Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP TỈNH NGHỆ AN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (549.54 KB, 36 trang )

THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP TỈNH
NGHỆ AN
I.NHỮNG ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, KINH TẾ- XÃ HỘI TỈNH NGHỆ AN
1.Vị trí địa lý
Tỉnh Nghệ An nằm ở vị trí trung tâm vùng Bắc Trung Bộ, trên tuyến giao
lưu kinh tế- xã hội bắc nam, phía tây giáp CHDNND Lào, phía nam giáp tỉnh Hà
Tĩnh, phía bắc giáp tỉnh Thanh Hoá, phía đông giáp biển Đông. Có toạ độ địa lý
18
0
33'- 20
0
01' vĩ độ Bắc, 103
0
52'-105
0
48' kinh độ Đông. Chiều dài lớn nhất từ
Bắc vào Nam khoảng 132 km, chiều rộng lớn nhất từ đông sang tây khoảng 200
km.
Nghệ An có diện tích tự nhiên 16.487 km
2
, dân số tính đến năm 2005 là
3.506.000 người. Về diện tích và dân số đứng thứ 3 trong cả nước. Có các vùng
ven biển, đồng bằng, trung du, miền núi thấp, miền núi cao là điều kiện thuận lợi
phát triển nông nghiệp toàn diện.
Nghệ An có mạng lưới giao thông đường bộ, đường sắt, đường thuỷ,
đường không tiện lợi và quan trọng, tạo thế mạnh trong giao lưu, phát triển kinh
tế- văn hoá- xã hội của tỉnh.
Phía đông có bờ biển dài 82 km và 6 cửa sông là một thuận lợi để xây
dựng và phát triển kinh tế biển và kinh tế đối ngoại trong giai đoạn mới
Phía tây giáp nước CHDCND Lào, với đường biên giới 419 km. Hai nước
đã có lịch sử đoàn kết và hữu nghị lâu đời, là điều kiện thuận lợi để mở rộng hợp


tác quốc tế và khai thác tiềm năng phát triển của nước bạn Lào.
Các dòng sông hẹp và dốc chẳng những không thuận lợi cho phát triển
vân tải thuỷ mà còn hạn chế khả năng điều hoà nguồn nước mặt trong mùa phục
vụ cho sản xuất nông -lâm nghiệp. Vùng đồng bằng có diện tích nhỏ, xen kẽ đồi
núi hạn chế việc mở rộng diện tích canh tác nông nghiệp.
Về khí hậu, nằm trong vùng có nhiều đặc thù phân dị rõ rệt trên toàn lãnh
thổ và theo các mùa, tạo điều kiện cho nhiều loại cây trồng phát triển, song khí
hậu có phần khắc nghiệt, đặc biệt là lũ lụt, bão và gió tây nam.
Nghệ An có 19 huyện, thành phố, thị xã. Huyện có diện tích lớn nhất là
Tương Dương 306.000 ha. Thành phố Vinh là trung tâm chính trị, kinh tế, văn
hoá của tỉnh, ở vị trí trung độ giữa hai thành phố lớn là Thủ đô Hà Nội và thành
phố Huế. Thị xã Cửa lò cách Vinh 25 km là đô thị du lịch và kinh tế biển.
Tài nguyên thiên nhiên: Nghệ An là một trong những tỉnh có nguồn tài
nguyên phong phú nhất nước ta: có rừng, có biển và những mỏ khoáng sản có
chất lượng cao và quý hiếm. Tuy nhiên, có thể nói tài nguyên đất ở đây là một
trong những lý do tạo cho vùng đất này có một nét đặc trưng là một tỉnh nông
nghiệp thuần tuý
Theo số liệu tổng kiểm kê quỹ đất năm 2004, đã được UBND tỉnh phê
duyệt, ta có:
BIỂU 1.1: HIỆN TRẠNG SỬ DỤNG ĐẤT TỈNH NGHỆ AN NĂM
2004
Loại đất
Diện tích
(ha)
Tỷ lệ
(%)
Tổng diện tích tự nhiên 1.648.729 100
1.Đất nông nghiệp 195.944,4 11,80
-Đất cây hàng năm 142.333,5
+Đất lúa 98.987.0

