Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Tải Soạn bài Vào phủ chúa Trịnh của Lê Hữu Trác - Bài soạn văn lớp 11 tác phẩm Vào phủ chúa Trịnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.34 KB, 22 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Soạn bài 11 bài Vào phủ chúa Trịnh</b>
<b>1. Soạn bài lớp 11: Vào phủ chúa Trịnh mẫu 1</b>


<b>1.1. Tác giả và tác phẩm</b>
<b>1.1.1. Tác giả</b>


Lê Hữu Trác (1724 – 1791) hiệu là Hải Thượng Lãn Ông, người làng
Liêu Xá, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương (nay
thuộc huyện Yên Mĩ, tỉnh Hưng Yên). Ông là một danh y, khơng chỉ
chữa bệnh mà cịn soạn sách và mở rộng trường dạy nghề thuốc để truyền
bá y học. Ơng để lại bộ Hải Thượng y tơng tâm lĩnh gồm 66 quyển, là
cơng trình nghiên cứu y học xuất sắc nhất trong thời trung đại Việt Nam.
Tác phẩm ghi lại một cách chân thực cảm xúc của tác giả trong thời làm
nghề y, qua đó bộc lộ đức độ của người thầy thuốc.


<b>1.1.2. Tác phẩm </b>


<b>Thượng kinh kí sự là tập kí sự bằng chữ Hán, viết năm 1782, hồn</b>
thành một năm sau đó và được khắc in vào năm 1885. Tập kí sự này xếp
ở cuối bộ Hải Thượng y tông tâm lĩnh như là một quyển phụ lục. Thượng
kinh kí sự tả quang cảnh ở kinh đô, cuộc sống xa hoa trong phủ chúa
Trịnh và quyền uy, thế lực của nhà chúa – những điều Lê Hữu Trác mắt
thấy tai nghe trong chuyến đi từ Hương Sơn ra Thăng Long chữa bệnh
cho thế tử Trịnh Cán và chúa Trịnh Sâm. Qua tác phẩm, chúng ta có thể
thấy được thái độ coi thường danh lợi của tác giả.


Đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh nói về việc Lê Hữu Trác lên tới kinh đô,
được dẫn vào phủ chúa để bắt mạch, kê đơn cho Trịnh Cán. Đoạn trích
trên có thể chia làm bốn đoạn nhỏ:


 <b>Đoạn 1: Quang cảnh trong phủ chúa (từ Mồng 1 tháng 2 đến</b>


<b>như phủ đào nguyên thuở nào).</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

 <b>Đoạn 3: Thế trạng của Trịnh Cán (từ Đang dở câu chuyện đến</b>
<b>đưa tơi ra "phịng chè" ngồi).</b>


 <b>Đoạn 4: Tâm trạng và cảm nghĩ của Lê Hữu Trác sau lần chữa</b>
<b>bệnh cho thế tử (từ Một lát sau đến thường tình như thế).</b>


1.2. Tìm hiểu đoạn trích


Câu 1. Bức tranh hiện thực trong phủ chúa Trịnh


 Khung cảnh và những hoạt động sinh hoạt trong phủ chúa Trịnh
được tác giả ghi lại khá tỉ mỉ qua con mắt quan sát của một người
thầy thuốc miền quê lần đầu tiên bước chân vào thế giới mới mẻ.
Tác giả mặc dù là con nhà quan, vốn sinh trưởng ở chốn phồn hoa
và từng biết nhiều nơi trong cung cấm, nhưng việc trong phủ chúa
thì chỉ mới nghe nói.


 Quang cảnh của phủ chúa cực kì xa hoa, tráng lệ nhưng thâm
nghiêm, nói lên uy quyền tột bậc của nhà chúa:


o Muốn vào phủ chúa phải đi qua nhiều cửa với những dãy
hành lang quanh co nối nhau liên tiếp.


o Bên trong khuôn viên phủ chúa, người giữ cửa truyền báo
rộn ràng người có việc quan qua lại như mắc cửi cho thấy
chúa giữ một vị trí trọng yếu và có quyền tối thượng trong
triều đình.



Câu 2. Hình ảnh nhân vật Trịnh Cán


 Hình ảnh nhân vật Trịnh Cán được khắc họa bằng những nét riêng,
nhưng đồng thời mang ý nghĩa khái quát. Thế tử bị bệnh có đến
bảy tám thầy thuốc phục dịch và lúc nào cũng có mấy người đứng
hầu hai bên. Dù thế tử chỉ là một đứa bé trẻ lên 5 – 6 tuổi, nhưng
khi vào xem bệnh, thầy thuốc già phải quỳ lạy bốn lần và khi xem
mạch xong phải lạy bốn lạy nữa trước khi lui ra.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

 Sự tinh tế, sắc sảo trong việc miêu tả của tác giả kết tinh ở những
chi tiết tuy nhỏ nhưng gây ấn tượng như việc thế tử ngồi chễm chệ
trên sập vàng để một cụ già phải quỳ dưới đất lạy bốn lạy, rồi cười
và ban một lời khen: "Ông này lạy khéo!".


Câu 3. Cách chuẩn đoán và chữa bệnh của Lê Hữu Trác cùng những diễn
biến tâm tư của ông.


