đã hạn chế được việc mua bán hạn ngạch, hạn chế được phần rủi ro và hạn
chế được việc gây rối loạn thị trường. Tuy vậy việc can thiệp của Nhà nước vào
việc nhập khẩu phân bón như trên cũng hết sức khó khăn, bởi lẽ giá cả phân bón
biến động phức tạp, giá URÊ trên thị trường thế giới có lúc giảm rất nhanh và chỉ
còn 98-102 USD /tấn, gần đây giá DAP chỉ trong vòng hai tháng đã giảm tới 50-60
USD / tấn( từ 230USD/tấn còn 175USD/tấn). Thực sự cho tới quyết định 140TTg
(7/3/1997) của Thủ tướng chính phủ cho tới nay thì tình hình kinh doanh phân bón
mới có nhiều tiến bộ và hiệu quả. Đó là việc lập kế hoạch nhập khẩu phân bón
được tính toán khá sát với yêu cầu thực tế, đã có quyết định giao kế hoạch nhập
khẩu ngay từ đầu năm, tạo điều kiện chủ động giao dịch, ký kết hợp đồng nhập
khẩu và cung ứng kinh doanh trên thị trường.
Từ những phân tích trên mục đích chứng minh rằng xây dựng cơ chế thị
trường là bước đi tất yếu khách quan, nghĩa là chấp nhận trên thực tế sự tham gia
kinh doanh phân bón vô cơ của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế
khác, một khi các doanh nghiệp này có thực lực về kinh tế. Nhưng không có nghĩa
là phó mặc cho thị trường tất cả, mà các cơ quan chức năng của Nhà nước cần
giám sát chặt chẽ, tổ chức theo dõi thường xuyên việc thực thi nhiệm vụ kinh doanh
phân bón, đặc biệt là nhập khẩu, để từng bước ổn định đội ngũ thương nhân chuyên
kinh doanh phân bón có thực lực kinh tế, có kinh nghiệm kinh doanh.
2-/ HỆ THỐNG CƠ QUAN QUẢN LÝ VÀ ĐIỀU TIẾT LƯU THÔNG
PHÂN BÓN VÔ CƠ CỦA NỀN KINH TẾ.
2.1-/ Về Tổ chức cơ quan quản lý và điều tiết phân bón vô cơ
Như trên đã phân tích, trong tổng khối lượng nhiều triệu tấn phân hoá học
tiêu dùng hàng năm thì sản xuất trong nước mới chỉ đáp ứng được khoảng 65%
nhu cầu về lân, chưa tới 10% nhu cầu về đạm, còn nhiều loại khác thì trong nước
vẫn chưa sản xuất được. Do vậy hàng năm nước ta vẫn phải bỏ ra hàng triệu USD
để nhập khẩu phân bón. Từ nhiều năm nay nhà nước đã áp dụng nhiều biện pháp

quản lý khác nhau, quản lý nhập khẩu bằng hạn ngạch, chỉ định các đơn vị đầu mối
được kinh doanh nhập khẩu; hỗ trợ giá cước vận chuyển phân bón Bắc-Nam lên
Miền núi, cho vay vốn sản xuất, dự trữ thời vụ phân bón với lãi suất ưu đãi... .Tuy
nhiên, những năm gần đây, hệ thống cung ứng phân bón phải đối mặt với những
thử thách to lớn và trải qua mấy nấc thăng trầm tương ứng với những phương sách
quản lý khác nhau của nhà nước. Từ giữa năm 1991 trở về trước việc nhập khẩu
phân bón hoá học (chủ yếu là ure) nằm trong quy đạo của cơ chế kế hoạch hoá tập
trung. Mỗi năm, Tổng công ty vật tư nông nghiệp thực hiện nhập khẩu từ 800.000-
1.000.000 tấn ure theo nghị định thư giữa hai nhà nước Việt Nam và Liên Xô, sau
đó tiến hành phân phối theo kế hoạch đã định cho các đơn vị ở các địa phương
trong cả nước. Theo phương thức này Uỷ ban kế hoạch Nhà nước và Bộ tài chính
thay mặt chính phủ nhận nợ và thanh toán với phía Liên Xô. Tổng công ty vật tư
nông nghiệp tiếp nhận phân nhập khẩu xong, tổ chức tiêu thụ sau đó nộp tiền cho
Bộ tài chính.
