Tải bản đầy đủ (.docx) (3 trang)

Tải Cảm nhận bài thơ Muốn làm thằng Cuội của Tản Đà - Bài văn mẫu lớp 10

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (82.55 KB, 3 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Cảm nhận bài thơ Muốn làm thằng Cuội của Tản Đà</b>
<b>Bài làm 3</b>


Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu (1889 – 1939) là gương mặt đặc biệt trên thi đàn
Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX, người đã mang đến một làn gió lạ cho thơ
ca Việt Nam, với cái ngông nghênh khinh bạc của nhà Nho cuối cùng và người
tiên phong cho thi ca vào con đường chuyên nghiệp. Tình say, ý lạ, tứ mới
chưa làm nên một Tản Đà, mà điều chủ yếu là sự thành thực tự nhiên trong cảm
xúc, ngay cả khi thi nhân chìm đắm vào cõi mộng. Những “khối tình”, những
“giấc mộng” làm nên một phần văn nghiệp Tản Đà. Muốn làm thằng Cuội là
một sự kết hợp của mộng và tình, để ta nhận rachân dung của con người dám
lấy cái ngông như một sự thách thức với cuộc đời ô trọc.


Tản Đà đã có vinh dự là người “dạo những bản đàn mở đầu cho một cuộc hịa
nhạc tần kì đang sắp sửa” (Hoài Thanh, Hoài Chân — Thi nhân Việt Nam).
Cung bậc của tiếng đàn ấy là của một tâm hồn phóng túng khơng bị câu thúc
trong lối văn trường ốc, có cái bay bổng của vị “trích tiên” tự coi mình là người
lạc bước chốn trần gian, Thơ Tản Đà có một khơng gian riêng với Tây Thi,
Dương Quý Phi, Chức Nữ, Hằng Nga, những giai nhân “hồng nhan tri kỉ” với
khách tài tử phong lưu, Người đời đã cho Tản Đà là “ngơng”, nhưng cần phải
hiểu đó cũng chính là thái độ của ơng phản ứng lại xã hội thực dân phong kiến
vốn có quá nhiều điều khiến ơng chán ngán buồn bực. Muốn làm thằng Cuội
chính là một phản ứng như vậy.


Dường như đối với Tản Đà, mùa thu cũng tạo nên nhiều duyên nợ. Từ khoảnh
khắc “Vèo trông lá rụng đầy sân” để nhận ra cơng danh như một thống chốc,
đến đêm thu chìm đắm trong mối sầu, thi nhân đã để cho những tâm tình bộc
bạch cùng trời đất;


<i>Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi</i>
<i>Trần thế em nay chán nửa rồi.</i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Trí tưởng tượng phong phú và mãnh liệt của nhà thơ đã làm nên một ước vọng
cao vời:


<i>Cung quế có ai ngồi đó chửa</i>
<i>Cành đa xin chị nhắc lên chơi..</i>


Hai câu thực làm rõ cho ước muốn của Tản Đà: muốn làm thằng Cuội. Cung
quế, cành đa để gợi nhắc câu chuyện cổ tích nhưng dường như có sự so sánh
ngầm trong ý thơ: ở cõi trần gian, “trích tiên” Tản Đà đang cơ đơn trong nỗi
buồn của chính mình, cịn nơi cung Quảng, Hằng Nga cũng đang cô đơn như
khách trần gian. Hành trình tưởng tượng của nhà thơ đã ngược về với thời gian
cổ tích, để nhà thơ hóa thân vào chú Cuội. Duy chỉ có khác một chi tiết nhỏ:
ngày xưa Cuội bám cành đa thần để bay lên trăng, cịn hiện tại thì cành đa ấy
lại là chiếc thang đón hồn thi nhân lên cung quế. Nghĩa là Tản Đà đến với
Hằng Nga để thay thế vai trị chú Cuội. Câu thơ có một chút hóm hĩnh trong ý
tứ, nhưng đó là cách cắt nghĩa cho tính chất cuộc gặp gỡ đặc biệt này: giữa
Hằng Nga và Tản Đà là mối quan hệ của hai tâm hồn cơ đơn đang cần tìm đến
nhau. Tản Đà “xin” mà không cầu lụy, bởi lẽ khi hướng về “cung quế”, có lẽ
thi nhân cũng hiểu thấu nỗi niềm Hằng Nga chăng?