 Tâm trạng và cảm nghĩ của Lê Hữu Trác diễn biến vô cùng phức
tạp trong thời gian chữa bệnh cho thế tử. Bản thân ông hiểu rõ bệnh
tình của thế tử nhưng lại không muốn chữa có hiệu quả ngay vì sợ
chúa tin dùng mình, bản thân mình sẽ dễ bị cơng danh trói buộc. Vì
vậy, để tránh được điều mà mình khơng thích, ông chọn cách chữa
bệnh cầm chừng, cho thuốc vô thưởng vơ phạt. Nhưng trong suy
nghĩ của ơng lại hình thành một cách nghĩ khác vì làm như vậy sẽ
trái lại y đức và lương tâm của người thầy thuốc. Hai lối suy nghĩ
này mâu thuẫn, giằng co với nhau. Cuối cùng, lương tâm và phẩm
chất trung thực của người thầy thuốc đã thắng.


 Khi đã xác định cách thức chữa bệnh, Lê Hữu Trác thẳng thắn đưa
ra quyết định và bảo vệ ý kiến của mình trước những thầy thuốc


khác, dù quan Chán đường tỏ ý ngần ngại, nói đi nói lại mấy lần.


 Những chi tiết miêu tả việc chữa bệnh của Lê Hữu Trác chứng tỏ
ông là một thầy thuốc giỏi, có kiến thức sâu rộng và dày kinh
nghiệm. Bên cạnh tài năng, ơng cịn chứng tỏ mình là một thầy
thuốc có y đức, lương tâm. Hơn nữa, Lê Hữu Trác cịn là một con
người khơng tham danh lợi, quyền q. Ơng u thích sự tự do và
cuộc sống thanh bạch, giản dị nơi quê nhà. Mặc dù chứng kiến sự
quyến rũ của cuộc sống vật chất giàu sang nhưng trước sau ông vẫn
dửng dung không mảy may rung động, không hề bị cám dỗ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

giữ vận mệnh dân tộc. Ý muốn "về núi" của Lê Hữu Trác đối lập
hoàn toàn với quan điểm sống của gia đình chúa Trịnh và phần
đơng quan lại thời đó. Sự tương phản trong quan điểm sống được
thể hiện qua việc đối lập giữa hình ảnh những thứ sơn son thiếp
vàng, võng điều áo đỏ, đèn đuốc lấp lánh, hương hoa ngào ngạt...
đặt bên cạnh cái thanh đạm, thuần khiết của một ông già áo vải ở
nơi quê mùa.


Câu 4. Thái độ, tâm trạng và suy nghĩ của tác giả khi vào phủ chúa


 Qua việc miêu tả hiện thực sắc sảo và ghi chép lại những cảnh sinh
hoạt trong phủ chúa, trong ta có thể thấy được phần nào thái độ của
tác giả.


 Trước cảnh phủ chúa xa hoa, lộng lẫy, tấp nập kẻ hầu người hạ, tác
giả đã đưa ra nhận xét: Bước chân đến đây mới hay cảnh giàu sang
của vua chúa khác hẳn người thường. Tác giả cũng vịnh một bài
thơ để tả hết cái sang trọng, vương giả trong phủ chúa như rèm
châu, hiên ngọc, vườn ngự có hoa thơm, có chim biết nói, son vàng


gác tía nghìn tầng, cửa có lính gác nghiêm ngặt... trong đó có lời
khái quát: cả trời Nam sang nhất là đây.


 Trong chi tiết khi được mời ăn cơm, Lê Hữu Trác đã nhận xét:
Mâm vàng, chén bạc, thức ăn tồn là của ngon vật lạ q hiếm, tơi
bây giờ mới biết cái phong vị của nhà đại gia.


 Những lời lẽ nhắc đến chúa Trịnh và thế tử đều phải hết sức cung
kính và lễ độ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

tác giả phải nín thở đứng chờ ở xa, khúm núm khi đến trước sạp
xem mạch.


 Khi chuẩn đoán bệnh trạng của thế tự, tác giả kết luận: Chỉ vì thế
tử ở trong chốn màn the trướng phủ lại ăn quá no, mặc quá ấm nên
tạng phủ yếu đi.


 Qua những chi tiết nêu trên, chúng ta có thể thấy, mặc dù khen sự
sang trọng, đẹp đẽ, cao quý nơi phủ chúa nhưng tác giả tỏ ra khơng
đồng tình với cuộc sống no đủ, dư thừa, tiện nghi nhưng lại thiếu
sinh khí và đồng thời ơng cũng biểu hiện thái độ dửng dung trước
những quyến rũ vật chất.


Câu 5. Cách viết kí của Lê Hữu Trác


 Hứng thú mà người đọc cảm nhận đọc Vào phủ chúa Trịnh được
tạo thành từ cách ghi chép sự việc, nghệ thuật khắc họa nhân vật,
cách chọn lọc, sắp xếp những chi tiết, tình tiết, vừa miêu tả vừa nêu
nhận xét, cách kể chuyện lơi cuốn, thú vị.



 Về nhân vật, ngồi những người mang họ Trịnh, các nhân vật khác,
tuy quyền hành và phận sự khác nhau, nhưng đều giống nhau ở chỗ
cùng dựa dẫm, nịnh bợ nhà chúa nhằm củng cố địa vị cá nhân. Các
quan ngự y ngày đêm chầu chực để liệu phương thuốc chạy chữa
cho Trịnh Cán, nhưng lại sợ trách nhiệm, chỉ theo ý của quan
Chánh đường để ra toa. Ngay cả quan Chánh đường cũng không
khá hơn, ơng hồn tồn đặt mọi hi vọng vào thế tử ốm yếu, bệnh
hoạn. Tất cả những nhân vật này đều có một điểm chung là làm
thân phận tơi địi, chim lòng cá chậu.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

 Giọng văn kể chuyện khách quan, pha chút hài hước, tạo được sự
thú vị cho người đọc: nín thở đứng chờ, bị sóc một mẻ, một chỗ tối
om khơng có cửa ngõ gì cả...


