Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP XÂY LẮP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.38 KB, 28 trang )

TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI DOANH
NGHIỆP XÂY LẮP
1.1. Tổng quan về Ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm Ngân hàng thương mại
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế.
Ngân hàng thực hiện các chính sách kinh tế, đặt biệt là chính sách tiền tệ, do vậy
ngân hàng là một kênh quan trọng trong chính sách của Chính phủ nhằm ổn định
kinh tế.
Khái niệm Ngân hàng thương mại (NHTM) được tiếp cận trên nhiều phương
diện. Căn cứ vào các hoạt động chủ yếu của NHTM, Điều 20 Luật Các Tổ chức tín
dụng sửa đổi bổ sung của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có ghi:
“ Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động
ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và mục
tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm Ngân hàng thương mại, Ngân hàng
đầu tư, Ngân hàng chính sách, Ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng
khác.”
“Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng
với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng
và cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
Căn cứ vào các loại hình dịch vụ mà ngân hàng cung cấp, có thể định nghĩa:
“Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính
đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều
chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh
tế”.
1.1.2. Hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại
Với vai trò trung gian tài chính, Ngân hàng thương mại thực hiện chuyển vốn
từ người cho vay-người tiết kiệm sang người đi vay-người đầu tư. Vì vậy, các hoạt
động cơ bản của NHTM gồm có huy động vốn, tín dụng, đầu tư và các hoạt động
trung gian khác.
* Hoạt động huy động vốn
Huy động vốn là hoạt động cơ bản đầu tiên của một NHTM. Ngân hàng thực


hiện huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau. Tiền gửi của khách hàng là nguồn
tài nguyên quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của ngân hàng.
Khi bắt đầu hoạt động, ngân hàng thực hiện mở các tài khoản tiền gửi để giữ hộ và
thanh toán hộ cho khách hàng, bằng cách đó ngân hàng đã huy động được lượng
tiền nhàn rỗi của các doanh nghiệp, các tổ chức và dân cư.
Khi khả năng huy động tiền gửi bị hạn chế hay lượng tiền gửi không đáp ứng
được nhu cầu chi trả, Ngân hàng thường vay mượn thêm. Ngân hàng thương mại
có thể thực hiện vay của Ngân hàng Nhà nước, vay các tổ chức tín dụng khác và
vay trên thị trường vốn. Nghiệp vụ này được thực hiện chủ yếu nhằm giải quyết
nhu cầu dự trữ và chi trả cấp bách của NHTM.
Ngoài các hình thức huy động trên, NHTM còn thực hiện việc huy động vốn
chủ sở hữu thông qua phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm… để mở rộng
quy mô hoạt động, đổi mới trang thiết bị hoặc để đáp ứng nhu cầu gia tăng vốn của
chủ do Ngân hàng Nhà nước quy định… Hình thức huy động này tuy không
thường xuyên song giúp cho ngân hàng có được lượng vốn sở hữu lớn khi cần
thiết.
* Hoạt động tín dụng, đầu tư và các hoạt động trung gian khác
Trên cơ sở lượng vốn huy động được, NHTM thực hiện các hoạt động tín
dụng, đầu tư và trung gian khác.
Hoạt động tín dụng là hoạt động kinh doanh chính, chiếm tỷ trọng lớn nhất ở
phần lớn các NHTM, phản ánh hoạt động đặc trưng của ngân hàng. Trong nghiệp
vụ này, ngân hàng chuyển giao tạm thời quyền sử dụng vốn cho bên đi vay, sau
một khoảng thời gian nhất định bên đi vay phải hoàn trả cả gốc và lãi cho Ngân
hàng.
Ngân hàng đầu tư vào chứng khoán vì mục tiêu thanh khoản và đa dạng hóa
tài sản. Các loại chứng khoán mang lại thu nhập cho ngân hàng và có thể bán đi để
gia tăng ngân quỹ khi cần thiết. Ngân hàng nắm giữ nhiều loại chứng khoán như
chứng khoán Chính phủ, giấy nợ ngắn hạn của các ngân hàng thương mại, các
công ty tài chính…
Ngoài ra, ngân hàng còn thực hiện các hoạt động khác như tham gia góp vốn