-Đất cây lâu năm 12.400,88
2.Đất Lâm nghiệp 684.398,3 41,57
3.Đất chuyên dùng 59.221,08 3,59
4.Đất ở 14.893,51 0,90
5.Đất chưa sử dụng 693.166,46 42,04
(Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Nghệ An)
Theo nguồn gốc phát sinh, có thể phân đất đai Nghệ An thành 2 nhóm
chính: Đất thuỷ thành và đất địa thành.
Đất thuỷ thành:247.774 ha chiếm gần 16% diện tích thổ nhưỡng toàn tỉnh;
đất này phân bố tập trung chủ yếu ở các huyện đồng bằng ven biển và bao gồm 4
nhóm đất: Đất phù sa, đất mặn, đất nâu vàng, đất lúa vùng đồi núi. Chiếm vị trí
quan trọng trong số này là đất phù sa có 189.000 ha; đất phù sa bao gồm 2 loại
chính sau:
Đất cát biển: 21.400 ha (tập trung ở vùng ven biển) đất có thành phần giới
thô, không có kết cấu, dung tích hấp thụ thấp. Các chất dinh dưỡng như mùn,
đạm, lân đều nghèo, kali tổng số cao nhưng kali trao đổi thấp. đây là loại đất
thích hợp cho cây trồng hoa màu, cây công nghiệp ngắn ngày... lúc sử dụng cần
hết sức chú ý phát triển cây họ đậu, cây phân xanh, triệt để áp dụng phương thức
xen canh, gối vụ.
Đất phù sa thích hợp với cây lúa nước và màu: Đất phù sa được bồi hàng
năm, đất phù sa không được bồi, đất phù sa có sản phẩm Feralit. Nhóm này có
diện tích khoảng 144.500 ha, trong đó đất phù sa không được bồi hàng năm
khoảng 60%. Nhìn chung, so với đất sông Hồng và phù sa đất Cửu Long thì đất
phù sa ở Nghệ An có chất lượng kém hơn nhiều: đất thường bị chia cắt mạnh,
nghiêng dốc và lồi lõm, quá trình rửa trôi diễn ra liên tục cả về bề mặt và chiều
sâu, độ dày tầng canh tác mỏng, dung tích hấp thụ thấp. Đất thường chua, các
chất dinh dưỡng nói chung là nghèo, đặc biệt là lân (riêng phù sa được bồi đắp
hàng năm giàu dinh dưỡng hơn, nhưng sản xuất còn bấp bênh do hàng năm bị sói
lở, ngập lụt theo mùa).
Đất phù sa chủ yếu tập trung ở đồng bằng, đây là địa bàn sản xuất lương

thực chính của tỉnh, với ưu thế là chủ động tưới tiêu hơn so với vùng khác. Phần
lớn trong nhóm đất này là diện tích trồng lúa nước (75.000 ha). Các dải đất, bãi
bồi ven sông và đất phù sa cũ có địa hình cao thường trồng cây hoa màu lương
thực, cây công nghiệp ngắn ngày.
Đất địa thành: 1.324.892 ha chiếm 84% diện tích thổ nhưỡng. Đất này tập
trung chủ yếu ở vùng núi (74,2%) và bao gồm các đất sau: đất Feralit đỏ vàng
vùng đồi; đất sói mòn trơ sỏi đá; đất đen; đất Feralits đỏ vàng trên núi thấp; đất
mùn vàng; đất mùn trên núi cao.
Tóm lại: Nghệ An nằm vào vị trí địa lý thuận lợi có nguồn tài nguyên đa
dạng đảm bảo phát triển một nền kinh tế toàn diện. Trong những nguồn lực tự
nhiên đó thì đất đai và khí hậu là nguồn lực cơ bản, tạo cho Nghệ An một tập
đoàn sinh vật phong phú, phát triển nhanh. Đặc biệt Nghệ An có thể phát triển
mạnh một số cây công nghiệp đặc thù như: chè, cao su, cà phê, mía, lạc, vừng và
cây ăn quả. Tuy nhiên điều kiện tự nhiên của Nghệ An cũng còn có những hạn
chế thách thức không nhỏ. Bên cạnh sự phong phú của thiên nhiên, Nghệ An lại
thiếu một nguồn lực cơ bản, với số lượng và ý nghĩa kinh tế lớn để tạo cho Nghệ
An có ngành kinh tế mũi nhọn mang tính đột phá, làm cơ sở phát huy thế mạnh
của các ngành kinh tế khác trong tỉnh. Khí hậu Nghệ An đã tạo ra cho tỉnh điều
kiện để phát triển một số cây trồng có giá trị kinh tế cao, nhưng lại bị phân dị
phức tạp, nhiều khi gây khó khăn và thiệt hại cho sản xuất và đời sống sinh hoạt
của nhân dân.
2.Thực trạng phát triển kinh tế- xã hội giai đoạn 1996-2005
Nhờ có đường lối đổi mới của Đảng, trong 10 năm qua Tỉnh uỷ và UBND
tỉnh đã cụ thể hoá bằng nhiều Nghị quyết và cơ chế chính sách để phát triển kinh
tế- xã hội thời kỳ 1996-2004, cùng với toàn Đảng toàn dân có quyết tâm cao,
khắc phục khó khăn, ưu tiên cho đầu tư phát triển Nông -Lâm -Ngư nghiệp, dịch
vụ và kết cấu hạ tầng; sự lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh uỷ, UBND tỉnh sâu sát và có
hiệu quả nên đã phát huy được sức mạnh tổng hợp của các tầng lớp nhân dân
trong tỉnh; được sự quan tâm giúp đỡ của các cấp bộ, ngành trung ương và các tổ
chức quốc tế trong việc thu hút nguồn lực phát triển của thời kỳ 1996-2004; khí

