Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

Tự sự và trữ tình trong thuợng kinh kí sự của lê hữu trác

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (309.26 KB, 90 trang )

Lời cảm ơn
Để thực hiện đề tài này tôi đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của giáo
viên hướng dẫn ThS.Thạch Thị Kim Hương, sự góp ý chân thành của các
thầy cô trong tổ văn học Trung đại Việt Nam cùng các thầy cô giáo trong
khoa Ngữ văn trường Đại học Vinh và sự ủng hộ nhiệt tình của gia đình và
bạn bè .
Tơi xin chân thành cảm ơn cô giáo hướng dẫn, các thầy - cô giáo cùng
các bạn đã giúp đỡ tơi hồn thành khóa luận này.
Vinh , tháng 5/2010
SV thực hiện :
Đoàn Thị Hằng


MỤC LỤC
Mở đầu: ......................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài……………………………………………………1
2. Mục đích nghiên cứu………………………………………………..2
3. Lịch sử vấn đề………………………………………………………2
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu…………………………………..4
5. Phương pháp nghiên cứu……………………………………………4
6. Cấu trúc khóa luận ………………………………………………….4

Nội dung: .....................................................................................................5
Chương 1: Những vấn đề chung………………………………………..5
1.1.

Tự sự và trữ tình…………………………………………5

1.2.

Kí và kí sự ………………………………………………6



1.3.

Lê Hữu Trác và tác phẩm Thượng kinh kí sự…………….9

Chương 2: Tự sự trong Thượng kinh kí sự ............................................18
2.1.

Nội dung tự sự…………………………………………....18

2.1.1. Bối cảnh xã hội thời kì Lê – Trịnh……………………….18
2.1.2. Hiện thực trong Thượng kinh kí sự ………………………24
2.2.

Nghệ thuật tự sự …………………………………………38

Chương3 : Trữ tình trong Thượng kinh kí sự ………………………..44
3.1.

Nội dung trữ tình. ……………………………………….44

3.1.1. Thái độ, suy nghĩ của Lê Hữu Trác đối với triều đình Lê –
Trịnh…………………………………………………………...44
3.1.2. Tình cảm của Lê Hữu Trác đối với những vấn đề đời tư 60
3.2.

Nghệ thuật trữ tình…………………………………… ..71

Kết luận……………………………………………………………………77
Tài liệu tham khảo………………………………………………………..78



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
1.1.

Bên cạnh những tác gia lớn mà trong chương trình phổ thơng và cả

trong q trình học tập tại trường đại học, chúng tơi đã nghiên cứu khá sâu
sắc, có những tác giả và sáng tác của họ chưa được nghiên cứu hoặc mới chỉ
nghiên cứu ở một vài khía cạnh nào đó. Một trong những tác giả đó là Lê
Hữu Trác với tác phẩm Thượng kinh kí sự . Tác phẩm này đã được tiếp xúc
trong chương trình Ngữ văn 9 – tập 2 ( chưa cải cách ) hay trong chương
trình Ngữ văn 11 – tập 1 ( đã cải cách ) qua đoạn trích “Vào Trịnh phủ”. Có
thể nói đây là tác phẩm du kí xuất sắc nhất cuối thế kỷ VXIII. Cũng do nhiều
nguyên nhân mà trong quá trình học tập chúng tơi chưa có điều kiện để tìm
hiểu sâu sắc về tác phẩm. Hơn nữa tác giả Lê Hữu Trác là bậc danh y nổi
tiếng, được mệnh danh là ông tổ của ngành y Việt Nam mà không chỉ bản
thân tơi, cịn rất nhiều người kính phục, u mến. Do vậy được tìm hiểu,
nghiên cứu về vị danh y đại tài này cũng như tác phẩm Thượng kinh kí sự
của ông là điều vô cùng hứng thú đối với tơi.
1.2. Đây là vấn đề có ý nghĩa khoa học cao nhưng chưa được tìm hiểu một
cách tồn diện. Mặc dù có những hạn chế và thiếu sót vì những nguyên nhân
chủ quan và khách quan, nhưng đề tài này cũng góp phần thiết thực vào việc
khai thác tác phẩm theo một xu hướng riêng, góp thêm tiếng nói của mình
vào cơng trình nghiên cứu của những người đi trước.
1.3. Đoạn trích “ Vào Trịnh phủ ” đã được đưa vào chương trình Ngữ văn
11 – tập 1 giúp học sinh tiếp xúc, tìm hiều và phần nào có được những kiến
thức cơ bản về giá trị của tác phẩm. Có thể nói đây là đoạn trích thể hiện
linh hồn của tác phẩm, trong đó tác giả gửi gắm sâu sắc tư tưởng, tình cảm