1.3. Phân tích đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh của Lê Hữu Trác


Hải Thượng Lãn Ông – Lê Hữu Trác khơng chỉ là một danh y nổi tiếng,
mà cịn là một tác giả có nhiều tác phẩm văn học có giá trị thời trung đại.
Lê Hữu Trác để lại cho đời một sự nghiệp y học đồ sộ, nổi bật hơn cả là
bộ Hải Thượng y tông tâm lĩnh được coi là bách khoa toàn thư về y học
thế kỉ XVIII. Các tác phẩm của ơng khơng chỉ có giá trị về y học mà còn
mang nhiều giá trị văn học sâu sắc vì đã ghi lại cảm xúc chân thật cùng
như bộc lộ tâm huyết, đức độ của người thầy thuốc. Thượng kinh kí sự là
tập kí sự nổi tiếng trong cuộc đời Lê Hữu Trác. Tác phẩm kể về cuộc
sống xa hoa trong phủ chúa Trịnh và quyền uy thế lực nhà chúa cũng như
những điều mắt thấy tai nghe nhân dịp được chúa Trịnh Sâm triệu vào
chữa bệnh. Đoạn trích vào Trịnh phủ khơng chỉ miêu tả cuộc sống xa hoa
ở phủ chúa, mà còn thể hiện rõ nét tâm hồn và nhân cách của vị lương y
tài hoa đức độ.



“Vào phủ chúa Trịnh” là một đoạn trích được rút ra từ “Thượng thư kí
sự” của tác giả Hải Thượng Lãn Ông –Lê Hữu Trác. Tác phẩm kể về
cuộc sống xa hoa trong phủ chúa Trịnh cũng như quyền uy thế lực nhà
chúa cũng như những điều mắt thấy tai nghe nhân dịp được chúa Trịnh
Sâm triệu vào chữa bệnh. Đoạn trích vào Trịnh phủ khơng chỉ miêu tả
cuộc sống xa hoa ở phủ chúa, mà còn thể hiện rõ nét tâm hồn và nhân
cách của vị lương y tài hoa đức độ này.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

vậy, chúng ta được biết đến ông là một người lười làm quan, biếng danh
lợi. Về ở ẩn ông không những là một người thầy thuốc giỏi mà còn là một
nhà văn. Trong tác phẩm “Vào phủ chúa Trịnh” này Lê Hữu Trác đã phê
phán những thói ăn chơi xã đọa của bậc vua chúa. Nơi đây khơng khác gì
cho những bậc thánh ở.


Đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” ghi lại thời điểm sau khi Hải Thượng
Lãn Ông vào kinh, đang tá túc tại nhà Quận Huy Hồng Đình Bảo thì ông
được mời vào phủ chúa Trịnh để xem bệnh cho Thế tử Cán. Đây là lần
đầu tiên ông bước chân vào chốn thâm nghiêm này. Qua đây tác giả có cơ
hơi chiêm ngưỡng và chứng kiến sự giàu có xa hoa và cung cách làm việc
nơi phủ chúa. Trước hết là quang cảnh trong phủ chúa Trịnh, đập ngay
vào mắt tác giả là những quang cảnh của cây cối um tùm, chim kêu ríu
rít, danh hoa đua thắm. quả thật đây là một nơi sang trọng bậc nhất thiên
hạ. Bên cạnh đó vào phủ chúa phải trải qua biết bao nhiêu là cửa sự trang
nghiêm nơi đây thật sự khiến cho người ta rụt rè chân bước “ Hậu mã
quân thúc trực” để cho chúa sai việc. Không chỉ dừng lại đó bên trong
cửa phủ thì có những “đại đường”, “quyền bổng”, “gác tía” với kiệu son,
võng nghi lộng lẫy, tất cả mọi thứ đều được mạ vàng. Từ những chiếc cột
cho đến những mâm bát chén cũng đều như được dát vàng. Cuộc sống ở
đây quả thực xa hoa bậc nhất .



</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

mà đứng ra cai quản lại có thể ăn chơi xa đọa trước những vất vả của
nhân dân như vậy.


Khơng chỉ có quang cảnh ở đây lộ vẻ xa hoa mà ngay cả tới người hầu kẻ
hạ cũng ra vào tấp lâp “đầy tớ chạy trước hết đường”, rồi lại đến “người
giữ cửa truyền báo rộn ràng, người có việc quan qua lại như mắc cửi”.
Lời nói của mọi người khi nhắc đến thế chúa và thế tử đều rất cung kính,
lễ độ. Riêng với chúa Trịnh lúc nào cũng có những cung tần mĩ nữ xung
quanh để hầu hạ. Chúa giống như những bậc thánh khiến cho tác giả cũng
khó mà gặp mặt chúa mà chỉ làm theo chỉ dẫn để vào cung thăm bệnh cho
thế tử Trịnh Cán mà thôi. Khi xem bệnh xong thì khơng được trao đổi với
chúa mà phải viết giấy khai đưa lên. Cịn riêng phần thế tử thì khi bị bệnh
lại có rất nhiều tầm bảy, tám ngự y thúc tục vây quanh. Cung cách khám
bênh ở phủ chúa, những ngự y ở đây, muốn khám bệnh cho con chúa thì
đều phải quỳ lạy dưới chân của một đứa bé. Không chỉ vậy mà người gọi
chúa Trịnh là thánh thượng, các chữ “thánh” ấy phải chăng chúa Trịnh
đang quá lạm dụng quyền hành của mình.