Bởi thế, hai cầu luận là sự sẻ chia của đơi hồn cơ đơn:
<i>Có bầu có bạn can chi tủi</i>
<i>Cùng gió cùng mây thế mới vui.</i>


Bản chất đa tình của thi sĩ đã hé lộ. Câu thơ không phải chỉ diễn tả tâm trạng từ
một phía, vì nếu như vậy chẳng hóa ra thi sĩ lên trăng chỉ là giải thốt cho nỗi
buồn bực của riêng mình? Cái nồng nàn trong tình ý câu thơ chính là ở chỗ nhà
thơ cùng lúc diễn tả hai tâm trạng: một là của Hằng Nga – người cung Quảng
Hàn, một là của Tản Đà – người trần thế. Nét phóng khống tâm hồn thi nhân


đâu chỉ là cái ước vọng lên trăng để vượt thốt cảnh trần đầy chán ngán, mà
chính là khi được làm chú Cuội nghĩa là đượclàm bạn cùng san sớt nỗi buồn
với giai nhân cung quế. Có như vậy mới thật sự là tri âm tri kỉ! Cái độc đáo
Tản Đà chính là ở chỗ cảm nhận được nỗi u buồn của Hằng Nga trong không
gian quạnh quẽ chốn Quảng Hàn. Cũng như đã có lần nhà thơ phát hiện giữa
cõi tiên tấm lòng trần gian của tiên nữ:


<i>Lá đào rơi rắc chốn Thiên Thai</i>
<i>Suối tiễn, oanh đưa luống ngậm ngùi.</i>


(Tống biệt)
Cảnh tiên cũng buồn, nên thi nhân lên với cõi tiên là để chia sẻ cùng người tiên
chút tình nồng dương gian của người-cõi —tục. Đồng thời, khi được “cùng gió
cùng mây” khơng vướng bận những lo toan trần thế, con người cũng được giải
thoát khỏi nỗi sầu vơ hình đè nặng. Tìm về cõi mộng là cách để phá tan thành
sầu ở cõi thực, nỗi sầu như thi nhân đã từng cảm nhận: “Từ độ sầu đến nay,
ngày nào cũng có lúc sầu, đêm cũng có lúc sầu. Mưa dầm lá rụng mà sầu, trăng
trong gió mát mà càng sầu; nằm vắt tay lên trán mà sầu, đem thơ văn ngâm
vịnh mà càng sầu. sầu khơng có mối, chém làm sao cho đứt; sầu khơng có khối,
đập sao cho tan…” (Giải sầu). Trong nỗi sầu của nhà thơ, ta nhận ra những ám
ảnh thời thế, nhân thế và trần thế. Bầu bạn cùng chị Hằng, phải chăng là lúc
nhà thơ thật sự thoát khỏi những ám ảnh ấy khi được cận kề hồng nhan tri kỉ:


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<i>Tựa nhau trông xuống thế gian cười.</i>


Bài thơ được mở đầu bằng lời than “buồn lắm”, kết lại bằng nụ cười đêm rằm
tháng Tám. Niềm vui thay thế nỗi buồn khi những tấm lòng tri kỉ đã gặp gỡ
được nhau. Cảm hứng của bài thơ trọn vẹn với hình ảnh trăng thu tuyệt đẹp lay
thức giấc mơ của bao kẻ mn lánh đời thốt tục. Nhưng nếu chỉ có vậy thì
cảm hứng bài thơ chưa vượt thốt khỏi khn sáo cũ mịn của thơ xưa. Cái tình


tứ “tựa nhau” đã làm hiện rõ chất lãng mạn độc đáo của tâm hồn nhà thơ. Có lẽ
chưa ai trước Tản Đà lại có sự liên tưởng táo bạo đến thế! Câu chữ khéo léo, ý
tình dào dạt của Tản Đà đã làm nên nét nghĩa mới của hình tượng: chú Cuội —
Hằng Nga trong cổ tích đã hóa thân thành đơi lứa khăng khít Tản Đà tài tử và
Hằng Nga giai nhân. Nhưng cõi trần “chán nửa” vẫn hiện diện cùng khoảnh
khắc “trông xuống thế gian” của đôi lứa tâm đầu ý hợp, làm nên nụ cười “rất
Tản Đà”. Cười cho trị đời bon chen, cười trước tình đời nhạt nhẽo, và trên
hếtlà nụ cười của kẻ vẫn còn nặng lòng trần thế, canh cánh trong hồn thiên
chức nhà văn: “Hai chữ thiên lương thằng Hiếu nhớ”. Phải chăng nụ cười ấy ẩn
chứa một thông điệp hướng về tương lai rạng rỡ niềm vui? Và cũng vì thế mà
trăng phải là “rằm tháng Tám”, vằng vặc, tròn đầy, trong trẻo. Tắm mình trong
ánh sáng dịu dàng giữa nơi cung quế là cả một tâm hồn thi nhân bay bổng tuyệt
vời, thăng hoa cùng vẻ đẹp tuyệt đối của “nghìn năm thơ thẩn bóng trăng chơi”.
Bài thơ cho ta nhận ra một chân dung tâm hồn Tản Đà: phóng khống, đa tình,
nhiều mộng tưởng mà vẫn vướng vít những ưu tư trần thế. Con người ấy muốn
giữ trọn “thiên lương” giữa cuộc đời ơ trọc nên phải đắm chìm trong những
“giấc mộng con” để sống thành thực với chính mình và với cuộc đời. Ta chợt
nhận ra một nhân cách cao quý khơng bị vẩn đục bởi những toan tính vụ lợi
tầm thường, một con người “đi qua cái hỗn độn của xã hội Việt Nam đầu thế kỉ
XX” mà vẫn giữ trọn “linh hồn cao khiết”.


</div>

<!--links-->

×