hậu thời tiết trong 10 năm qua không có đột biến xấu là điều kiện thuận lợi cho
phát triến sản xuất đặc biệt là sản xuất Nông -Lâm -Ngư nghiệp. Nên kinh tế
trong 10 năm đổi mới có bước phát triển khá.
+Tốc độ tăng bình quân GDP (1996-2004) là 8%
Trong đó: giai đoạn 1996-2000 là 8,7%
Giai đoạn 2001-2004 là 7,27%, -Tổng sản phẩm trong tỉnh GDP tăng từ
2926,6 tỷ đồng năm 1995 lên 4448,6 tỷ đồng năm 2000 và 6317,9 tỷ đồng năm
2004, đưa mức bình quân GDP đầu người tăng từ 151,5 USD năm 1995 lên 207
USD năm 2000 và 281 USD năm 2004.(Mức thu nhập bình quân năm 2000 bằng
75% mức bình quân chung cả nước; trong khi đó năm 1996 mức thu nhập bình
quân của cả tỉnh chỉ bằng 60% mức bình quân chung của cả nước)
-Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, giảm dần tỷ trọng Nông - Lâm -
Ngư nghiệp, tăng tỷ trọng Công nghiệp - xây dựng và các ngành dịch vụ trong cơ
cấu kinh tế.
+Nông - Lâm - Ngư nghiệp giảm từ 60,9% năm 1990 xuống 49,09% năm
1996 và 44,27% năm 2004.
+Công nghiệp - Xây dựng tăng từ 12,2% năm 1990 lên 14,23% năm 1996
và 18,62% năm 2004.
+Dịch vụ tăng từ 26,89% năm1990 lên 36,68% năm 1996 và 37,10% năm
2004.
BIỂU 1.2: MỘT SỐ CHỈ TIÊU KINH TẾ- XÃ HỘI THỰC HIỆN 10 NĂM
Các chỉ tiêu Đơn vị
Thực hiện qua các năm
mốc
Tốc độ phát triển
bình quân các thời kỳ
1990 1996 2004
10 năm
1996-
2004

5 năm
1996-
2000
5 năm
2000-
2004
1.Dân số trung bình 1000 người 2498,2 2715,0 2906,0 1,52 1,68 1,37
2.GDP (giá 1994) Tỷ đồng 2927,0 4448,6 6317,9 8,00 8,73 7,27
Nông-Lâm- Ngư " 1671,0 2156,8 2793,3 5,27 5,24 5,31
Công nghiệp-XD " 383,0 644,7 1203,7 12,13 10,98 13,3
Dịch vụ " 873,0 1647,1 2320,9 10,27 13,54 7,10
3.GDP (giá thực tế) Tỷ đồng 1004,7 5087,5 7935,6
Nông-Lâm- Ngư " 611,9 2497,2 3513,2
Công nghiệp- XD " 122,6 724,0 1477,7
Dịch vụ " 270,2 1866,3 2944,7
4.Cơ cấu kinh tế % 100 100 100
Nông-Lâm- Ngư " 60,90 49,09 44,27
Công nghiệp- XD " 12,21 14, 23 18, 62
Dịch vụ " 26, 89 36, 68 37,11
5.GDP bình quân đầu
người (theo giá 1994)
1000 đồng 1171,6 1638,5 2174,1
-Theo USD USD 148,0 207,0 281,0
6.Thu NS trên địa bàn Tỷ đồng 371,2 379,4
-Tỷ lệ so với GDP % 7,3 4, 8
7.Tổng kim ngạch XK Triệu USD 2, 2 21, 1 27
8.Tỷ lệ hộ đói nghèo % 36, 0 19, 0
(Nguồn: Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Nghệ An thời kỳ
1996 - 2010 -Sở kế hoạch và Đầu tư Nghệ An)
Nguồn nhân lực

1,Dân số: Nghệ An tính đến năm 2004 có 3.506.000 người (trong đó nữ
chiếm 51%). Trên 85% dân số là dân tộc kinh, 15% dân tộc thiểu số (có 6 dân tộc
thiểu số là: Thái, HơMông, Khơmú, Thổ, Ơđu, Vân kiều).
2,Lao động: Tổng lao động trong độ tuổi có:1.430.000 người chiếm
49,2% dân số.
Trong đó: lao động có việc làm thường xuyên: 1..317.000 người (chiếm
92,1% tổng số lao động trong độ tuổi)
Phân theo ngành kinh tế như sau:
-Lao động Nông Lâm Ngư nghiệp: 932.436 người chiếm 70,8%, riêng
Nông nghiệp chiếm 64,300%
-Lao động Công nghiệp - xây dựng: 155.400 người chiếm 11,8%
-Lao động dịch vụ- thương mại: 229.164 người chiếm 17,4%
Lao động thiếu việc làm thường xuyên: 113.000 người (chiếm 7,9% tổng
số lao động trong độ tuổi)
* Chất lượng lao động năm 2004:
+Tổng số lao động qua đào tạo: 249.820 người (chiếm 18,9% so với tổng
số lao động có việc làm thường xuyên
+Tổng số lao động phổ thông:1.067.180 người (chiếm 81,1% so với tổng
số lao động có việc làm thường xuyên)
Với số lượng và tỷ lệ lao động qua đào tạo trên chưa đáp ứng được nhu
cầu phát triển kinh tế- xã hội. Do đó, cần được đặc biệt quan tâm đến việc phát
triển nguồn nhân lực trên cơ sở ưu tiên đào tạo hợp lý lao động có trình độ kỹ
thuật trong các ngành kinh tế- xã hội trong thời kỳ đổi mới, nhằm đưa Nghệ An
mau chóng thoát khỏi tỉnh nghèo, tụt hậu về kinh tế, từng bước nâng cao đời sống
dân cư và trình độ dân trí.
Những mặt còn yếu kém:
-Tốc độ tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm so
với tiềm năng và yêu cầu phát triển (Đặc biệt là thời kỳ 1996-2000). Nhiều mục
tiêu quy hoạch và mục tiêu của Đại hội tỉnh Đảng bộ khoá 14 đề ra về phát triển
kinh tế- xã hội đạt thấp, GDP bình quân đầu người năm 2000 mới bằng 75% mức