Những quan điểm của tác giả cũng được bộc bạch qua cách miêu tả
quang cảnh và cung cách ở trong phủ chúa Trịnh. Những câu văn của tác
giả như dửng dưng trước sự quyến rũ của giàu ó xa hoa nơi đây và giọng
điệu trong đoạn trích thể hiện thái độ khơng đồng tình mà lớn hơ là trái
ngược với những gì lẽ ra một người cận thần mong muốn nhận bổng lộc
nên làm. Qua cách nói mỉa mai châm biếm của tác giả, ta thấy: Sự lộng
quyền của nhà chúa với quyền uy tối thượng và nếp sống hưởng thụ cực
kỳ xa hoa của chúa Trịnh cùng gia đình; sự thật bù nhìn của vua Lê khi
ấy.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

chính là nói lên sự thực sự tráng lệ đó là chính nhân dân khổ cực bị chúa
bóc lột đến tận xương hay khơng.



1.4. Giá trị hiện thực sâu sắc của đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh


Lê Hữu Trác xuất thân trong một gia đình q tộc, giỏi binh thư, võ nghệ.
Làm quan dưới thời chúa Trịnh được một thời gian, ông nhận thấy xã hội
thối nát, cương thường lỏng lẻo, nhân khi người anh ở Hương Sơn mất
(1746), ông liền viện cớ cáo quan về ni mẹ già. Từ đó ơng chun
nghiên cứu y học vừa chữa bệnh cứu đời, vừa soạn sách và mở trường
dạy học truyền bá y đức, y lí, y thuật.


Ngày 12 tháng giêng năm Cảnh Hưng 43 (1782), Lê Hữu Trác nhận được
lệnh chúa triệu về kinh xem mạch, kê đơn chữa bệnh cho thế tử Trịnh
Cán. Sau đó một thời gian thì chữa bệnh cho chúa Trịnh Sâm. Những
điều Lê Hữu Trác mắt thấy tai nghe trong nhiều chuyến đi từ Hương Sơn
ra Thăng Long đã thôi thúc ông cầm bút


Năm 1783 ông viết xong tập “Thượng kinh kí sự” bằng chữ Hán. Tập kí
sự này là một tác phẩm văn học đích thực, đặc sắc giá, có giá trị sử liệu
cao . Đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” trong sách Ngữ văn 11- Nâng cao,
tập 1 (Nxb Giáo dục, 2007) thể hiện được đầy đủ những nét độc độc đáo
trong bút pháp kí sự của Lê Hữu Trác.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

Đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” vẽ lại một bức tranh sinh động về cuộc
sống xa hoa quyền quý của chúa Trịnh. Lê Hữu Trác sử dụng người trần
thuật ngôi thứ nhất, trực tiếp tiếp cận cung cách sinh hoạt xa hoa của chúa
Trịnh. Nhà văn quan sát tỉ mỉ, ghi chép trung thực, tả cảnh sinh động,
thuật việc khéo léo.


Mở đầu đoạn trích là một sự kiện cụ thể, chân thực. Tính chất kí trong bút
pháp của Lê Hữu Trác thể hiện rõ ở cách ghi tỉ mỉ sự việc, thời gian.


Nhà văn kết hợp biện pháp kể khách quan với nghệ thuật gợi không khí
nhằm làm nổi bật hành động khẩn trương, gấp gáp của nhân vật:


“Mồng một tháng 2. Sáng tinh mơ, tôi nghe tiếng gõ cửa rất gấp. Tôi
chạy ra mở cửa. Thì ra một người đầy tớ quan Chánh đường….”.


Ở đây “trong việc có người”, người gắn chặt với cảnh, với môi trường
hoạt động cụ thể. Câu văn của Lê Hữu Trác ngắn gọn, giàu thông tin,
được viết ra một cách nhẹ nhàng, tự nhiên, không một chi tiết thừa.


Lời văn giản dị, chắc mà bay bổng, vừa “truyền cảm” vừa truyền nhận
thức. Người đọc có thể hình dung được rất rõ một cảnh huống đặc biệt
đang xảy ra.


Lần theo mạch tự sự, người đọc có cảm giác hồi hộp lo âu rồi bất ngờ
nhận ra một con người gần gũi, quen thuộc như cảm nhận của nhân vật
“tôi” trong tác phẩm này.


Trước mắt ta: hình ảnh nhân vật tơi đã dừng bước với tâm trạng ngạc
nhiên, thoáng một chút thất vọng. Nhịp kể đột ngột chậm lại để ghi
người, ghi việc rõ nét hơn, đầy đủ hơn. Hai chữ “thì ra” vừa tạo ấn tượng
về sự khám phá, vừa gọi ra được người thật, việc thật .


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

Vì thế ngay từ đầu truyện người đọc đã có cảm giác đây khơng phải câu
chuyện hư cấu, mà chính là bức tranh cuộc sống đang hiện hữu.