của mình. Bởi vậy cơng trình nghiên cứu này của chúng tơi có thể phục vụ


cho việc nghiên cứu và giảng dạy ở phổ thông, giúp người nghiên cứu đi sâu
hơn các vấn đề nổi bật của tác phẩm, giúp giáo viên và học sinh giảng dạy
và học tập tốt hơn.
2. Mục đích nghiên cứu
Từ việc tìm hiểu, nghiên cứu tác phẩm, đề tài của chúng tôi tập trung giải
quyết các vấn đề cơ bản sau :
- Trình bày một cách trực tiếp, tồn diện, có hệ thống về tính hiện thực
được phản ánh qua tác phẩm mà tác giả ghi nhận được, đồng thời là thái độ,
tình cảm của Lê Hữu Trác trước những điều mắt thấy tai nghe trong chuyến đi
lên kinh thành để chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán.
- Thấy được ý nghĩa và bài học rút ra từ cuộc đời, nhân cách và sự nghiệp
của vị danh y nổi tiếng này.
3. Lịch sử vấn đề
Có thể nói Thượng kinh kí sự là tác phẩm không được nhiều nhà nghiên
cứu quan tâm, khơng phải vì tác phẩm khơng có giá trị; trái lại đây là tác phẩm
du kí đạt thành tựu xuất sắc nhất cuối thế kỷ XVIII. Nó khơng chỉ có giá trị văn
học mà cịn có giá trị lịch sử sâu sắc, ghi chép sự thật, việc thật của lịch sử Việt
Nam những năm cuối thế kỷ XVIII. Tác phẩm chỉ thực sự được quan tâm, chú ý
từ giữa thế kỷ XX trở lại đây. Đặc biệt yếu tố tự sự và trữ tình tuy là hai phương
thức phản ánh chủ đạo trong tác phẩm nhưng vẫn chưa được nghiên cứu, tìm
hiểu một cách tồn diện, có hệ thống.
3.1. Cơng trình nghiên cứu Mấy suy nghĩ về thơ văn Lê Hữu Trác trên tạp chí
văn học số 9/1964, GS Nguyễn Huệ Chi đã đề cập đến “Nỗi lòng hay là sự băn
khoăn thế sự của Lê Hữu Trác trong Thượng kinh kí sự ”. Đây là cơng trình đã
trực tiếp đề cập đến yếu tố tự sự và trữ tình trong tác phẩm nhưng mới chỉ khai



thác trên một vài khía cạnh, phạm vi nhỏ hẹp, chưa bao qt được tồn tác
phẩm; do đó tính hệ thống chưa cao.
Trong bài nghiên cứu Lê Hữu Trác và con đường của một trí thức trong cơn
phong ba nửa cuối thế kỷ XVIII trên tạp chí văn học số 6/1970 của GS Nguyễn
Huệ Chi cũng đã đề cập đến yếu tố hiện thực thời kỳ vua Lê – chúa Trịnh với
những biến động dữ dội, gay gắt, đồng thời cũng thể hiện khá chi tiết đến thân
thế và sự nghiệp của Lê Hữu Trác. Việc định vị những tác giả như Lê Hữu Trác
và nhiều tác gia khác thể hiện như là những nhân cách lịch sử tiêu biểu cho từng
giai đoạn, vừa bộc lộ bản lĩnh sáng tạo riêng của nhà văn vừa phản ánh những
đặc điểm chung của đời sống xã hội đương thời.
Bên cạnh những bài cơng trình nêu trên, cịn có thể nhắc tới những bài viết ít
nhiều đề cập đến giá trị nghệ thuật làm nổi bật rõ chất tự sự và trữ tình trong tác
phẩm như bài nghiên cứu về thể truyện kí dài với tác phẩm Thượng kinh kí sự
của Phạm Thế Ngũ trong cuốn Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (Nhà
xuất bản Đồng Tháp,1996) …Có thể nói, những vấn đề trọng yếu của việc
nghiên cứu yếu tố tự sự và trữ tình trong tác phẩm đã được một số nhà nghiên
cứu đề cập tới. Chính vì vậy, những phần nghiên cứu này trở thành một tài liệu
hết sức quan trọng với chúng tôi. Tuy nhiên những bài viết, cơng trình nghiên
cứu đó mới chỉ đề cập đến yếu tố tự sự và trữ tình của tác phẩm trên một vài nét
sơ lược, hoặc mới chỉ được bàn tới một cách rải rác, lướt qua chứ chưa có một
cái nhìn tổng qt, sâu rộng.
3.2. Như vậy có thể nói, tất cả những cơng trình nghiên cứu hay bài viết nêu
trên dù trực tiếp hay gián tiếp, cụ thể hay khái quát những khía cạnh khác nhau
của cảm thức thế sự trong Thượng kinh kí sự của Lê Hữu Trác đều gợi cho
chúng tôi những suy nghĩ quý báu, là chìa khóa để chúng tơi thực hiện khóa
luận của mình được tốt hơn.


3.3. Tự sự và trữ tình trong tác phẩm Thượng kinh kí sự của Lê Hữu Trác nhìn
chung cịn là vấn đề mới mẻ, chưa có một cơng trình nghiên cứu nào đề cập một