bình quân cả nước.
-Công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp còn chiếm tỷ trọng thấp trong GDP
(năm 2000 giá trị GDP ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đạt759,7 tỷ /
7935,6 tỷ đồng, chiếm 9,6% tổng GDP của tỉnh theo giá thực tế). Chất lượng sản
phẩm còn thấp, khó cạnh tranh trên thị trường, tiêu thụ chậm, hiệu quả kinh
doanh đạt thấp, sức mua của thị trường nội tỉnh còn hạn chế. Các doanh nghiệp
Nhà nước chưa giữ được vai trò tổ chức và định hướng thị trường, nhiều doanh
nghiệp Nhà nước còn kinh doanh thua lỗ kéo dài để lại gánh nặng ngân sách tỉnh.
-Kinh tế đối ngoại và xuất nhập khẩu, tuy có tiến bộ, song vẫn là tỉnh yếu
kém. Vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài còn ít, đến nay mới có 9 dự án liên
doanh với nước ngoài, quy mô dự án không lớn (trừ dự án liên doanh mía đường
NAT&L, tổng vốn đầu tư 90 triệu USD, công suất 6.000 tấn mía/ngày và 80.000
tấn đường/năm).
-Giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt thấp (bình quân đầu người năm 2004 là 9
USD/người, cả nước bình quân trên 160 USD/người.
-Thu chi ngân sách chưa đảm bảo (thu mới bằng 40-50% chi thường
xuyên)
+Tỷ lệ thu ngân sách bình quân so với tổng GDP còn thấp, mới đạt 8,1%
trong lúc đó cả nước là 18%, hiện tượng thất thu còn nhiều.
+Chi ngân sách: tốc độ tăng chi ngân sách thường xuyên hàng năm lớn
(14,5%- riêng tổng chi ngân sách năm 2004 là 1182 tỷ đồng gấp 3,12 lần so với
thu ngân sách trên địa bàn)
-Năng lực và trình độ đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ chuyên môn chưa
theo kịp với yêu cầu mới. Trình độ tiếp thị yếu, thiếu thông tin về thị trường, nên
chưa gắn được sản xuất với nhu cầu thị trường trong tỉnh, trong nước và ngoài
nước.
-Lao động thiếu việc làm còn nhiều (trên 12 vạn người); tỷ lệ hộ đói
nghèo còn cao (19% theo tiêu chí mới); một số tệ nạn xã hội nhất là tệ nạn ma tuý
có chiều hướng gia tăng.
-Mức sống bình quân chung của cả tỉnh còn thấp, GDP bình quân đầu