Khi kể việc, tả người Lê Hữu Trác không vay mượn những khn mẫu,
chất liệu có sẵn, tác giả hướng tới khai thác chất liệu đời thường, đời tư.
Chẳng hạn lời đối thoại của nhân vật người đầy tớ được thể hiện một
cách tự nhiên, đúng với vị thế chức phận của hắn: “có thánh chỉ triệu cụ


vào. Quan truyền mệnh hiện đang ở nhà cụ lớn con, con vâng mệnh chạy
đến đây báo tin…”.


Lê Hữu Trác coi trọng việc kể lại có ngọn ngành. Nhà văn ưa sắp xếp sự
việc cho đầy đủ mạch lạc có đầu có cuối, nên dường như cứ một đoạn
hay một câu nói về hành động của tên đầy tớ lại tiếp đoạn tự thuật về
hành động, cảm nhận của Lê Hữu Trác. “Nghe tiếng gõ cửa…..tơi chạy
ra…”, “người đầy tớ nói…..tơi bèn”, “tên đầy tớ chạy…tơi bị xóc một
mẻ, khổ khơng nói hết”. Mạch văn chặt chẽ nhờ sự thể hiện thành cơng
cái lơ gíc nhân quả của sự kiện, hành động. Ban đầu ta tưởng như nhân
vật “tôi” chủ động, nhưng càng đọc càng thấy nhân vật “tôi” bị cuốn vào
hết sự việc này đến sự việc khác.


Mở đầu đoạn trích cấu trúc câu văn ngắn gọn. Mỗi câu văn tương ứng với
một tâm tình, một sự việc, hành động. Người đọc vừa đồng cảm với nỗi
vất vả và hành động bất đắc dĩ của nhân vật tơi vừa đồng tình với Lê Hữu
Trác ở thái độ mỉa mai châm biếm sự lộng quyền, tiếm lễ của chúa Trịnh
Sâm lúc bấy giờ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

Theo nhân vật “tôi” quanh cảnh ở phủ chúa cực kì xa hoa, tráng lệ
-khơng ở đâu sánh bằng: Khi vào phủ phải qua nhiều lần cửa với những
hành lang quanh co nối tiếp nhau, ở mỗi cửa đều có vệ sĩ canh gác.
Khn viên phủ chúa rộng, có trạm dừng chân được kiến trúc thật kiểu
cách, với cảnh trí thiên nhiên kì lạ. Trong vườn, chim kêu ríu rít, danh
hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương. Bên trong là những đại
đường, gác tía với kiệu son, võng điều. Đồ dùng của chúa được sơn son
thiếp vàng, đồ dùng tiếp khách ăn uống cũng đều là mâm vàng, chén bạc,
của ngon vật lạ…. Đến nội cung của thế tử phải trải qua 6 lần trướng
gấm. Nơi ở của thế tử rất sang trọng, có sập thếp vàng, ghế rồng bày nệm
ấm, xung quanh lấp lánh, hương hoa ngào ngạt…



Lê Hữu Trác khéo kết hợp tả tập trung với điểm xuyết, chọn lọc được
những chi tiết đắt, nói lên quyền uy tối thượng cùng nếp sống hưởng thụ
cực kì xa xỉ của gia đình chúa Trịnh Sâm. Giọng kể khách quan, trang
nghiêm, đan xen với thái độ ngạc nhiên và hàm ý phê phán kín đáo chúa
Trịnh. Nhà văn khéo kết hợp giữa văn xuôi và thơ ca. Bài thơ vịnh cảnh,
tả việc của Lê Hữu Trác ý tứ sâu xa, lời thơ hóm hỉnh, ẩn giấu một nụ
cười châm biếm, mỉa mai.


Lời nhận xét trong văn phẩm khá đa dạng: Trước tiên Lê Hữu Trác đánh
giá khái quát vẻ đẹp. Tiếp theo nhận xét về cảnh giàu sang. Tiếp nữa nêu
ấn tượng về cách bày trí, kiến trúc kiểu cách. Nhà văn dừng lại bình giá tỉ
mỉ, sắc sảo các đồ dùng xa hoa từ nhà Đại đường đến Gác tía. Lời đánh
giá nào của lê Hữu Trác cũng đích đáng, tinh tế và có chừng mực. Nói tác
phẩm giàu chất trữ tình vì thế.


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

tranh. Đoạn trích gồm nhiều bức tranh với những mảnh màu tối sáng,
nhạt đậm khác nhau, nối liền nhau .


Qua mấy lần cửa đầu tiên, trước mắt tác giả giống như một cảnh tiên
huyền ảo, cây cối um tùm, hương hoa thơ mộng. Đi tiếp, cảnh giàu sang
của phủ chúa được bày ra chân thật,đầy đủ hơn. Càng đi sâu vào trong,
Lê Hữu Trác càng có dịp quan sát khơng gian nội thất, không gian cao
rộng của lầu gác với các đồ nghi trượng sơn son thếp vàng, nhất là được
biết cái phong vị của nhà đại gia.


“Vào phủ chúa Trịnh” trở thành một quá trình tiếp cận sự thật đời sống xa
hoa vương giả hơn là thăm bệnh, chữa bệnh. Thăm bệnh, chữa bệnh cho
thế tử Trịnh Cán tưởng chỉ như một cái cớ, một dịp may giúp người viết
kí hồn thiện bức tranh về cuộc sống thâm nghiêm, giàu sang đầy uy


quyền.