với các tổ chức khác, cung cấp các dịch vụ liên quan đi kèm cho khách hàng để thu
phí hoa hồng…
1.2. Hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng
Tín dụng là một phạm trù kinh tế phản ánh mối quan hệ giữa hai chủ thể,
trong đó có sự chuyển giao một lượng giá trị từ chủ thể này sang chủ thể khác theo
những điều kiện mà hai bên thỏa thuận. Quan hệ tín dụng tồn tại dưới nhiều hình
thức khác nhau như tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng…
Tín dụng ngân hàng là hình thức phát triển cao nhất, thể hiện mối quan hệ tín
dụng bằng tiền tệ, giữa một bên là ngân hàng-tổ chức chuyên kinh doanh trong lĩnh
vực tiền tệ, với một bên là các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Quan hệ này được
thực hiện trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi.
Theo điều 20 Luật Các Tổ chức tín dụng sửa đổi bổ sung của nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam: “Hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín dụng sử dụng
nguồn vốn tự có, nguồn vốn huy động để cấp tín dụng. Cấp tín dụng là việc tổ chức
tín dụng thỏa thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn
trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng
và các nghiệp vụ khác.”
Nền kinh tế ngày càng phát triển thì khối lượng tín dụng ngân hàng được thực
hiện càng lớn. Tín dụng ngân hàng hiện nay đóng một vai trò quan trọng trong nền
kinh tế thị trường, đối với lĩnh vực sản xuất lưu thông hàng hóa cũng như lĩnh vực
lưu thông tiền tệ.
1.2.2. Phân loại tín dụng ngân hàng
Hoạt động tín dụng ngân hàng hiện nay rất đa dạng và phong phú với nhiều
hình thức khác nhau. Việc phân loại tín dụng có ý nghĩa quan trọng trong thực hiện
cân đối giữa nguồn vốn huy động và sử dụng vốn của ngân hàng. Phân loại tín
dụng có cơ sở khoa học là tiền đề để thiết lập các quy trình tín dụng thích hợp và
nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng. Có thể phân loại hoạt động tín dụng dựa
trên các tiêu thức sau đây :
1.2.2.1. Căn cứ theo thời gian

Phân chia theo thời gian có ý nghĩa quan trọng với ngân hàng vì liên quan
mật thiết đến tính an toàn và sinh lợi của tín dụng cũng như khả năng hoàn trả của
khách hàng.
Dựa vào căn cứ này, tín dụng được chia thành 3 loại như sau:
- Tín dụng ngắn hạn : có thời hạn từ 12 tháng trở xuống
- Tín dụng trung hạn : có thời hạn từ trên 1 năm đến 5 năm
- Tín dụng dài hạn : có thời hạn trên 5 năm
Tín dụng trung, dài hạn thường có tỷ trọng thấp hơn tín dụng ngắn hạn do có
độ rủi ro cao hơn, nguồn vốn đắt và khan hiếm hơn.
1.2.2.2. Căn cứ theo hình thức tài trợ tín dụng
Theo hình thức này, tín dụng được chia thành cho vay, bảo lãnh, cho thuê…
- Cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng
phải trả cả gốc và lãi trong thời gian xác định. Cho vay thường được định lượng
theo hai chỉ tiêu : doanh số cho vay trong kỳ và dư nợ cuối kỳ.
- Bảo lãnh là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính hộ
khách hàng của mình. Bảo lãnh là hình thức tài trợ thông qua uy tín, ngân hàng
không phải xuất tiền ngay khi bảo lãnh do vậy nó được ghi vào tài sản ngoại bảng.
- Chiết khấu thương phiếu là việc ngân hàng ứng trước tiền cho khách hàng
tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân hàng. Nghiệp
vụ chiết khấu dựa trên sự tín nhiệm giữa ngân hàng và những người ký tên trên
thương phiếu. Độ an toàn của thương phiếu tương đối cao do tối thiểu có hai người
cam kết trả tiền cho ngân hàng. Hơn nữa, thương phiếu có tính thanh khoản cao
nên ngân hàng có thể thực hiện tái chiết khấu tại Ngân hàng Nhà nước.
- Cho thuê là việc ngân hàng bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng thuê theo
những thỏa thuận nhất định. Sau một thời gian nhất định, khách hàng phải trả cả
gốc và lãi cho ngân hàng.
1.2.2.3. Căn cứ theo tài sản đảm bảo
Theo tiêu thức này, tín dụng được chia thành 2 loại:
- Tín dụng không có tài sản đảm bảo : loại tín dụng này có thể được cấp cho
các khách hàng có uy tín, thường là khách hàng làm ăn thường xuyên có lãi, tình