cách hệ thống và khoa học. Nhiều biểu hiện của yếu tố tự sự và trữ tình trong
Thượng kinh kí sự của Lê Hữu Trác chưa được đề cập tới hoặc chưa được giải
quyết thỏa đáng.
Khóa luận của chúng tơi sẽ tập trung tìm hiểu, nghiên cứu về yếu tố tự sự
và trữ tình trong tác phẩm như một vấn đề chuyên biệt để đưa ra cách đánh giá,
kiến giải, hệ thống về chất tự sự và trữ tình trong tác phẩm với các biểu hiện cụ
thể, sâu sắc, khoa học trên cả phương diện nội dung, thể loại, giọng điệu và
nghệ thuật sử dụng ngôn từ.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
4.1 Đối tượng :
Tập truyện kí Thượng kinh kí sự của Lê Hữu Trác do Phan Võ dịch, Bùi
Kỷ duyệt lại, Nhà xuất bản Thông tin, 1989 .
4.2. Phạm vi :
Trong luận văn này chúng tơi chỉ tập trung nghiên cứu, tìm hiểu về yếu tố
tự sự và trữ tình trong tác phẩm.
5. Phương pháp nghiên cứu :
Trong đề tài này chúng tôi kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khác
nhau như: phương pháp so sánh, đối chiếu, tích hợp với những tác phẩm cùng
thể loại hay cùng thời kỳ, phương pháp phân tích, đánh giá, hệ thống để tìm ra
bản chất của vấn đề cần nghiên cứu.
6. Cấu trúc khóa luận :
Đề tài của chúng tôi bao gồm ba phần : mở đầu, nội dung và kết luận.
Phần nội dung được trình bày bởi 3 chương :
Chương 1 : Những vấn đề chung.
Chương 2 : Tự sự trong Thượng kinh kí sự.


Chương 3 : Trữ tình trong Thượng kinh kí sự.
Ngồi ra, luận văn cịn có phần tài liệu tham khảo.



NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Tự sự và trữ tình
1.1.1

Khái niệm tự sự
Khi bàn về tự sự, từ trước đến nay đã có nhiều nhà nghiên cứu đưa ra

định nghĩa:
- Theo Từ điển thuật ngữ Văn học, (Lê Bá Hán ( chủ biên ), nhà xuất
bản Giáo dục , 2004), thì tự sự là phương thức tái hiện đời sống, bên cạnh
hai phương thức khác là “trữ tình” và “kịch” được dùng làm cơ sở để phân
loại tác phẩm văn học ( tr.385 ).
- Theo Giáo trình Lí luận văn học, (Lê Tiến Dũng, nhà xuất bản Đại
học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, 2003); khái niệm tự sự được hiểu
theo hai nghĩa: thứ nhất, tự sự là một trong ba phương thức miêu tả trong
văn học; thứ hai, tự sự là một loại văn học bên cạnh các loại trữ tình và
kịch.
Với nghĩa thứ nhất, khái niệm tự sự dùng để chỉ phương thức miêu tả
của văn học, mà ở đó thiên về miêu tả sự kiện, kể chuyện. Phương thức này
chủ yếu được dùng trong tác phẩm tự sự như tiểu thuyết, truyện vừa, truyện
ngắn, truyện thơ, kí sự, phóng sự . ..
Trong nhiều tác phẩm trữ tình cũng có thể có những yếu tố tự sự xen
vào .
Với nghĩa thứ hai, khái niệm tự sự chỉ một loại tác phẩm văn học mà
ở những loại tác phẩm văn học này chủ yếu dùng phương thức tự sự để miêu
tả. Các tác phẩm loại này được gọi là tác phẩm tự sự .



Như vậy theo cả hai cách hiểu trên thì tự sự chính là phương thức tái
hiện đời sống, một phương thức phản ánh hiện thực quan trọng nhất của tác
phẩm tự sự. Các thể loại văn học như truyện ngắn, tiểu thuyết, kí sự, phóng
sự, truyện thơ . . . đều dùng phương thức này để miêu tả cuộc sống . . .
1.1.2

Khái niệm trữ tình
Theo Giáo trình lí luận văn học , Lê Tiến Dũng định nghĩa : “Khái

niệm trữ tình được hiểu theo hai nghĩa : thứ nhất, trữ tình là một trong ba
phương thức miêu tả trong văn học; thứ hai, trữ tình là một loại văn học bên
cạnh các loại tự sự và kịch” .
Ở nghĩa thứ nhất, khái niệm trữ tình để chỉ phương thức miêu tả của
văn học, đó là phương thức thiên về diễn tả, bộc lộ cảm xúc. Nguyên nghĩa
từ Hán Việt “trữ tình” cũng có ý nghĩa như vậy : “trữ” là thổ lộ , “tình” là
tình cảm , cảm xúc. Phương thức này chủ yếu được dùng trong các tác phẩm
trữ tình như thơ trữ tình, kí trữ tình … Một số đoạn trong tác phẩm tự sự hay
kịch cũng có thể sử dụng phương thức này. Do đó đơi khi người ta dùng
cách nói như “chất trữ tình” , “tính trữ tình” để diễn tả đặc điểm này.
Tùy bút, bút kí là những thể loại của kí cũng thể hiện rất rõ tính chất
này. Kí sự tuy là thể loại tác phẩm tự sự nhưng yếu tố trữ tình cũng khá đậm
nét. Đặc biệt trong Thượng kinh kí sự của Lê Hữu Trác, yếu tố trữ tình đã kết
hợp chặt chẽ với yếu tố tự sự làm thành sức hấp dẫn của tác phẩm này.
Trong Giáo trình Lí luận văn học của Lê Tiến Dũng đã nhận xét : “Ở
Thượng kinh kí sự, Lê Hữu Trác đã kể lại một cách tường tận chuyến lên
kinh chữa bệnh cho triều đình do chính mình tham gia chứng kiến. Ở đây tác
giả đã miêu tả chính xác những việc thật , người thật của sinh hoạt cung đình
tạo nên những trang kí sự đặc sắc và hấp dẫn”. ( Tính chất này chúng tơi sẽ
tìm hiểu rõ hơn trong thể kí ở phần sau của luận văn ).