Lê Hữu Trác tổ chức điểm nhìn trần thuật linh hoạt. Có đoạn sự việc
được kể theo quan sát của nhân vật xưng tơi. Có đoạn nhà văn để cho
nhân vật quan truyền chỉ miêu tả,giới thiệu. Người đọc có cảm tưởng
khơng chỉ có Lê Hữu Trác dẫn ta vào phủ chúa để tự do quan sát ngắm
nhìn mà cả những kẻ hầu cận chúa cũng đưa ta thâm nhập, khám phá sự
thật ở “Đông cung”. Những đoạn nhân vật tơi độc thoại tốt lên cái nhìn
sắc sảo và sự cảm nhận tinh tế. Những đoạn kể tả, cho thấy nhân vật tôi
bao quát được một không gian rộng lớn, nắm bắt được thần thái, bản chất
của sự vật hiện tượng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

Các nhà nho xưa ít khi nói về mình. Nhưng trong đoạn trích này, tác giả
đã khơng ngần ngại để cái “tơi” đóng một vai trò quan trọng. “Vào phủ
chúa Trịnh” thể hiện trực tiếp cái tơi cá nhân người cầm bút. Qua đoạn
trích ta thấy tác giả Lê Hữu Trác là một thầy thuốc giàu kinh nghiệm. Bên
cạnh tài năng ơng cịn là một thầy thuốc có lương tâm và đức độ. Lê Hữu
Trác xem nghề thuốc vơ cùng thiêng liêng cao q, người làm thuốc phải
nối tiếp lịng trung của cha ơng mình, phải ln giữ đức cho trong, giữ
lịng cho sạch. Lê Hữu Trác yêu thích tự do, nếp sống thanh đạm. Vượt
lên trên những danh lợi tầm thường ông trở về hành đạo cứu đời với quan
niệm: “Thiện tâm cốt ở cứu người. Sơ tâm nào có mưu cầu chi đâu/ Biết
vui, nghèo cũng hơn giàu/ Làm ơn nào phải mong cầu trả ơn”.


<b>2. Soạn bài: Vào phủ Chúa Trịnh mẫu 2</b>
2.1. Tóm tắt


“Vào phủ Chúa Trịnh” thuộc “Thượng Kinh kí sự”, là tác phẩm kí sự của
Lê Hữu Trác (Hải Thượng Lãn Ơng). Đoạn trích “Vào phủ Chúa Trịnh”
kể lại chuyến vào phủ Chúa để chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán của chính


tác giả. Qua chuyến đi đó, tác giả đã vẽ lại một bức tranh chân thực và
sinh động về cuộc sống xa hoa, quyền quý của chúa Trịnh, đồng thời bộc
lộ thái độ coi thường danh lợi của bản thân.


<b>2.2. Bố cục</b>


- Phần 1 (từ đầu đến “phiền một nỗi là khơng có dịp”): Khung cảnh xa
hoa, quyền q nơi phủ Chúa hiện lên qua hành trình của Lê Hữu Trác.
- Phần 2 (đoạn còn lại): Lê Hữu Trác bắt mạch, kê đơn chữa bệnh cho thế
tử.


<b>2.3. Hướng dẫn học bài</b>
<b>Câu 1 (trang 9 SGK):</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

nhìn, thái độ của Lê Hữu Trác đối với cuộc sống nơi phủ chúa như thế
nào?


- Quang cảnh trong phủ Chúa: xa hoa, tráng lệ.


+ Trong phủ có đủ những loại cây lạ lùng, những hịn đá kì lạ, cây cối um
tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm.


+ Trong phủ rộng, có nhiều dãy nhà lớn, đường đi phức tạp: điếm “Hậu
mã quân túc trực”, nhà “Đại đường”, “Quyển bồng”, “Gác tía” hay
“phịng trà”.


+ Đồ đạc, cách bài trí trong phủ Chúa đều sang trọng, xa hoa:


→ sơn son thếp vàng, làm bằng vàng, tồn những đồ bài trí nhân gian
chưa từng thấy;



→ đồ dùng ăn uống: mâm vàng, chén bạc, những của ngon vật lạ;


→ nơi ở của thế tử cũng bày trí tồn trướng gấm, sập thếp vàng, giá đồng,
ghế rồng sơn son thếp vàng, nệm gấm.


- Cung cách sinh hoạt trong phủ Chúa: nhiều lễ nghi, uy nghiêm, ai nấy
cũng cẩn trọng, Chúa và thế tử chính là trời, được trọng vọng, kính sợ.
+ Người giữ cửa truyền báo rộn ràng, người có việc quan qua lại như mắc
cửi, ai muốn ra vào cung phải có thẻ.


+ Thị vệ nghiêm cẩn, thận trọng với những người ra vào phủ Chúa.
+ Nhiều phi tần, giai nhân chầu chực quanh thánh thượng.


+ Trước thế tử, ai cũng phải co ro, khúm núm, lạy rồi thưa.


- Những quan sát, ghi nhận này của Lê Hữu Trác thể hiện cách nhìn, thái
độ của Lê Hữu Trác đối với cuộc sống nơi phủ chúa: Đó là sự chống
ngợp, xa lạ của tác giả trước vẻ xa hoa, quyền quý không một nơi nào
trên nhân gian có được.


<b>Câu 2 (trang 9 SGK):</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

+ Chi tiết về nơi ở của thế tử: Tối om, khơng có cửa ngõ, nằm bên trong
năm, sáu lần trướng gấm, bày biện hoa nến, người hậu hạ đứng xúm xít.