người chưa đạt 1USD/ngày và bằng 75% bình quân chung của cả nước.
Nguyên nhân yếu kém:
-Điểm xuất phát về kinh tế của tỉnh thấp, cơ sở vật chất kỹ thuật chưa đáp
ứng nhu cầu phát triển. Năng lực sản xuất tăng thêm hàng năm chưa nhiều, tích
luỹ từ nội bộ còn yếu; kinh tế trung ương trên địa bàn tỉnh còn chiếm tỷ trọng nhỏ
(19% giá trị sản xuất Công nghiệp trên địa bàn tỉnh).
-Hậu quả của nhiều năm khai thác nguồn tài nguyên không hợp lý, nên đã
bị suy giảm nghiêm trọng như: tài nguyên đất, rừng và nguồn lợi thuỷ sản. Do đó,
yêu cầu phục hồi và tái tạo lại để đảm bảo cân bằng sinh thái và phát triển bền
vững là một vấn đề khó khăn và lâu dài.
-Quy mô dân số lớn, luôn là một áp lực lớn đối với việc làm và nhu cầu
phát triển kinh tế- xã hội.
-Là một tỉnh đất rộng người đông, địa hình phức tạp có 10 huyện miền núi
và dân tộc (trên tổng số 19 huyện, thành phố và thị xã) chiếm 83% về diện tích,
36% về dân số. Toàn tỉnh có 466 xã, trong đó có 114 xã đặc biệt khó khăn, có 6
dân tộc ít người, tập quán canh tác và sinh hoạt còn lạc hậu. Do đó, nhu cầu về
kết cấu hạ tầng và đảm bảo các chính sách xã hội để phát triển sản xuất và cải
thiện đời sôngs cho đồng bào các dân tộc là rất lớn, đòi hỏi phải có điều kiện và
thời gian.
-Sự chỉ đạo điều hành giữa các cấp, các ngành còn chồng chéo. Thủ tục
hành chính còn phiền hà, quan hệ phối hợp trong việc thực hiện các mục tiêu
chiến lược phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh chưa chặt chẽ và chưa ngang tầm
với yêu cầu đổi mới.
Nhìn chung, nền kinh tế- xã hội tỉnh Nghệ An sau 10 năm đổi mới (1996-
2005) tiếp tục phát triển trên nhiều lĩnh vực, sản xuất Nông -Lâm -ngư nghiệp
tăng bình quân với tốc độ cao (5,27%), bước đầu đã có một số sản phẩm hàng
hoá đáp ứng nhu cầu thị trường trong tỉnh và xuất khẩu. Công nghiệp chế biến
Nông, lâm, thuỷ sản, sản xuất vật liệu xây dựng, hàng tiêu dùng... phát triển
nhanh, sử dụng lao động và nguyên liệu tại chỗ góp phần tạo việc làm, tăng thu
nhập cho khu vực nông thôn. Tiểu thủ công nghiệp, ngành nghề ở nông thôn phát

triển và từng bước được khôi phục. Các ngành dịch vụ như: thương mại, du lịch...
phát triển tạo chuyển biến lớn trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Kết cấu hạ tầng
được cải thiện khá, năng lực sản xuất được nâng lên tạo tiền đề để phát triển cho
thời kỳ 2001-2010. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên
một bước. Tình hình chính trị, an ninh quốc phòng, trật tự và an toàn xã hội được
giữ vững, môi trường sinh thái được cải thiện một bước.
II/THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP TỈNH
NGHỆ AN GIAI ĐOẠN 1996 – 2004.
1.Một số cơ chế chính sách đầu tư đối với sản xuất nông nghiệp
Đầu tư cho tăng trưởng và phát triển kinh tế là vấn đề hết sức quan trọng
trong chiến lược phát triển kinh tế đang được nhiều nước quan tâm, nhất là đối
với các nước đang phát triển. Nông nghiệp là một ngành sản xuất vật chất quan
trọng trong nền kinh tế quốc dân của mỗi nước. Sự tăng trưởng trong nông
nghiệp có tác động lớn đến quy mô và tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế quốc
dân. Song muốn có tăng trưởng phải có những điều kiện nhất định, trong đó 1
điều kiện vô cùng quan trọng là phải có chính sách đầu tư thoả đáng cho phát
triển nông nghiệp nông thôn.
Mục đích của chính sách đầu tư trong nông nghiệp là tái tạo và nâng cao
năng lực sản xuất của tài sản cố định trong nông nghiệp, thúc đẩy quá trình
chuyển giao công nghệ và tiến bộ kỹ thuật trong nông nghiệp và nông thôn, trước
hết là nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm của trồng trọt, chăn nuôi...
Chính sách đầu tư và mức độ đầu tư cho nông nghiệp được hình thành
trên cơ sở lý luận về tương quan giữa đầu tư và phát triển cũng như yêu cầu cụ
thể của từng nước, từng vùng trong từng giai đoạn cụ thể của tiến trình phát triển
kinh tế. Dù hình thức, phương pháp và mức độ đầu tư cho nông nghiệp có khác
nhau giữa nước này với nước khác, giữa vùng này với vùng khác, giữa thời gian
này với thời gian khác của mỗi nước, mỗi vùng- song mục tiêu, đối tượng và nội
dung đầu tư vẫn thống nhất. Một chính sách đầu tư đúng sẽ lập hành lang pháp lý
cho việc sử dụng có hiệ quả vốn đầu tư cho mục tiêu đã định trên cơ sở năng lực
sản xuất kinh doanh của từng đơn vị cơ sở và toàn ngành nông nghiệp.