hình tài chính vững mạnh, ít xảy ra tình trạng nợ nần dây dưa…
- Tín dụng có tài sản bảo đảm : là loại tín dụng dựa trên cơ sở các bảo đảm
như thế chấp hoặc cầm cố, hoặc có sự bảo lãnh của bên thứ ba. Sự bảo đảm này là
căn cứ pháp lý để ngân hàng có thêm một nguồn thứ hai, bổ sung cho nguồn thu nợ
thứ nhất thiếu chắc chắn.
1.2.3. Tín dụng trung, dài hạn của NHTM
1.2.3.1. Khái niệm và các hình thức tín dụng trung, dài hạn của NHTM
Quan niệm về tín dụng trung, dài hạn rất khác nhau ở các nước trên thế giới.
Ở Việt Nam, tín dụng trung, dài hạn là các khoản tín dụng có thời hạn trên 1 năm.
- Tín dụng trung hạn : từ trên 1 năm đến 5 năm tài trợ cho các tài sản cố định
như phương tiện vận tải, một số cây trồng vật nuôi, trang thiết bị chóng hao mòn.
- Tín dụng dài hạn : trên 5 năm tài trợ cho các công trình xây dựng như nhà,
sân bay, cầu đường, máy móc thiết bị có giá trị lớn, thường có thời gian sử dụng
lâu.
Dựa và mục đích cho vay, tín dụng trung, dài hạn được phân chia thành nhiều
hình thức khác nhau:
- Cho vay kỳ hạn : thường dùng để tài trợ cho các mục đích chung của doanh
nghiệp, bao gồm tài trợ mua sắm bất động sản phục vụ sản xuất kinh doanh, các
thiết bị sản xuất, tài trợ vốn cho việc thanh toán các khoản nợ như nợ đến hạn mua
máy móc thiết bị trả chậm nước ngoài đã được ngân hàng bảo lãnh…Việc thanh
toán tiền theo định kỳ có thể bằng nhau hoặc khác nhau, có thời hạn ân hạn.
- Cho vay mua sắm máy móc thiết bị trả góp : là các khoản cho vay tài trợ
nhu cầu mua sắm máy móc thiết bị của doanh nghiệp có thời hạn trên 1 năm, tiền
vay là lãi được thanh toán dần cho Ngân hàng theo định kỳ. Việc thanh toán tiền
vay và lãi bằng nhau theo các định kỳ. Tuy nhiên, các doanh nghiệp thường không
thích dạng này vì không thuận lợi bằng cho vay kỳ hạn (không trả được nợ trước
hạn để giảm tiền lãi).
- Tài trợ theo dự án : là một hình thức cho vay trung, dài hạn trong đó ngân
hàng chỉ thu hồi được vốn từ nguồn thu nhập tạo ra từ dự án và phải chịu rủi ro
trong trường hợp dự án không thành công. Tài trợ theo dự án thường được áp dụng