⇒ Nơi ở của thế tử xa hoa, sang trọng nhưng thực chất như một chiếc
bình được đậy kín. Đây là cuộc sống được phong bế, ủ bọc quá mức.
+ Chi tiết về căn bệnh của thế tử: ở trong chốn màn che trướng phủ, ăn
quá no, mặc quá ấm, tạng phủ yếu đi, tinh khí khô hết, da mặt khô, rốn lồi


to, gân xanh, tay chân gầy gị.


⇒ Căn bệnh của thế tử chính là sản phẩm, là hệ quả của cuộc sống quá đủ
đầy, dư thừa, xa hoa nơi phủ Chúa.


<b>Câu 3 (trang 9 SGK):</b>


Cách chẩn đoán và chữa bệnh của Lê Hữu Trác cũng những diễn biến
tâm tư của ông khi kê đơn cho ta hiểu gì về người thầy thuốc này?


+ Cách chẩn đoán: Lê Hữu Trác nhận ra ngay nguyên do dẫn đến căn
bệnh của thế tử, phương thuốc của ông đưa ra cũng cốt giữ lại thể chất
bẩm sinh đã bị héo rũ đi.


+ Diễn biến tâm tư khi kê đơn: phân vân có nên dùng phương thuốc hịa
hỗn hay không, cuối cùng Lê Hữu Trác đã chọn cách dốc hết cả lòng
thành, lòng trung để chữa bệnh.


⇒ Lê Hữu Trác là con người không màng đến danh lợi, quyền q, có
lịng trung nghĩa.


⇒ Ơng khiêm tốn dù rất có danh tiếng.


⇒ Ơng cịn là vị lương y chân chính, tài giỏi, chuyên chú chữa bệnh cứu
người, sẵn sàng chịu trách nhiệm với đơn thuốc của mình kê.


<b>Câu 4 (trang 9 SGK):</b>


Theo anh (chị), bút pháp kí sự của tác giả có gì đặc sắc? Phân tích những
nét đặc sắc đó.



</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

→ Tác giả miêu tả chi tiết, tường tận những điều trông thấy ở phủ Chúa:
giúp khắc họa một bức tranh về cuộc sống nơi đây, gián tiếp thể hiện
cách nhìn, thái độ chống ngợp, “dị ứng” của ơng.


+ Giọng văn mang sắc thái trung hịa, khơng bày tỏ cảm xúc trực tiếp:
→ Không áp đặt bằng những câu từ bình thán ⇒ Tạo nên sự khách quan
trong việc miêu tả, đồng thời thể hiện thái độ dửng dưng trước quyền
quý, vật chất.


<b>2.4. Luyện tập</b>


<b>Câu 1: So sánh đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh với một tác phẩm (hoặc</b>
đoạn trích) kí khác của văn học trung đại Việt Nam mà anh (chị) đã đọc
và nêu nhận xét về nét đặc sắc của đoạn trích này.


<b>Vào phủ chúa Trịnh</b> <b>Truyện Hồng Bàng Thị (trích Lĩnh</b>
<b>Nam Chích Quái)</b>


Tác giả kể lại chuyến hành trình vào
phủ Chúa để chữa bệnh cho thế thử
của chính mình, qua đó khắc họa
cuộc sống xa hoa nơi phủ chúa đồng
thời bày tỏ thái độ xem thường danh
lợi, quyền quý.


Truyện lý giải nguồn gốc của người
Bách Việt (nghĩa là người Việt ta
ngày nay) thông qua câu chuyện của
Lạc Long Quân và Âu Cơ, nhưng với


cách kể rất khác so với truyền thuyết
dân gian.


Nét đặc sắc của truyện Hồng Bàng thị:


→ Tác giả đã biến một truyền thuyết hư cấu của dân gian thành một câu
chuyện có căn cớ lịch sử. Nhân vật Lạc Long Quân và Âu Cơ được gán
cho xuất thân rõ ràng hơn.


→ Câu chuyện này đã khẳng định nguồn gốc cao quý của người Việt, ca
ngợi ý thức, sự đoàn kết dân tộc.


2.5. Ý nghĩa bài học


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

vẽ lại một bức tranh sinh động về cuộc sống xa hoa, quyền quý của chúa
Trịnh, đồng thời bộc lộ thái độ coi thường danh lợi của mình.


<b>3. Soạn bài lớp 11: Vào phủ chúa Trịnh mẫu 3</b>
<b>3.1 Tóm tắt</b>


Vào sáng sớm tinh mơ ngày 1 tháng 2, tôi được lệnh triệu vào phủ chúa.
Tơi nhanh chóng được điệu đi trên một cái cáng chạy như ngựa lồng. Tôi
đi vào từ cửa sau, nhìn quanh tơi thấy cây cối um tùm, chim hót líu lo,
mn hoa đua thắm. Qua mấy lần cửa, các hành lang dài quanh co tôi
được đưa tới một ngơi nhà thật lớn gọi là phịng trà. Đồ đạc trong phòng
đều được sơn son thếp vàng. Lúc đó thánh thượng đang ngự phịng thuốc
cùng các phi tần nên tôi không thể yết kiến. Tôi được thiết đãi bữa sáng
mĩ vị với đồ dùng toàn bằng vàng, bạc. Ăn xong tôi được đưa đến yết
kiến ở Đông Cung và khám bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Thế tử vì “ăn quá
no, mặc quá ấm” mà sinh bệnh. Nửa sợ bị cuốn vào vịng danh lợi, nửa vì


chịu ơn của nước. Cuối cùng, tơi dốc lịng kê đơn cho thế tử, rồi từ giã lên
cáng trở về kinh Trung Kiền chờ thánh chỉ. Bạn bè ai ai trong cung cũng
đến thăm hỏi.