1.1.Các chính sách của Đảng và Nhà nước
Nghị quyết 10/NQ/TW của Bộ chính trị (Khoá VI) ngày 5-4-1988 "Đổi
mới quản lý kinh tế nông nghiệp là bước quan trọng mở đầu thời kỳ đổi mới".
Để thể hiện và đưa những quan điểm của Nghị quyết này vào cuộc sống, hàng
loạt chủ trương và chính sách của Đảng và Nhà nước về lĩnh vực nông nghiệp,
nông thôn đã được ban hành.
1>Chính sách đầu tư và tín dụng phát triển nông nghiệp nông thôn
-Chính sách và chủ trương đầu tư Phát triển nông nghiệp nông thôn
Chính phủ đã có nhiều chính sách mới trong đầu tư phát triển nông
nghiệp, nông thôn. Kể từ năm 1993 trở lại đây, chính sách đầu tư của Nhà nước
nói chung và đối với nông nghiệp nói riêng đã được điều chỉnh đáng kể theo
hướng Nhà nước tập trung đầu tư, cắt giảm các khoản đầu tư kém hiệu quả hoặc
chưa bức xúc, tạo điều kiện và khuyến khích các thành phần kinh tế cùng bỏ vốn
đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Đồng thời, với chính sách mở cửa và hội nhập
quốc tế, chúng ta đã có thêm nhiều nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
-Chính sách tín dụng cho phát triển nông nghiệp nông thôn
Chính phủ đã có các văn bản chủ yếu nhằm tạo thuận lợi cho các hộ nông
dân có thể tiếp cận với các nguồn vốn vay tín dụng để phát triển sản xuất. Các
chủ trương, chính sách tín dụng cho phát triển nông nghiệp nông thôn được thực
hiện thông qua hai tổ chức Ngân hàng chính phục vụ cho vay phát triển sản xuất
nông nghiệp (Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn; Ngân hàng phục
vụ người nghèo); hệ thống quỹ tín dụng nhân dân; ngân hàng cổ phần nông thôn,
các dự án được tài trợ cho vay với lãi suất ưu đãi của chính phủ các nước, các tổ
chức phi chính phủ, các tổ chức tài trợ đã hộ trợ cho phát triển nông nghiệp, nông
thôn.
Tất cả các chính sách tín dụng trên đã và đang góp phần giúp nông dân
giảm khó khăn về vốn, tạo điều kiện tốt hơn cho phát triển sản xuất, kinh doanh.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện chính sách tín dụng còn bộc lộ nhiều vấn đề
mà người nông dân đang có ý kiến như: giải quyết thủ tục vay và thế chấp, mức
vay, thời hạn vay và lãi suất vay. Nếu những vấn đề này không được xử lý tốt sẽ

gây thêm khó khăn cho cả người vay và người cho vay.
2>Chính sách ruộng đất của Đảng và Nhà nước.
Trong hệ thống chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn thì chính
sách ruộng đất chiếm vị trí quan trọng nhất, có thể coi đó là chính sách trung tâm
trong hệ thống chính sách phát triển nông nghiệp nông thôn.
Điểm mới và điều được quan tâm nhiều nhất trong chính sách ruộng đất
của Đảng ta sau Nghị quyết 10 được thể hiện trong Luật đất đai năm 1993 (trên
cơ sở Luật đât đai năm 1987 có sửa đổi, bổ sung) là xác định các quan hệ ruộng
đất, có thể nói việc giao quyền sử dụng đất ổn định lâu dài cho người sử dụng đất
tuỳ thuộc vào mục đích sử dụng, loại đất sử dụng và các vùng lãnh thổ khác
nhau là bước quan trọng để khẳng định tính "có chủ" của việc sử dụng đất, gắn
đất đai tức là gắn điều kiện sản xuất với người lao động cơ bản để sử dụng và
khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên, đất đai hiếm hoi và quý giá, đồng thời sử
dụng hợp lý nguồn lao động ở từng địa phương và mọi thành phần kinh tế.
Tóm lại, chính sách ruộng đất được quy định trong luật đất đai năm 1993
và các văn bản dưới luật có liên quan đã có tác dụng to lớn, làm chuyển biến nền
nông nghiệp, kinh tế nông thôn nước ta, bước đầu đã phân định rõ vai trò và trách
nhiệm của Nhà nước, tăng cường quyền năng tối cao của Nhà nước về quản lý,
bảo vệ tài nguyên đất. Chính sách ruộng đất đã quy định trách nhiệm và quyền lợi
của những người được giao quyền sử dụng đất. Việc giao quyền sử dụng đất cho
các hộ nông dân và hộ nông dân là các đơn vị kinh tế tự chủ đã khơi dậy tính
năng động và sáng tạo của người lao động và sự biến đổi về quan hệ ruộng đất là
động lực tạo ra sự tự chủ của người nông dân đó. Chính sách ruộng đất đã xác lập
ruộng đất là yếu tố quan trọng vận động theo xu thế sản xuất hàng hoá, là cơ sở
quan trọng để chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Việc thực
hiện chính sách ruộng đất đã góp phần quan trọng cho quá trình chuyển đổi hợp
tác xã kiểu cũ, phát triển các hình thức kinh tế hợp tác đa dạng và bước đầu xác
định mối quan hệ hợp lý giữa kinh tế hộ và kinh tế hợp tác.
3>Chính sách phát triển các thành phần kinh tế
Phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế là một yêu cầu quan