trong các dự án đầu tư hạ tầng như xây dựng đường xá, cấp nước đô thị, năng
lượng...
1.2.3.2. Đặc điểm của tín dụng trung, dài hạn
* Vốn đầu tư lớn, thời hạn dài và thu hồi vốn chậm
Đối tượng tài trợ của tín dụng trung, dài hạn là các nhu cầu đầu tư vào tài sản
cố định, mua sắm máy móc thiết bị, dự án xây dựng mới…của doanh nghiệp. Đặc
điểm của đối tượng này là có giá trị lớn và thời gian sử dụng lâu. Do đó, khoản cho
vay để tài trợ cho các đối tượng này đòi hỏi một số vốn đầu tư lớn. Hơn nữa,
nguồn trả nợ cho khoản vay được lấy từ quỹ khấu hao cơ bản và lợi nhuận thu
được từ dự án. Vì vậy, thời hạn trả nợ thường kéo dài đến khi dự án kết thúc, dẫn
đến thu hồi vốn chậm.
* Rủi ro cao
Do đặc điểm của tín dụng trung, dài hạn là có thời gian dài, thu hồi vốn chậm
nên độ rủi ro của các khoản tín dụng này luôn cao. Một dự án có thời gian đầu tư
dài có thể chịu nhiều tác động của các yếu tố như thiên tai, chiến tranh, sự thay đổi
của môi trường kinh tế, chính sách pháp luật, tâm lý người dân…Hơn nữa, các
khoản tín dụng trung, dài hạn thường có số vốn đầu tư lớn nên khi rủi ro xảy ra sẽ
gây thiệt hại nghiêm trọng hơn cho ngân hàng so với các khoản tín dụng ngắn hạn.
* Lợi nhuận từ các khoản tín dụng trung, dài hạn lớn
Do các khoản tín dụng trung, dài hạn có thời hạn dài, độ rủi ro cao nên lãi
suất của các khoản vay này thường cao hơn lãi suất ngắn hạn. Sự biến đổi lãi suất
cho vay trung, dài hạn có thể dựa trên cơ sở lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà
nước quy định, lãi suất của thị trường quốc tế hoặc sự biến đổi của chỉ số giá cả
chung.
Ngoài ra, do các khoản tín dụng trung, dài hạn có tính thanh khoản thấp, khả
năng chuyển đổi thành tiền thấp hoặc chịu chi phí cao nên ngân hàng thường đặt
mức lãi suất cao cho các khoản vay này. Thêm vào đó, các khoản tín dụng trung,
dài hạn có số vốn lớn nên thu nhập mà các khoản tín dụng này đem lại cho ngân
hàng là lớn.
1.3. Doanh nghiệp xây lắp

1.3.1. Khái niệm doanh nghiệp xây lắp
Doanh nghiệp xây lắp (hay còn gọi là doanh nghiệp xây dựng) là doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được thành lập theo quy định của pháp luật,
có đăng ký kinh doanh về xây dựng (Theo điều 16 Nghị định 52/1999/NĐ-CP ngày
08/07/1999 của Chính phủ).
Các doanh nghiệp này thực hiện quá trình xây dựng mới, xây dựng lại, cải tạo
các công trình nhà máy, đường xá, cầu cống, nhà cửa… nhằm phục vụ sản xuất và
đời sống xã hội.
Trách nhiệm của các doanh nghiệp xây lắp :
- Đăng ký hoạt động xây dựng tại các cơ quan có thẩm quyền theo quy định
pháp luật.
- Chịu trách nhiệm trước pháp luật về các nội dung đã cam kết trong hợp
đồng với chủ đầu tư, bao gồm số lượng, chất lượng, tính chính xác của sản phẩm
theo thời gian thực hiện hợp đồng, thực hiện bảo hành chất lượng sản phẩm xây
dựng theo quy định.
- Thực hiện an toàn lao động, các chế độ bảo hiểm công trình xây dựng, bảo
vệ môi trường sinh thái trong quá trình xây dựng…Thông tin rộng rãi về năng lực
hoạt động của doanh nghiệp để chủ đầu tư biết và lựa chọn.
1.3.2. Hoạt động cơ bản của doanh nghiệp xây lắp
Hoạt động của từng doanh nghiệp xây lắp phụ thuộc vào ngành nghề kinh
doanh mà doanh nghiệp đăng ký với pháp luật. Tuy nhiên, hoạt động cơ bản của
doanh nghiệp xây lắp thường bao gồm như sau:
- Xây dựng
+ Xây dựng các công trình công nghiệp, công cộng và dân dụng : các nhà
máy (cơ khí, điện, điện tử viễn thông, hóa chất, hóa dầu, phân bón, may mặc da
giày, thuốc lá…), văn phòng, bệnh viện, khách sạn, các khu nhà ở, chung cư,
trường học, trung tâm văn hóa, trung tâm thể thao, trung tâm thương mại.
+ Xây dựng các công trình kỹ thuật hạ tầng : các công trình giao thông, đê
đập, sân bay, các khu đô thị và công nghiệp, các khu chế xuất, hệ thống cấp thoát
nước, xử lý nước thải, san đắp mặt bằng.