-Từ tháng 8/1991, tình huống bắt đầu biến đổi khác hẳn, Tổng công ty Vật
tư nông nghiệp được tiếp nhận nốt 100.000 tấn ure theo nghị định thư, bằng 10%
số nhập khẩu theo kế hoạch hàng năm trước đó, do Liên Xô cắt viện trợ.
-Đến năm 1992- 1993, việc kinh doanh phân bón vô cơ được thả nổi toàn bộ
theo cơ chế thị trường.
-Bước sang năm 1994 đã đánh dấu một bước đổi mới quan trọng về cơ chế
quản lý của nhà nước đối với lĩnh vực lưu thông, nhập khẩu phân bón. Với việc chỉ
định các đầu mối nhập khẩu phân bón, tuy nhiên các đầu mối nhập khẩu được sàng
lọc, giảm bớt số lượng, coi trọng tiêu chuẩn chất lượng và năng lực thực sự về tài
chính, tiếp thị.
Từ năm 1995 đến nay: Nhà nước tiếp tục quản lý chặt chẽ nhập khẩu phân
bón.
SƠ ĐỒ 1 - CÁC CƠ QUAN QUẢN LÝ VÀ ĐIỀU TIẾT PHÂN BÓN VÔ
CƠ THỜI KỲ ĐỔI MỚI CƠ CHẾ KINH TẾ.
Nước bán phân bón trên thế giới
Các đầu mối nhập khẩu được chỉ định

Cửa h ng à đại lý bán lẻ
Tổ chức trung gian phân bón
Nông dân
Bộ công nghiệp
Bộ Nông nghiệp & PTNT, Bộ Thương mại
Bộ T i chínhà
Ngân h ng à
Tỉnh TP
Hải quan
Vật giá
Bộ KHĐT
Bộ KHCN-MT
Như vậy, có thể khẳng định trong cơ chế thị trường, không thể thiếu vai trò
quản lý vĩ mô, kế hoạch định hướng của nhà nước và sự phối hợp đồng bộ của các
cấp, các ngành với vấn đề quản lý và điều tiết phân bón vô cơ ở nước ta. Công tác
quản lý Nhà nước trong lĩnh vực nhập khẩu và kinh doanh phân bón vô cơ phải
nhằm mục tiêu đưa việc nhập khẩu và kinh doanh phân bón vào nề nếp, nhằm cung
ứng đủ và kịp thời phân bón vô cơ trực tiếp đến hộ nông dân phục vụ sản xuất với
giá cả hợp lý, gắn việc cung ứng vật tư, dịch vụ (trước hết là phân bón ) với việc
thu mua lúa hàng hoá của nông dân thành một hệ thống bảo đảm sự quản lý và điều
hành của Nhà nước. Cụ thể là:
* Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chịu trách nhiệm xây dựng kế
hoạch cân đối Cung- cầu phân bón trong từng vụ, của từng miền trong cả nước,
cùng Bộ thương mại theo dõi và kiểm tra tiến độ hàng về, tình hình Cung ứng và
giá cả phân bón trong cả nước, đề xuất ý kiến điều chuyển kịp thời lượng phân bón
cần nhập khẩu hàng năm phục vụ sản xuất nông nghiệp trình Chính phủ quyết
định.
* Bộ Công nghiệp thông báo việc sản xuất phân bón vô cơ trong nước hàng
năm và quy hoạch tổng thể chiến lược phát triển ngành sản xuất phân bón đến năm
2000 và 2010 theo hướng tăng nhanh sản xuất trong nước thay thế dần nhập khẩu với

hình thức tự vay vốn hoặc liên doanh để sản xuất phân bón.