trọng của đổi mới quản lý nông nghiệp, được thể hiện trong Nghị quyết 10 của
Bộ chính trị. Thực tiễn cuộc sống sau Nghị quyết 10 đã thể hiện tính đúng đắn
của quan điểm, tư tưởng đó, chứng minh sức sống mãnh liệt và tiềm năng to lớn
của các thành phần kinh tế. Những chính sách đó là:
-Chính sách đổi mới cơ chế quản lý kinh tế của các cơ sở quốc doanh
nông nghiệp, đổi mới tổ chức quản lý Hợp tác xã và tập đoàn sản xuất. Luật Hợp
tác xã và việc chuyển đổi Hợp tác xã kiểu mới.
-Chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế cá thể, các doanh nghiệp
tư nhân trong nông, lâm, ngư nghiệp, đầu tư thâm canh, phát triển sản xuất.
-Chính sách chuyển giao quyền sử dụng đất lâu dài, ổn định cho các tổ
chức kinh tế, các hộ gia đình nông dân, cá nhân có kinh nghiệm có điều kiện sản
xuất kinh doanh nông, lâm, ngư nghiệp.
-Chính sách thuế sử dụng đất nông nghiệp và thuế lợi tức trên đất.
-Chính sách đầu tư vốn, hỗ trợ nông dân sản xuất và một số chính sách
khác như khuyến nông, chính sách xã hội nông thôn.
Các chính sách nói trên đã phát huy tác dụng, tích cực và đem lại những
kết quả đáng kể. Nhiều cơ sở kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể đã chuyển đổi
thích ứng với cơ chế và các thành phân kinh tế nhiều thành phần. Các tiềm năng
trong nông nghiệp, nông thôn được khai thác, sử dụng có hiệu quả và triệt để
hơn. Các hình thức liên doanh, liên kết trong nông nghiệp và phát triển kinh tế
nông thôn khơi dậy tính tích cực sáng tạo của nông dân trong việc xây dựng các
hình thức sản xuất kinh doanh mới, cung cách làm ăn mới, tiếp cận dần với nền
kinh tế thị trường, các doanh nghiệp tư nhân, các công ty trách nhiệm hữu hạn,
các công ty cổ phần cũng được hình thành trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn.
Đời sống nông dân, bộ mặt nông thôn đã có nhiều chuyển biến tích cực.
4>Chính sách thị trường và tiêu thụ sản phẩm
Thị trường là một phạm trù kinh tế gắn liền với sự ra đời và phát triển của
sản xuất và trao đổi hàng hoá.ở đó diễn ra quá trình trao đổi, chuyển giao quyền
sở hữu hàng hoá hay dịch vụ trên cơ sở thoả thuận với hành vi mua bán.
Chính sách thị trường và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, nông thôn là

nhằm tăng cường sản xuất tạo nên khối lượng sản phẩm lớn, phục vụ cho nhu cầu
tiêu dùng của nhân dân trong nước và xuất khẩu, đảm bảo nguyên liệu cho công
nghiệp chế biến, thu nhập cho nông dân, nâng cao sức mua của nông dân để tạo
nên một thị trường sôi động ở nông thôn.
5>Chính sách khoa học -kỹ thuật và đào tạo cán bộ
-Chính sách khoa học kỹ thuật: Đây là một chính sách lớn của Đảng và
Nhà nước ta, xuất phát từ vị trí vai trò của công tác khoa học - kỹ thuật đối với
phát triển sản xuất.
+Tác động tích cực của khoa học -kỹ thuật đã hướng mạnh vào việc cải
tiến và ứng dụng giống cây trồng và vật nuôi có năng suất cao, chất lượng tốt như
các giống lúa, ngô, cà phê, cao su, chè, rau quả, lợn, bò, ... thay thế phần lớn hoặc
một phần giống cổ truyền có năng suất thấp chất lượng kém.
+Cùng với việc cải tiến kỹ thuật, chất lượng giống và ứng dụng giống mới
trong sản xuất, thì việc ứng dụng các tiến bộ khác trong kỹ thuật thâm canh cũng
được chú ý như phân bón, thuỷ lợi, tưới tiêu. Nhờ đó, nâng cao trình độ thâm
canh sản xuất được nâng cao cả trong trồng trọt và chăn nuôi. Những tiến bộ kỹ
thuật đó đã giúp cho việc cải tiến mùa vụ sản xuất, cơ cấu mùa vụ và cây trồng
đã có chuyển hướng tích cực.
+Chế biến sản phẩm đã được chú ý và coi trọng các tiến bộ kỹ thuật, khâu
sau thu hoạch như bảo quản, phơi sấy, chế biến đã được chú ý bằng tăng cường,
làm giảm bớt hao hụt sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm, nhất là các sản
phẩm xuất khẩu.
+Việc thực hiện chuyển giao công nghệ đến tận hộ gia đình nông dân
thông qua công tác khuyến nông được đẩy mạnh và tăng cường. Nghị định 13/CP
của Chính phủ ban hành ngày 2-3-1993 về công tác khuyến nông đã tạo cơ sở
tiền đề pháp lý để phổ biến ứng dụng tiến bộ kỹ thuật và kinh nghiệm sản xuất
xuống tận nông thôn.
+Nhà nước đã tổ chức đào tạo lại và chú ý đầu tư cho công tác nghiên cứu
khoa học phục vụ nông nghiệp nông thôn.
-Chính sách đào tạo cán bộ: trong quá trình phát triển nông nghiệp và