+ Xây dựng các công trình điện, hệ thống kiểm tra đo đếm, viễn thông : nhà
máy phát điện, đường dây, trạm biến áp, các hệ thống truyền tải và phân phối, các
hệ thống thiết bị kiểm tra, các công trình và hệ thống thông tin, viễn thông…
- Tư vấn thiết kế : tư vấn đầu tư, lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, quản lý dự
án, khảo sát địa chất, thiết kế kỹ thuật, thiết kế chi tiết, lập dự toán, giám sát kỹ
thuật công trình, kiểm tra chất lượng các công trình công nghiệp và dân dụng, thiết
kế công trình điện…
- Lắp đặt
+ Lắp các thiết bị công nghệ, khung nhà công nghiệp, xưởng sản xuất
+ Lắp đặt các thiết bị tự động, thiết bị điện, thiết bị đo, hiệu chỉnh điện…
- Chế tạo
+ Thiết bị xây dựng, thiết bị bê tông, gạch, băng tải…
+ Chế tạo kết cấu thép, khung nhà công nghiệp, dầm chịu lực…
- Hoạt động khác
+ Đào tạo công nhân kỹ thuật
+ Kinh doanh, xuất nhập khẩu các loại hàng hóa, vật tư thiết bị
+ Xuất khẩu lao động…
1.3.3. Đặc điểm của doanh nghiệp xây lắp
1.3.3.1. Về sản phẩm của doanh nghiệp xây lắp
Sản phẩm của doanh nghiệp xây lắp thường mang những đặc điểm riêng,
khác với các sản phẩm hàng hóa trong lĩnh vực khác như mỗi sản phẩm đều có
thiết kế riêng, yêu cầu riêng về công nghệ, quy phạm…Những đặc điểm riêng này
chi phối làm cho công tác quản lý, điều hành hoạt động trong quy trình thực hiện
đầu tư dễ gây ra lãng phí, thất thoát, phát sinh tiêu cực. Vì vậy, việc xây dựng cơ
chế, chính sách trong hoạt động xây lắp và đầu tư không thể đạt kết quả tốt nếu
không nghiên cứu đặc điểm riêng biệt của ngành xây lắp cũng như đặc điểm về sản
phẩm của ngành.
- Sản phẩm xây lắp là các công trình có quy mô lớn, kết cấu phức tạp. Sản
phẩm xây lắp mang tính cố định, nơi sản xuất ra sản phẩm đồng thời là nơi sản
phẩm được hoàn thành và đưa vào sử dụng. Các điều kiện sản xuất như vật liệu,