1.2

Kí và kí sự

1.2.1

Khái niệm và đặc điểm của thể kí
- Theo Từ điển thuật ngữ văn học, kí là “một loại hình văn học trung

gian, nằm giữa báo chí và văn học, gồm nhiều thể, chủ yếu là văn xi tự sự
như bút kí, hồi kí, du kí, phóng sự, kí sự, nhật kí, tùy bút …”.
- Theo Giáo trình lí luận văn học – phần tác phẩm văn học của Lê Tiến
Dũng có định nghĩa : “kí là một thể loại văn học dùng để ghi lại sự việc, cảm
xúc ý nghĩ, thái độ của người viết”.
Theo định nghĩa này chúng ta có thể thấy đặc điểm nổi bật của kí là ghi
chép sự việc và thể hiện cảm xúc, ý nghĩ, thái độ của người viết. Như vậy
“tính xác thực là đặc trưng quan trọng nhất và có tính ngun tắc của kí”. Kí
tái hiện những con người thật, những sự việc thật trong đời sống. Nói như
B.Polevoi : “kí có địa chỉ chính xác của nó”. Sự hấp dẫn của kí là ở việc
thơng tin một cách nghệ thuật những sự kiện có thật. Tìm đọc kí, người đọc
khơng chỉ tìm đến sự thật của bản chất mà là sự thật của hiện tượng. Về mặt
nào đó kí có giá trị của những tư liệu lịch sử quý giá mà nhà văn được chứng
kiến hoặc nghe kể lại, ghi chép lại đưa đến cho người đọc những sự kiện,
hiện tượng có thật. Do đó tính hư cấu ở thể kí rất hạn chế. Đây là điểm khác
so với truyện và tiểu thuyết. Nhưng cũng chính đặc điểm này làm cho tác
phẩm kí trở nên khơ khan, ít có giá trị nghệ thuật. Cũng bởi vậy, ở thể kí, tác
giả thường gửi gắm những tình cảm, thái độ của mình về hiện thực đó.
Chính tình cảm, cảm xúc của tác giả đã làm nên linh hồn cho tác phẩm. Phần

cảm xúc, ý nghĩ của tác giả có một vai trò quan trọng.
So với nhiều thể loại văn học khác, kí là một thể loại nhanh nhạy, linh
hoạt, kịp thời, do đó nó mang tính chiến đấu và tính thời sự cao.
Kí khơng nhằm vào việc miêu tả q trình hình thành tính cách của các
cá nhân trong tương quan với hoàn cảnh. Đối tượng nhận thức thẩm mĩ của


kí thường là một trạng thái đạo đức – phong hóa xã hội (thể hiện qua những
cá nhân riêng lẻ ), một trạng thái tồn tại của con người hoặc những vấn đề xã
hội nóng bỏng.
Người ta có thể chia kí ra thành các thể loại chủ yếu như kí tự sự, kí trữ
tình, kí chính luận. Kí tự sự nghiêng về miêu tả sự kiện và con người trong
đời sống một cách khách quan như phóng sự, kí sự, truyện kí, biến cố của
đời sống, xã hội, con người. Kí trữ tình có các thể tùy bút, bút kí, một số
dạng của nhật kí... Kí chính luận kết hợp giữa tư duy hình tượng và tư duy
chính luận … Tuy đa dạng như vậy nhưng về cơ bản người ta vẫn xếp kí vào
loại tự sự. Có người xem “kí là một biến thể của loại tự sự ” (Gulaiev – Lí
luận văn học – Sđd, tr. 263 ).
Trong cơng trình nghiên cứu về Thể loại văn học Việt Nam trung đại,
TS Phạm Tuấn Vũ cũng xếp “kí là một bộ phận của văn xuôi. Trong văn học
trung đại Việt Nam, tên gọi của thể kí khơng thuần nhất nên căn cứ vào nội
dung để xác định tác phẩm ấy có thuộc thể loại này hay khơng”.Bởi vậy
khơng nên căn cứ vào cách gọi của nhà văn đối với tác phẩm để xác định thể
loại của tác phẩm ấy. Chẳng hạn “Tây sương kí” của Vương Thực Phủ thực
ra là một vở kịch, “Tây du kí” của Ngơ Thừa Ân là tiểu thuyết, “Nhật kí
người điên” của Lỗ Tấn là truyện ngắn.
Kí ra đời rất sớm trong lịch sử văn học của nhân loại. Nhưng phải đến
thế kỷ VXIII, đặc biệt từ thế kỷ XIX mới thực sự phát triển mạnh mẽ. Có thể
kể đến Thượng kinh kí sự của Lê Hữu Trác, Bắc hành trùng kí của Lê
Quýnh, Tang thương ngẫu lục của Phạm Đình Hổ và Nguyên Án, Vũ trung

tùy bút của Phạm Đình Hổ …
Theo TS Phạm Tuấn Vũ, “Lịch sử thể kí phản ánh lịch sử của văn học
trung đại Việt Nam” và “những thành tựu lớn của thể loại này đạt được cũng
nằm trong thời kì hồng kim của văn học trung đại dân tộc”. Do đó giai đoạn


văn học cuối thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ XIX là giai đoạn thể kí phát triển rực
rỡ nhất.
1.2.2

Khái niệm kí sự
Trong Từ điển thuật ngữ văn học ( NXB Giáo dục, 2004), nhóm tác giả

Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi định nghĩa : “Kí sự là một thể
thuộc loại hình kí nhằm ghi chép lại một câu chuyện, một sự kiện tương đối
hồn chỉnh”.
Kí sự có quy mơ tương ứng với truyện ngắn và truyện vừa
Kí sự có những đặc điểm chung với bút kí như viết về người thật, việc
thật mà tác giả trực tiếp chứng kiến; cốt truyện không chặt chẽ như trong
truyện; sử dụng nhiều biện pháp và phương tiện biểu đạt nghệ thuật…
Song ở kí sự, phần bộc lộ cảm nghĩ của tác giả và những yếu tố liên tưởng,
nghị luận thường ít hơn ở bút kí, tùy bút.
Có thể nói trong các thể loại của kí thì kí sự gần với truyện hơn cả.
Kí sự Cao Lạng của Nguyễn Huy Tưởng, Thượng kinh kí sự của Lê Hữu
Trác là những kí sự tiêu biểu.
Giáo trình Lí luận văn học của Lê Tiến Dũng định nghĩa : “Kí sự là
một thể kí tự sự, chủ yếu dùng để ghi chép một sự việc, một sự kiện hay một
câu chuyện tương đối hồn chỉnh”.
Kí nặng về ghi chép, có thể ghi một cách tỉ mỉ nhưng cũng có thể ghi
những nét lớn. Ở kí sự tác giả ít bàn luận trực tiếp mà chủ yếu để cho sự việc

tự toát lên tư tưởng cần thể hiện.
Thượng kinh kí sự của Lê Hữu Trác, Kí sự Cao Lạng của Nguyễn Huy
Tưởng, Họ đã sống và chiến đấu của Nguyễn Khải, Kí sự miền đất lửa của
Nguyễn Sinh và Vũ Kì Lân là những kí sự thành cơng, có giá trị.


Theo cách phân chia của Lê Tiến Dũng thì thể kí có thể chia ra các thể
loại khác như kí sự, phóng sự, truyện kí nhưng đều thống nhất ở đặc điểm
của thể kí đó là tính xác thực, tính chiến đấu và tính thời sự cao.
Cách định nghĩa trong Từ điển thuật ngữ văn học, đặc điểm của thể loại
này đó là bộc lộ cảm nghĩ của tác giả và những yếu tố liên tưởng, nghị luận
thường ít hơn bút kí, tùy bút. Do đó trong kí sự, yếu tố tự sự và trữ tình có ý
nghĩa quan trọng.
1.3.

Lê Hữu Trác và tác phẩm Thượng kinh kí sự

1.3.1. Tác giả Lê Hữu Trác
Đại danh y Lê Hữu Trác (1720-1791) cịn có tên khác là Lê Hữu Hn,
Hiệu là Hải Thượng Lãn Ông - tức “Ông già lười Hải Thượng”. Hai chữ
“Hải Thượng”, theo nhiều tài liệu có ghi đó là hai chữ ghép đầu của quê cha
và quê mẹ mà thành.
1.3.1.1

Thân thế và chí hướng lập thân

Lê Hữu Trác sinh ngày 12 tháng 11 năm Canh Tý (1720) tại thôn Văn
Xá, làng Liêu Xá, phủ Thượng Hồng, tỉnh Hải Dương (nay là xã Liêu Xá,
Yên Mỹ, Hưng Yên). Tuy nhiên, cuộc đời ông phần nhiều (từ năm 26 tuổi
đến lúc mất) gắn bó với q mẹ ở thơn Bầu Thượng, xã Tình Diệm, Hương

Sơn, phủ Đức Quang, trấn Nghệ An (nay là xã Sơn Quang, huyện Hương
Sơn, Hà Tĩnh). Ông là con ông Lê Hữu Mưu và bà Bùi Thị Thường. Là con
thứ bảy nên ông được gọi là cậu Chiêu Bảy.
Dịng tộc ơng vốn có truyền thống khoa bảng ; ông nội, bác, chú (Lê
Hữu Kiều ), anh và em họ đều đỗ Tiến sĩ và làm quan to dưới triều Lê –
Trịnh. Thân sinh của ông từng đỗ Đệ tam giáp tiến sĩ, làm Thị lang bộ công
triều Lê Dụ Tông, được gia phong chức ngự sử, tước bá, khi mất được truy
tặng hàm thượng thư (năm Kỷ Mùi 1739). Khi ấy Lê Hữu Trác mới hai