<b>3.2 Bố cục</b>


- Phần 1 (từ đầu đến khơng có dịp): Quang cảnh trong phủ chúa Trịnh.


- Phần 2 (tiếp đến phòng chè ngồi): Thực trạng trong phủ chúa, hình ảnh
Trịnh Cán ốm yếu.


- Phần 3 (cịn lại): Tâm trạng, cảm nghĩ của Lê Hữu Trác


<b>3.3 Hướng dẫn</b>


<b>Câu 1 (trang 9 sgk Ngữ văn 11 Tập 1):</b>
* Quang cảnh trong phủ Chúa


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

- Vườn hoa trong phủ Chúa cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa cỏ
thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương


- Bên trong phủ là nhà Đại đường, Quyển bổng, Gác tía với kiệu son,
võng điều, đồ nghi trượng sơn son thếp vàng và những đồ đạc nhân gian
chưa từng thấy.


- Đồ dùng tiếp khách ăn uống toàn là mâm vàng chén bạc


- Đến nội cung phải đi qua 5, 6 lần trướng gấm


- Phòng thắp nến, sập thếp vàng, ghế rồng sơn son, nệm gấm mà che



⇒ Quang cảnh ở phủ chúa cực kì tráng lệ lộng lẫy, khơng đâu sánh bằng


* Cung cách sinh hoạt trong phủ Chúa


- Khi đi thì có tên đầy tớ chạy trước hét đường


- Trong phủ người giữ cửa truyền báo rộn ràng, người có việc qua lại như
mắc cửi


- Lời lẽ nhắc đến thế tử đều hết mực cung kính, lễ độ tránh phạm úy.


- Chúa Trịnh luôn cho phi tần chầu chực xung quanh. Tác giả không được
thấy mặt Chúa


- Thế tử bệnh có 7, 8 người thầy thuốc túc trực, phục dịch


- Tác giả phải quỳ lạy 4 lần lúc đến và 4 lần lúc về


⇒ Cung cách sinh hoạt trong phủ chúa với những lễ nghi, khn phép,
cách nói năng, người hầu kẻ hạ cho thấy sự cao sang, quyền uy, cùng với
cuộc sống hưởng thụ xa hoa đến cực điểm và sự lộng quyền của nhà
chúa.


* Cách nhìn, thái độ của Lê Hữu Trác đối với cuộc sống trong phủ


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

<b>Câu 2 (trang 9 sgk Ngữ văn 11 Tập 1): Chi tiết được cho là đắt nhất</b>
- “Một đứa bé độ 5, 6 tuổi ngồi chễm chệ trên sập vàng để cho thầy thuốc
già cúi lạy bốn lần rồi cười và ban một lời khen “ông này lạy khéo”. Khi
đi đi qua độ 5, 6 lần trướng gấm tối om như vậy là một khung cảnh vàng


son nhưng tù hãm, thiếu sinh khí của thế tử. Xung quanh lấp lánh, hương
hoa ngào ngạt mấy người hầu cận đứng xúm xít.


- Qua chi tiết ấy cho thấy cuộc sống ăn chơi hưởng lạc trong phủ Chúa.
Thế tử được mọi người chăm sóc, hầu cận đến phát bệnh. Khơng gian
ngột ngạt, tù túng, thiếu sinh khí trong phủ Chúa.


<b>Câu 3 (trang 9 sgk Ngữ văn 11 Tập 1):</b>


- Cách chẩn đốn bệnh của Lê Hưu Trác cho thấy ơng là một người thầy
thuốc giỏi, giàu kinh nghiệm


- Ông là một thầy thuốc có lương tâm và đức độ


- Đặc biệt ơng cịn có những phẩm chất cao q: khinh thường danh lợi,
quyền quý, yêu thích tự do và nếp sống thanh đạm, giản dị


<b>Câu 4 (trang 9 sgk Ngữ văn 11 Tập 1): Bút pháp đặc sắc trong truyện</b>
- Sự quan sát tỉ mỉ, ghi chép trung thực những gì đã nhìn thấy


- Tả cảnh sinh động


- Kể diễn biến sự việc một cách khéo léo, lôi cuốn người đọc


<b>3.4 Luyện tập </b>


(trang 9 sgk Ngữ văn 11 Tập 1)


So sánh hai đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” (Lê Hữu Trác) với “Chuyện
cũ trong phủ chúa Trịnh” (Phạm Đình Hổ)



* Giống nhau: Đều phán ánh hiện thực cuộc sống xa hoa trong phủ chúa
Trịnh


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

- Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh – Phạm Đình Hổ


+ Phản ánh sự nhũng nhiễu của quan lại đối với nhân dân


+ Các sự kiện được kể một cách tản mạn, ghép nối


+ Thể hiện thái độ phê phán gay gắt của tác giả đối với Chúa và quan
lại


- Vào phủ chúa Trịnh – Lê Hữu Trác


+ Ghi chép sự việc theo trình tự thời gian một cách tỉ mỉ và trung thực


+ Thể hiện thái độ phê phán một cách kín đáo


+ Thể hiện thái độ dửng dưng, coi thường vinh hóa phú quý và tấm
lòng y đức của Lê Hữu Trác




</div>

<!--links-->

×