* Bộ Thương mại chịu trách nhiệm, điều hành nhập khẩu phân bón theo kế
hoạch chung và cân đối của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, chỉ định
doanh nghiệp nhập khẩu phân bón, thông báo chỉ tiêu nhập khẩu cho từng doanh
nghiệp. Từ đó Chủ tịch UBND tỉnh thành phố thông báo doanh nghiệp cho Bộ
Thương mại, Cục Hải quan, Bộ Tài chính, Bộ kế hoạch đầu tư, các doanh nghiệp
được thông báo làm thủ tục nhập khẩu tại cơ quan Hải Quan.
* Ngân hàng Nhà nước Việt nam cùng Bộ Tài chính, Bộ Thương mại, Bộ
nông nghiệp và Phát triển nông thôn quy định việc quản lý, sử dụng tiền bán hàng
của các doanh nghiệp nhập khẩu để đảm bảo thanh toán với nước ngoài khi đến
hạn. Khi được Chính phủ phê duyệt hạn ngạch nhập khẩu phân bón, Ngân hàng
Nhà nước Việt nam chỉ đạo các ngân hàng Thương mại bảo lãnh cho các doanh
nghiệp được chỉ định nhập khẩu phân bón vay trả chậm nước ngoài và được lấy giá
trị hàng hoá phân bón nhập khẩu làm bảo đảm và ký quỹ với mức thấp nhất theo
quy định của Ngân hàng nhà nước Việt nam. Đối với một số doanh nghiệp được
giao nhập khẩu số lượng phân bón lớn để điều hoà cung cầu, bình ổn giá trong
nước, ngoài quy định chung, Ngân hàng cho vay và bảo lãnh theo số lượng phân
bón nhập cụ thể của từng doanh nghiệp để các doanh nghiệp thực hiện được chỉ
tiêu đã giao. Trường hợp có khó khăn về vốn, Bộ kế hoạch đẩu tư, Bộ Tài chính
cân đối trình Thủ tướng chính phủ cho phép sử dụng từ nguồn quỹ dự trữ ngoại tập
trung của Nhà nước để cho vay nhập phân bón.
*Ban vật giá Chính phủ, tuỳ từng trường hợp là cơ quan xác định mức trọ
giá cho từng mặt hàng, từng địa phương, xác định mức giá bán tối đa “giá trần”
cho từng mặt hàng.
*Tổng công ty Vật tư nông nghiệp chịu trách nhiệm: ngoài việc thực hiện
đầy đủ trách nhiệm như các doanh nghiệp khác còn phải từng bước tổ chức lại
mạng lưới bán buôn, đại lý bán phân bón trực tiếp đến nông dân, quản lý chặt chẽ
quỹ dự trữ lưu thông phân bón được nhà nước giao, chịu trách nhiệm đảm bảo dự
trữ lưu thông bằng ngoại tệ và bằng hiện vật cho 3 miền Bắc, Trung, Nam, theo
quy định; khi xảy ra đột biến giá và mất cân đối quan hệ Cung- cầu phải kịp thời

đưa lực lượng dự trữ lưu thông can thiệp thị trường theo chỉ đạo của Bộ nông
nghiệp và phát triển nông thôn và Bộ Thương mại nhằm ổn định Cung- cầu và giá
phân bón trong cả nước.
*Đối với các loại phân hoá học là nguyên liệu sản xuất phân bón tổng hợp,
Bộ Thương mại thống nhất với Bộ nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ công
nghiệp, cho phép một số doanh nghiệp bảo đảm nhập đủ nguồn nguyên liệu cung
ứng cho các cơ sở sản xuất phân bón trong nước đã được Bộ công nghiệp cấp giấy
phép sản xuất và Bộ khoa học công nghệ và môi trường cấp giấy chứng nhận chất
lượng hàng hoá. Bộ công nghiệp rà soát, chấn chỉnh lại các doanh nghiệp sản xuất
phân bón tổng hợp, nhằm mục đích bảo đảm chất lượng hàng hoá và cân đối Cung-
cầu về phân bón tổng hợp.