mươi tuổi. Ông phải rời kinh thành về quê nhà, vừa trơng nom gia đình vừa
chăm chỉ đèn sách, mong nối nghiệp gia đình, lấy đường khoa cử để tiến
thân.
Nhưng xã hội rối ren, các phong trào nông dân nổi dậy khắp nơi. Chỉ
một năm sau (1740), ông bắt đầu nghiên cứu binh thư võ nghệ, “nghiên cứu
trong vài năm cũng biết được đại khái, mới đeo gươm tòng quân để thí
nghiệm sức học của mình” (Tựa Tâm lĩnh).
Chẳng bao lâu sau, ông nhận ra xã hội thối nát, chiến tranh chỉ tàn phá
và mang bao đau thương làm ông chán nản muốn ra khỏi quân đội, nên đã
nhiều lần từ chối sự đề bạt. Đến năm 1746, nhân khi người anh ở Hương
Sơn mất, ông liền viện cớ về nuôi mẹ già, cháu nhỏ thay anh, để xin ra khỏi
quân đội, thực sự “bẻ tên cởi giáp” theo đuổi chí hướng mới.
1.3.1.2. Theo đuổi nghề thuốc
Lê Hữu Trác bị bệnh từ trong quân đội, giải ngũ về phải gánh vác
cơng việc vất vả “trăm việc đổ dồn vào mình, sức ngày một yếu” (Lời tựa
Tâm lĩnh), lại sớm khuya đèn sách không chịu nghỉ ngơi, ông mắc cảm nặng
, chạy chữa tới hai năm không khỏi. Sau nhờ lương y Trần Độc, người Nghệ
An là bậc lão nho, học rộng biết nhiều nhưng thi không đỗ, trở về học thuốc,
nhiệt tình chữa khỏi.
Trong thời gian hơn một năm chữa bệnh, nhân khi rảnh rỗi ông thường

đọc Phùng thị cẩm nang và hiểu được chỗ sâu xa của sách thuốc, ông được
Trần Độc truyền y thuật. Nhận ra nghề y khơng chỉ có lợi ích cho mình mà
có thể giúp người, giúp đời, nên quyết chí học thuốc, lấy hiệu là “Hải
Thượng Lãn Ông”, ngụ ý lười biếng, chán ghét cơng danh, tự giải phóng
mình khỏi sự ràng buộc của danh lợi, của quyền thế, tự do nghiên cứu y học,
thực hiện chí hướng mà mình u thích, gắn bó.


Mùa thu năm 1754 (Bính Tý), Lê Hữu Trác ra kinh đơ, mong tìm
thầy để học thêm vì ơng thấy y lý mênh mông nhưng không gặp được thầy
giỏi, ông đành bỏ tiền mua một số phương thuốc gia truyền, trở về Hương
Sơn “khước từ sự giao du, đóng cửa để đọc sách” (Tựa Tâm lĩnh), vừa học
tập vừa chữa bệnh. Mười năm sau tiếng tăm của ông đã nổi khắp vùng Hoan
Châu. Sau hơn chục năm viết nên bộ Y tông tâm lĩnh gồm 28 tập, 66 quyển
bao gồm đủ các mặt y học : y đức, y lý, y thuật, dược, di dưỡng. Phần quan
trọng nữa của bộ sách phản ánh sự nghiệp văn học và tư tưởng của Hải
Thượng Lãn Ông. Cống hiến vĩ đại nhất của Lê Hữu Trác đối với lịch sử
phát triển của nền y học dân tộc cả về mặt lý luận và thực tiễn là bộ sách nổi
tiếng : Hải Thượng y tơng tâm lĩnh này.
Đây là một cơng trình kế thừa đầy sáng tạo những thành tựu y học của
nhiều thế hệ y gia trong và ngoài nước, đã được Lãn Ông thể ngiệm và biên
soạn công phu trong suốt 40 năm.
Hải Thượng y tông tâm lĩnh là một bộ sách lớn bàn về y – dược học
một sách toàn diện, từ đạo đức của người thầy thuốc đến phòng bệnh chữa
bệnh, từ lý luận đến thực hành, từ y đến dược, đầy đủ các bệnh lý nội - ngoại
khoa, phụ sản khoa, đậu, sởi… phương pháp dưỡng sinh và vệ sinh phịng
bệnh…
Trong cơng trình đồ sộ này, Hải Thượng Lãn Ông đã dành một phần
tư khối lượng tác phẩm của mình (7 trong số 28 tập) để biên soạn giới thiệu
4.000 phương thuốc tích lũy trong kho tàng kinh ngiệm của nhân dân. Trong

đó hai tập Dược phẩm vận yếu và Lĩnh Nam bản thảo chuyên về các vị thuốc
và năm tập Tâm đắc thần phương, Hiệu phỏng tân phương, Y phương hải
hội, Bách gia trân tàng và Hành giản trân nhu chuyên về đơn thuốc.
Có thể nói rằng : “Hải Thượng Lãn Ông là người đầu tiên biên soạn
một số sách thuốc rất hoàn diện, nhất là phần bào chế, sao phẩm, trước đây


chưa từng thấy ở nước ta…” (Đỗ Tất Lợi, Những vị thuốc và đơn thuốc
trong tác phẩm của Hải Thượng Lãn Ơng, Tạp chí Đơng y – số 110 – 111)
Trên cơ sở kết hợp những tinh y khoa học truyền thống với những
kinh nghiệm dân gian và kinh nghiệm thực tiễn của bản thân, Hải Thượng
Lãn Ông đã xây dựng thành một hệ thống lý pháp phương dược của nền y
học dân tộc thích hợp với con người, khí hậu và môi trường Việt Nam.
Hải Thượng y tông tâm lĩnh từ lâu đã được y giới Việt Nam xem là bộ
bách khoa toàn thư về y học thế kỷ XVIII và cũng là bộ sách y học lớn nhất
của nền Đông y Việt Nam.
Các nhà khoa học hiện đại đã hết lời ca ngợi cơng trình giá trị này:
“Những trước tác đồ sộ của Lê Hữu Trác để lại, qua nhiều đời đã
được nhiều ngự y thuộc các y viện dưới mấy triều Lê, Tây Sơn, Nguyễn và
cả “chính phủ Nam Triều” thuộc Pháp, xem là “cẩm nang”. Một số nhà y
học thực nghiệm phương Tây, một số bác sĩ người Việt trước kia và bây giờ
cũng tìm thấy ở những trước tác đó “những kiến thức uyên bác” và một
“phương pháp lập luận đặc sắc” mà ở “các nhà bác học Châu Âu cũng khơng
mong đợi có hơn được” (Nguyễn Huệ Chi – Lê Hữu Trác và con đường của
một trí thức, trong cơn phong ba nửa cuối thế kỷ XVIII, - Dẫn theo Mấy vẻ
mặt thi ca thời kỳ cổ - cận đại, Nxb Tác phẩm mới, 1983, tr.93).
1.3.1.3. Sự nghiệp cuối đời
Ngày 12/1/1782, ông nhận được lệnh chúa triệu về kinh. Lúc này ông
đã 62 tuổi. Ra kinh, ông vào phủ chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán, được giao
du với các công hầu khanh tướng, trở về thăm quê nhà, gặp lại người tình cũ