lao động, máy móc thi công phải di chuyển theo địa điểm đặt sản phẩm công trình.
Đặc điểm này làm khó khăn cho công tác tổ chức sản xuất. Việc bố trí các
công trình tạm phục vụ thi công như lán trại cùng phương tiện, máy móc thiết bị
làm nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp và tốn kém. Do đó, các doanh nghiệp xây lắp
cần lựa chọn loại hình tổ chức quản lý sản xuất thích hợp, linh hoạt, tăng cường
tính cơ động về mặt trang thiết bị, máy móc phục vụ thi công.
- Quá trình xây dựng lâu dài, chịu nhiều tác động của điều kiện tự nhiên,
khiến cho máy móc thiết bị, công trình dễ bị hư hỏng, ảnh hưởng đến tiến độ thi
công. Đặc điểm này làm cho các đơn vị xây lắp không lường trước được hết những
khó khăn do tác động của thời tiết, khí hậu. Rủi ro xảy ra làm ảnh hưởng tới tiến độ
thi công công trình, giá thành công trình, thậm chí cả chất lượng công trình.
Hơn nữa, cũng do quá trình xây dựng kéo dài nên đòi hỏi các doanh nghiệp
xây lắp phải lập dự toán (dự toán thiết kế và thi công). Dự toán là chi phí cần thiết
cho việc đầu tư xây dựng được tính toán cụ thể ở giai đoạn thiết kế kỹ thuật xây
dựng, không vượt tổng mức đầu tư đã duyệt.
- Sản phẩm xây lắp mang tính đơn chiếc, thường được sản xuất theo đơn đặt
hàng. Vì thế, chi phí bỏ vào sản xuất cũng khác nhau giữa các công trình. Chi phí
cho sản phẩm xây lắp rất đa dạng, phong phú, sử dụng nhiều loại nguyên vật liệu,
máy móc thi công và nhiều loại thợ các ngành nghề khác nhau.
- Sản phẩm xây lắp có thời gian sử dụng lâu dài, chất lượng của sản phẩm có
ý nghĩa quyết định. Vì vậy, mọi sai lầm trong quá trình thi công thường khó sửa
chữa, gây thiệt hại nghiêm trọng. Do vậy, trong quá trình thi công cần phải thường
xuyên kiểm tra, giám sát chất lượng công trình.
- Sản phẩm xây lắp được tiêu thụ theo giá dự toán hoặc theo giá thỏa thuận
với chủ đầu tư (hay giá đấu thầu). Do vậy, tính chất hàng hóa của sản phẩm xây lắp
không thể hiện rõ như sản phẩm thông thường. Sản phẩm thông thường không biết
người tiêu dùng là ai, trong khi sản phẩm xây lắp đã được quy định trước giá cả,
người mua, người bán thông qua hợp đồng giao nhận thầu.
- Doanh nghiệp xây lắp có trách nhiệm bảo hành sản phẩm xây lắp sau khi
bàn giao. Bảo hành công trình là điều kiện bắt buộc, được xác lập trên cơ sở pháp

luật và hợp đồng kinh tế giữa chủ đầu tư và đơn vị nhận thầu. Bảo hành công trình
nhằm mục đích bảo vệ lợi ích của chủ đầu tư, đồng thời xác lập trách nhiệm của
các đơn vị thi công xây lắp trong sửa chữa các hư hỏng xảy ra trong thời gian bảo
hành.
- Sản phẩm xây lắp liên quan đến nhiều ngành khác nhau trong quá trình xây
dựng và sử dụng. Tài sản cố định của các ngành khác nhau là sản phẩm của ngành
xây lắp. Do vậy, chất lượng sản phẩm xây lắp liên quan đến chất lượng đầu tư của
các ngành và hiệu quả đầu tư trong nền kinh tế.
1.3.3.2. Về hoạt động của doanh nghiệp xây lắp
Doanh nghiệp xây lắp có hai lĩnh vực hoạt động chủ yếu là hoạt động tìm
kiếm hợp đồng xây dựng và hoạt động bàn giao công trình hoàn thành, thanh quyết
toán hợp đồng xây dựng với chủ đầu tư.
Trong xây dựng, người ta thường phân biệt một bên là chủ đầu tư (bên A) và
đơn vị xây dựng bao thầu (bên B). Hiện nay, các dự án đều thực hiện đấu thầu
công khai nhằm chọn các đơn vị xây dựng có đủ tư cách pháp nhân, năng lực hành
nghề xây dựng. Do đó, một trong những vấn đề quyết định sự tồn tại và phát triển
của doanh nghiệp xây lắp là phải giành được thế chạnh tranh để có thể ký được
nhiều hợp đồng xây dựng. Nếu hoạt động này đạt kết quả tốt thì các hoạt động
khác của doanh nghiệp như hoạt động sản xuất thi công xây lắp, hoạt động bàn
giao công trình, hoạt động tài chính… mới có điều kiện được thực hiện.

×