nông thôn, đội ngũ cán bộ luôn đóng vai trò quan trọng. Đảng và Nhà nước ta
luôn coi trọng vai trò của cán bộ, chú ý bồi dưỡng, đào tạo và sử dụng như là lực
lượng chủ yếu để thực hiện nhiệm vụ chiến lược phát triển nông thôn.
6>Chính sách xã hội nông thôn
Trong một thời gian dài chúng ta đã tách rời kinh tế và xã hội. Bất kỳ một
chính sách kinh tế nào cũng mang tính chất xã hội, và bất kỳ một chính sách xã
hội nào cũng dựa trên các chính sách kinh tế. Thực tiễn phát triển nông nghiệp
nông thôn đã chỉ rõ các chính sách xã hội nông thôn có ý nghĩa hết sức quan
trọng trong chiến lược kinh tế và chủ trương đầu tư vào nông nghiệp, đó là chính
sách dân số và kế hoạch hoá gia đình, chính sách lao động việc làm, đặc biệt là
chính sách xoá đói giảm nghèo.
Cụ thể trong giai đoạn qua, Đảng, Chính Phủ và tỉnh Nghệ An ban hành
các chính sách cụ thể.hoá vào từng lĩnh vực đã có tác dụng rất lớn trong việc đầu
tư phát triển sản xuất nông nghiệp:
+Chính phủ ban hành Nghị định số 14/CP ngày 19/3/1996 về việc quản lý
giống vật nuôi, nhằm tăng hiệu lực quản lý Nhà nước về giống vật nuôi để tăng
năng suất, chất lượng và nhân nhanh đàn giống tốt phục vụ sản xuất; Nghị định
số 15/CP ngày 19/3/1996 về việc quản lý thức ăn gia súc nhằm nâng cao chất
lượng đàn gia súc.
+Các chính sách của Chính phủ về việc cấp bù kinh phí để duy trì và nâng
cao chất lượng đàn gia súc, gia cầm giống gốc nhằm bảo đảm việc nuôi dưỡng
đàn gia súc gia cầm giống gốc phục vụ cho mục tiêu phát triển chăn nuôi
+Một số chính sách và cơ chế tài chính thực hiện chương trình kiên cố
hoá kênh mương theo quyết định số 66/2000 QĐ/TTg của Thủ tướng Chính Phủ
và chỉ thị số 12 NN-CS/CT ngày 8/7/1996 của Bộ Nông nghiệp và phát triển
nông thôn; tỉnh Nghệ An đã cụ thể hoá chính sách trên bằng cách ban hành "Cơ
chế chính sách hỗ trợ đầu tư, huy động vốn và tổ chức thực hiện kiên cố hoá kênh
thuỷ lợi", "Cơ chế chính sách hỗ trợ đầu tư phát triển thuỷ lợi tưới nước cho cây
cà phê, cam, chè và tiêu úng giữ ẩm cho lạc"
+Chính sách đầu tư hỗ trợ khuyến khích phát triển một số cây công

nghiệp và cây ăn quả do UBDN tỉnh Nghệ An ban hành
+Một số cơ chế chính sách khuyến khích phát huy nội lực để đầu tư phát triển,
như:
-Chính sách về đất: Quy định hạn mức giao đất, cho thuê đất đối với từng
hộ gia đình, cá nhân, các tổ chức, nhà đầu tư trực tiếp sản xuất; Thời hạn cho thuê
đất và giao đất và quy định mức miễn giảm tiền sử dụng đất, thuê đất
-Chính sách hỗ trợ Tài chính: hàng năm tỉnh trích từ 2-3% nguồn thu ngân
sách địa phương để bổ sung vào Quỹ bảo lãnh và hỗ trợ đầu tư phát triển sản xuất
hàng xuất khẩu, đây là một hình thức hỗ trợ tài chính cho các dự án đầu tư thuộc
diện ưu đãi, gồm cho vay ưu đãi, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, bảo lãnh vay vốn tín
dụng thương mại... hình thức, mức độ hỗ trợ tuỳ thuộc vào từng dự án cụ thể và
được thực hiện theo quy chế hoạt động của Quỹ bảo lãnh; ngoài ra còn cấp thuế
thu nhập doanh nghiệp để hỗ trợ đầu tư nhưng những dự án đầu tư chiều sâu
thuộc ngành nghề khuyến khích được cấp lại phần thuế thu nhập phải nộp do đầu
tư mới mang lại.
+Một số cơ chế chính sách thu hút đầu tư nước ngoài trên địa bàn tỉnh
Nghệ An trong đó sản xuất nông nghiệp là một lĩnh vực được ưu tiên
+Chính sách khuyến khích phát triển chăn nuôi do UBND tỉnh ban hành
trong đó khuyến khích các hộ gia đình chăn nuôi đặc biệt là giống ngoại nhập (Bò
lai Sind, giống lợn ngoại hướng nạc...)

×