… rồi cũng sớm thốt khỏi vịng cương tỏa của quyền thần, danh lợi. Ngày
2/11/1782 Lãn Ông về đến Hương Sơn.
Mặc dầu tuổi già, công việc lại nhiều; chữa bệnh, dạy học nhưng Lãn
Ơng vẫn tiếp tục chỉnh lí, bổ sung, viết thêm (tập Văn khí bí điển, năm 1786)


để hồn thành bộ Tâm lĩnh. Hải Thượng Lãn Ơng khơng chỉ là danh y có
cống hiến to lớn cho nền y học dân tộc mà ơng cịn là một nhà văn, nhà thơ,
nhà tư tưởng lớn của thời đại.
Ông qua đời vào ngày rằm tháng giêng năm Tân Hợi (1791) tại Bầu
Thượng – Hà Tĩnh, thọ 71 tuổi. Mộ ông nay còn nằm ở khe nước cạn tại
chân núi Minh Từ thuộc xã Sơn Trung – Hương Sơn.
Lê Hữu Trác là đại danh y có đóng góp lớn cho nền y học dân tộc Việt
Nam, kế thừa xuất sắc sự nghiệp “Nam dược trị Nam nhân” của Tuệ Tĩnh
thiền sư. Ông để lại nhiều tác phẩm lớn như Hải Thượng y tông tâm lĩnh
chắt lọc tinh hoa của y học cổ truyền, được đánh giá là cơng trình y học xuất
sắc nhất thời trung đại Việt Nam và các cuốn Lĩnh Nam bản thảo, Thượng
kinh kí sự khơng chỉ có giá trị về y học mà cịn có giá trị văn học, lịch sử,
triết học…
1.3.1.4. Tấm lòng và nhân cách của danh y Lê Hữu Trác
Hải Thượng Lãn Ông, người thầy thuốc vĩ đại và nhà giáo huấn nhân
tâm học nổi tiếng của dân tộc còn để lại cho đời một tấm gương sống cao
đẹp và những lời di huấn bất hủ về đạo đức, lương tâm, trách nhiệm và
phương châm hành động của người thầy thuốc mà ngày nay mỗi lần đọc lại
ta thấy vẫn cịn nóng hổi tính thời sự và giá trị nhân bản đích thực của nó.
Sinh thời Hải Thượng Lãn Ơng thường dạy mơn đệ của mình rằng:
“Đạo làm thuốc là nhân thuật, chuyên bảo vệ sinh mạng của con
người, phải lo cái lo của người, vui cái vui của người, lấy việc cứu sống
mạng người làm nhiệm vụ thiêng liêng của mình, khơng nên cầu lợi kể
công… thầy thuốc là nghề thanh cao phải giữ đức cho trong, giữ lòng cho

sạch, làm ơn không mong đền đáp, thấy lợi đừng nhúng tay vào… Phải cẩn
thận giữ gìn phẩm chất của mình, đừng để bị người đời khinh rẻ” (Y huấn


cách ngơn). Lãn Ơng rất phẫn nộ trước những kẻ “đem nhân thuật làm
chước dối lừa, đem lòng nhân làm chuyện mua bán”…
Trọn đời mình Hải Thượng Lãn Ơng khơng hề quản ngại mọi khó
khăn, cực nhọc trước những nỗi đau khổ của con người. Ở đâu bệnh nhân
cần, dù xa xôi cách trở đến mấy, ông cũng lận lội tìm đến cứu giúp. Nơi nào
bệnh nhân gặp khốn khó, túng thiếu ơng lại càng hết lịng giúp đỡ, chăm sóc.
Đối với những bệnh nhân nghèo khổ khơng nơi nương tựa, ông thường lấy
tiền của riêng để chu cấp, chữa trị, ni dưỡng và từ chối mọi khoản bồi
hồn.
Với tấm lòng thương yêu bệnh nhân như mẹ hiền thương con, Lãn
Ơng thường căn dặn học trị: “Được mời đi thăm bệnh, nên tùy bệnh để sắp
xếp đi thăm trước hay sau. Chớ nên vì giàu sang ngèo hèn mà nơi tới trước
chỗ tới sau, hoặc khi bốc thuốc lại phân biệt hơn kém. Khi lịng mình có chỗ
khơng thành thật thì khó mong được bệnh nhân thơng cảm và sẽ kém phần
hiệu quả” (Y huấn cách ngơn).
Khi thấy học trị mình có người ngại vì phải thăm và khám bệnh cho
những bệnh nhân bần cùng lam lũ, ông thường tỏ ý khơng hài lịng và ân cần
khun nhủ: “Đã làm nghề thuốc thì khơng được ngại khó, ngại khổ, khơng
được coi khinh người bệnh”.
Lời nói của Hải Thượng Lãn Ơng ln ln đi đơi với việc làm. Học
trị của ơng khơng chỉ nghe lời thầy dạy mà cịn phấn đấu học tập, làm theo
những việc mà thầy đã làm.
Ở bệnh án thứ 8 trong tập Y dương án (1 trong 28 tập của bộ Y tơng
tâm lĩnh), Lãn Ơng kể rằng:
Có một gia đình thuyền chài tên là Thuộc có cháu gái 13 tuổi bị bệnh
đậu mùa rất nặng. Nhà q nghèo nên khơng có điều kiện mời thầy và cũng