*Ban chỉ đạo để điều hành hoạt động xuất khẩu gạo và nhập khẩu phân bón
do một thứ trưởng Bộ Thương mại làm trưởng ban, bao gồm đại diện của Bộ Nông
nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ tài chính, Ngân hàng nhà nước, Tổng cục Hải
quan, một số tỉnh có sản lượng lúa hàng hoá lớn và hiệp hội XNK lương thực Việt
Nam.
2.1-/ Về cung ứng phân bón vô cơ trong nước:
Từ năm 1991 trở về trước: hệ thống cung ứng phân bón do Quốc doanh độc
quyền được tổ chức thành 2 cấp: cấp I (Tổng công ty vật tư nông nghiệp Trung
Ương,) cung ứng đến kho cấp II (Tỉnh), Cấp II cung ứng cho cấp III (Cấp III thuộc
cấp II quản lý); Quốc doanh địa phương thực hiện cung ứng 90% nhu cầu phân bón
trên địa bàn. Sơ đồ 2
MÔ HÌNH CUNG ỨNG PHÂN BÓN VÔ CƠ THỜI KỲ KẾ HOẠCH
HÓA TẬP TRUNG
Nước bán phân hoá học trên thế giới
Quốc doanh cấp I
Nh nà ước Việt Nam xây dựng kế hoạch
Quốc doanh Việt Nam Cấp II
Quốc doanh Vật tư Việt Nam Cấp III
Hợp tác xã, tập đo n sà ản xuất

Nhập khẩu
Giao chỉ tiêu nhập khẩu
Từ năm 1992 cùng với sự đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, cơ chế kinh doanh phân
bón mang tính độc quyền, nhiều tầng nấc, giá cả áp đặt được xoá bỏ. Hệ thống
phân phối theo ngành dọc từ cấp I tới cấp III đã mất tác dụng. Thay vào đó là nhiều
thành phần kinh tế cùng tham gia kinh doanh phân bón trên thị trường nội địa để
cung ứng cho người sản xuất. Quốc doanh địa phương chỉ cung ứng 20-30%. Có
thể nói hệ thống cung ứng được mở rộng, tư nhân tham gia cung ứng phân bón
ngày càng nhiều, phân bón không còn “chạy” vòng vèo như trước đây mới tới
được tay người sản xuất. Sơ đồ 3
MÔ HÌNH CUNG ỨNG PHÂN BÓN HOÁ HỌC THỜI KỲ ĐỔI MỚI
Nước bán phân hoá học trên thế giới
Các đầu mối nhập khẩu
Bộ Nông nghiệp v phát trià ển nông thôn
Các tổ chức trung gian cung ứng phân
Cửa h ng à đại lý bán lẻ
Nông dân
CƠ CHẾ KINH TẾ.
Đi đôi với hệ thống cung ứng phân bón theo hướng tự do lưu thông. Nhà
nước cũng thực hiện tự do hoá giá cả- có nghĩa là về cơ bản giá phân bón do thị
trường quyết định. Tuy vậy, nhưng để nông dân được hưởng mức giá bình ổn nhất
là khi thời vụ cần có phân bón chăm sóc cây trồng Nhà nước đang sử dụng quỹ
bình ổn giá để hỗ trợ cho kinh doanh phân bón dự trữ lưu thông một số lượng phân
ure nhất định để chủ động bán ra ở thời điểm bình thường cũng khi thời vụ hoặc ở
thời điểm giá cả tăng cao, bảo đảm để nông dân mua được đạm ure xoay quanh
định hướng 1 ure tương đương 2 lúa mà nông dân đồng bằng Sông Cửu Long và
khoảng 1,5 lúa ở đồng bằng sông Hồng đã chấp nhận.
3-/ CÁC CÔNG CỤ QUẢN LÝ VÀ ĐIỀU TIẾT LƯU THÔNG PHÂN BÓN
VÔ CƠ CỦA NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM .
Quản lý và điều tiết vĩ mô thị trường và lưu thông nói chung và phân bón vô

cơ nói riêng là vấn đề phức tạp, khó khăn. Sự quản lý và điều tiết của các cơ quan
nhà nước ở tầm vĩ mô phải hết sức mềm dẻo, linh hoạt, phải xuất phát từ mục tiêu
định hướng, tôn trọng sự vận động khách quan của thực tiễn.Trong giai đoạn đầu
chuyển sang kinh tế thị trường, xây dựng cơ chế quản lý kinh tế với rất nhiều mục
tiêu và các giải pháp khác nhau. Các vấn đề kinh tế xã hội cấp bách đang đan xen
vào nhau, vừa là tiền đề vừa là kết quả của nhau đòi hỏi phải giải quyết đồng bộ
không được biệt lập, riêng rẽ. Những vấn đề cơ bản của nền kinh tế có những mục
tiêu và giải pháp khác nhau, có khi mâu thuẫn nhau. Bởi vậy, phải đặt trong tổng
thể của nền kinh tế quốc dân để giải quyết vấn đề. Mục tiêu điều tiết thị trường, lưu
thông phân bón vô của nhà nước nằm trong hệ thống mục tiêu kinh tế xã hội, đáp
ứng mục tiêu cao nhất là ổn định và nâng cao đời sống nhân dân phát triển toàn
diện con người, xây dựng xã hội lành mạnh, văn minh trên cơ sở một nền sản xuất
hàng hoá phát triển cao. Nhà nước điều tiết lưu thông hàng hoá và phân bón vô cơ
nhằm làm cho nó ngày càng phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu, phát huy mặt
tích cực, hạn chế những tiêu cực phát sinh. Hướng lưu thông hàng hoá và phân bón
vào các mục tiêu kinh tế xã hội của đất nước. Để đạt được hiệu quả cao, nhà nước
cần linh hoạt sử dụng hệ thống công cụ điều tiết và quản lý vĩ mô:
3.1-/ Chương trình có mục tiêu phát triển thương mại của nhà nước.
Tính cân đối của nền kinh tế quốc dân là yêu cầu khách quan cho sự phát
triển của nó. Nền kinh tế quốc dân là một thể thống nhất bao gồm nhiều bộ phận
hợp thành có quan hệ hữu cơ với nhau. Trong đó có những khâu, những bộ phận
quan trọng có ý nghĩa quyết định tới sự phát triển của nền kinh tế. Thông qua sự
tác động tới các yếu tố then chốt đó sẽ đảm bảo sự phát triển tối ưu của nền kinh tế.
Kế hoạch hoá vĩ mô là kế hoạch định hướng, thực hiện những cân đối lớn nhằm
đảm bảo tốc độ phát triển hợp lý và hiệu quả cao.
Kế hoạch định hướng ở tầm vĩ mô cũng phải được thay đổi linh hoạt phù
hợp với sự vận động khách quan của nền kinh tế. Cùng với các chương trình mục
tiêu, kế hoạch kinh tế quốc dân được xây dựng đúng đắn sẽ là một công cụ quan
trọng. Ở các nước Tư bản phát triển, các nước công nghiệp mới đã sử dụng thành
công Kế hoạch kinh tế quốc dân như một công cụ trọng tâm, tác động vào nền kinh

tế .
3.1.1.Mô hình kế hoạch hoá định hướng
+ Mục tiêu của KHHĐH:Là nhằm giữ một số cân đối lớn trong nền kinh tế
thị trường có sự quản lý của nhà nước.