khơng có đủ tiền để mua thuốc chữa trị cho con. Khi hay tin, Lãn Ông đã vội
vã đến thăm và khám bệnh, giúp đỡ thuốc men rất chu đáo.
Giữa mùa hè nóng bức, cháu bé ốm nằm trong chiếc thuyền nan nhỏ
hẹp, người đầy mụn mủ. Mỗi lần ông xuống thăm bệnh đều phải cởi bỏ hết
để ở trên bờ, mũi phải nút bơng và nín hơi khơng dám thở nhiều vì mùi hơi
tanh bốc lên nồng nặc khơng thể nào chịu nổi. Khi khám bệnh xong đầu óc
ơng chống váng, mồ hơi đổ ra như tắm.
Nhưng Lãn Ơng vẫn khơng ngại khổ, ơng đã tận tình chăm sóc, chữa
trị cháu bé suốt một tháng trời liên tục mới khỏi bệnh. Khi chia tay với gia
đình bệnh nhân, chẳng những ông không nhận tiền thù lao – kể cả tiền thuốc
– mà còn giúp đỡ thêm gạo, củi, dầu đèn.
Thật đúng là tấm lòng lương y như từ mẫu!
Hải Thượng Lãn Ơng là một ngơi sao sáng trên bầu trời văn hóa Việt
Nam. Ơng khơng chỉ là đại danh y lỗi lạc mà còn là một nhà tư tưởng lớn,
nhà thơ, nhà văn xuất sắc trên văn đàn Việt Nam thế kỷ XVIII. Bộ Y tơng
tâm lĩnh – ngồi giá trị khoa học rất đáng kể, khơng riêng gì những phần văn
thơ trong đó mà ngay cả những phần tác giả ghi chép khoa học thuần túy vẫn
có sức rung cảm đối với người đọc như những tác phẩm văn chương.
Thơ văn Hải Thượng Lãn Ông mang tinh thần nhân đạo cao cả của
một nhà hiền triết phương Đông vốn xem thường phú quý, ghét hư danh:
Công danh trước mắt trơi như nước
Nhân nghĩa trong lịng chẳng đổi phương
Đã vượt lên trên nhưng danh lợi tầm thường mà người đời lắm kẻ đua
chen:
Bái biệt long lâu cửu bệ hàn
Mang huề cầm kiếm xuất đô quan
(Bái biệt lầu rồng kinh nguyệt lạnh



Gươm đàn vội vã bước chân ra).
Để trở về hành đạo cứu đời với tâm hồn của người thầy thuốc – nghệ sĩ:
Thời hứa sơn nhân lai vấn được
Dạ huề hải nguyệt cộng minh cầm.
(Ngày ngày xem bệnh vừa xong
Đêm đêm tựa bóng trăng trong gẩy đàn)
Và chẳng bao giờ mưu chính một điều gì cho riêng mình:
Thiện tâm cốt ở cứu người
Sơ tâm nào có mưu cầu chi đâu
Biết vui nghèo cũng hơn giàu
Làm ơn nào phải mong cầu trả ơn !
Cuộc đời hoạt động y học không mệt mỏi với tấm lịng nhân ái của
Hải Thượng Lãn Ơng đối với bệnh nhân là một tấm gương sáng ngời về tinh
thần trách nhiệm và đạo đức cao thượng của người thầy thuốc chân chính,
mãi mãi xứng đáng cho các thế hệ thầy thuốc Việt Nam noi theo.
1.3.2

Tác phẩm Thượng kinh kí sự
Năm 1783, Lê Hữu Trác viết xong tập Thượng kinh kí sự bằng chữ

Hán – một tác phẩm văn học vô cùng quý giá, miêu tả quang cảnh ở kinh đô,
cuộc sống xa hoa trong phủ chúa Trịnh và quyền uy, thế lực của nhà Chúa.
Ông đã ghi lại những điều mắt thấy tai nghe trong chuyến đi từ Hương Sơn
ra Thăng Long chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán và chúa Trịnh Sâm.
Tác phẩm được ông xếp vào cuối bộ (quyển 65) Hải Thượng y tông
tâm lĩnh (Những lĩnh hội tâm huyết về ngành y của Hải Thượng), như một
phụ lục và được khắc in năm 1885. Đây là tác phẩm tiêu biểu nhất ở thế kỷ
XVIII thuộc loại hình kí (ghi việc, kể chuyện).




×