+ Chủ thể của KHHĐH:Trong mô hình kế hoạch hoá cũ (Kế hoạch hoá tập
trung), chủ thể của kế hoạch hoá là nhà nước, ở đây kế hoạch là cương lĩnh thứ 2
của Đảng, là pháp lệnh của cơ quan quyền lực nhà nước tối cao (Quốc hội, Hội
đồng nhân dân). Chính phủ chỉ giữ vai trò tổ chức thực hiện kế hoạch.
Trong mô hình KHHĐH hiện nay, Đảng lãnh đạo làm chiến lược (không làm
kế hoạch), Quốc hội làm Hiến pháp (không làm kế hoạch). Chủ thể của KHHĐH là
Chính phủ. Chính phủ làm KHHĐH trong khuôn khổ chiến lược do Đảng quyết
nghị và tuân thủ hệ thống pháp luật do Quốc hội quyết định. Sự phân định như vậy
một mặt, đề cao đúng mức vai trò của Chính phủ, mặt khác không hạ thấp vai trò
của Đảng, Quốc hội khi phải quyết định những dự án kế hoạch. Đồng thời làm cho
mối quan hệ giữa chiến lược với luật pháp được thể hiện nhất quán trong kế hoạch
mà sự nhất quán đó được quy tụ vào một nơi chịu trách nhiệm là Chính phủ.
+ Đối tượng của KHHĐH: Trong mô hình kế hoạch hoá tập trung trước đây,
đối tượng của kế hoạch là các quá trình kinh tế diễn ra trong khu vực sở hữu công
cộng, đặc biệt là khu vực doanh nghiệp quốc doanh do quan niệm rất hẹp về hàng
hoá- tiền tệ, nên ngay trong khu vực sở hữu công cộng, nhiều quá trình kinh doanh
đã nằm ngoài đối tượng của kế hoạch. Đặc biệt, khu vực kinh tế dịch vụ đã có một
bộ phận lớn không nằm trong đối tượng của kế hoạch do có sự phân biệt giữa sản
xuất vật chất (hệ thống phân ngành kinh tế MPS).
Trong mô hình KHHĐH, đối tượng của kế hoạch là toàn bộ quá trình vận
động của nền kinh tế hàng hoá (kể cả những bộ phận chưa phải là hàng hoá trong
thời kỳ chuyển đổi hiện nay). Trong đó tiền tệ sắm vai trò vĩ mô cực kỳ quan trọng.
+ Phương pháp KHHĐH:Trong mô hình kế hoạch hoá tập trung, kế hoạch
được tiến hành theo phương pháp của hệ thống sản phẩm vật chất MPS ( Materal
Product System). Phương pháp này không tính đến các dịch vụ, được quan niệm là
không liên quan trực tiếp tới sản xuất vật chất như các dịch vụ giáo dục, y tế, thể

thao, hành chính, ngân hàng. Phương pháp này cũng bỏ qua hạch toán khấu hao
trong nền kinh tế (theo UNDP) phương pháp này bỏ qua 20- 30% tổng sản phẩm
xã hội. Kế hoạch hoá định hướng đòi hỏi phải thể hiện đầy đủ mọi cục diện của
nền kinh tế trong mỗi tác động qua lại giữa các nhân tố cấu thành của nó. Bởi vậy,
KHHĐH buộc phải chuyển từ phương pháp cũ (MPS) sang phương pháp mới là
phương pháp hạch toán quốc gia theo hệ thống tài khoá quốc gia SNA (System of
Natinal Acount).
Trong mô hình kế hoạch hoá tập trung, kế hoạch không coi trọng phương
pháp giá trị. Một loại chỉ tiêu giá trị quan trọng đã bị bỏ qua trong các kế hoạch
như tổng tiêu dùng, tổng tiết kiệm, tổng thu thuế, chỉ số hàng tiêu dùng, tỷ giá, tỷ
lệ lạm phát, chỉ số tăng tiền lương danh nghĩa, tổng sản phẩm xã hội tính theo trượt

×