Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

LÍ LUẬN CƠ BẢN VỀ NGHIỆP VỤ TÍN DỤNG VÀ KẾ TOÁN CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.63 KB, 21 trang )

LÍ LUẬN CƠ BẢN VỀ NGHIỆP VỤ TÍN DỤNG VÀ KẾ TOÁN CHO
VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. KHÁI QUÁT HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NHTM
1.1.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng
Từ tín dụng xuất phát từ tiếng La-tinh "credo" có nghĩa là "sự giao phó" hay
"tôi đặt niềm tin vào đó", hoặc từ tiếng La-tinh "credittum" có nghĩa là "sự tín
nhiệm".
TD NH là một phạm trù kinh tế tồn tại qua nhiều hình thức xã hội khác nhau.
Tuỳ theo những cách tiếp cận khác nhau ta có những cách biểu hiện khác nhau.
Theo quan niệm truyền thống TD là mối quan hệ kinh tế trong đó một người
chuyển giao cho người khác, tổ chức kinh tế khác quyền sử dụng một lượng giá trị
hoặc một lượng hiện vật nào đó với những điều kiện được hai bên thoả thuận
trước, những điều kiện đó thường về số lượng, chất lượng, thời gian hoàn trả và
lượng giá trị tăng thêm. Hay nói cách khác TD là sự chuyển nhượng tạm thời một
lượng giá trị từ người sở hữu sang người sử dụng để sau một thời gian sẽ thu hồi
được một lượng giá trị lớn hơn giá trị ban đầu.
Theo Luật các tổ chức TD: Cấp TD là việc tổ chức TD thoả thuận để KH sử
dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết
khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh NH và các nghiệp vụ khác.
Hoạt động TD có từ rất xa xưa và phát triển qua các chế độ xã hội khác nhau.
TD nặng lãi tồn tại phổ biến trong xã hội phong kiến và hiện nay vẫn còn tồn tại ở
một số nơi, một đặc điểm của hình thức TD này là lãi suất cho vay rất cao từ vài
chục cho đến hàng trăm %. TD nặng lãi không thúc đẩy nền sản xuất mà nó chỉ
nhằm mục đích phục vụ những nhu cầu tối thiểu của con người.
Nền sản xuất kinh doanh hàng hoá ngày càng phát triển, các nhà kinh doanh
tư bản hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận là chủ yếu, họ phải xem xét tới chi phí vay
vốn của mình, để có lãi trong kinh doanh nhà tư bản không vay vốn với lãi suất cao
hơn tỷ suất lợi nhuận. Do đó, xuất hiện một hình thức TD phù hợp hơn đó là tín
dụng thương mại.
Tín dụng thương mại là hình thức mua bán chịu lẫn nhau giữa các nhà sản
xuất hàng hoá, giữa các thương nhân với nhau, giữa các nhà sản xuất với các


thương nhân. Theo C.Mác "Tín dụng thương mại không phải cho vay bằng hàng
hoá mà cho vay bằng tiền của hàng hoá đem bán chịu". Quan hệ mua bán chịu này
chỉ diễn ra trong một phạm vi nhỏ của nền kinh tế, chỉ giữa các đơn vị có liên quan
trực tiếp với nhau, có thông tin đầy đủ về nhau. Vì vậy hình thức TD này cũng
không đáp ứng được nhu cầu ngày càng phát triển của nền sản xuất hàng hoá.
Từ những hạn chế của tín dụng thương mại, TD NH ra đời. Hoạt động tín
dụng này có liên quan đến chủ thể rất quan trọng đó là NH. Khi nói về vấn đề này
C.Mác nhận xét "NH ra đời với vai trò môi giới tài chính trung gian và tập trung
các khoản tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế đem cho các nhà DN và công chúng vay.
Bằng cách đó tạo ra sức mua cho họ mà không làm giảm sức mua của bất cứ ai. Đó
chính là nét nổi bật trong vai trò của NH, tạo điều kiện và thúc đẩy nền kinh tế
hàng hoá phát triển mạnh mẽ".
Tín dụng là hoạt động quan trọng nhất đối với bản thân các NHTM, chiếm tỷ
trọng cao nhất trong tổng tài sản, tạo thu nhập từ lãi lớn nhất và cũng là hoạt động
mang lại rủi ro cao nhất. TD là hoạt động tài trợ của NH cho khách hàng (còn được
gọi là TDNH).
1.1.2. Sự cần thiết và vai trò của tín dụng ngân hàng.
1.1.2.1. Sự cần thiết của hoạt động tín dụng ngân hàng.
Là một phạm trù kinh tế xuất hiện trong nền sản xuất hàng hoá, TD ra đời
không chỉ nhằm thoả mãn nhu cầu cần điều hoà vốn trong xã hội mà còn là động
lực thúc đẩy sự tăng trưởng của một nước. Về nội dung kinh tế, TD thực chất là
một quan hệ phân phối hình thái vận động đặc biệt của nguồn tài chính, sự vận
động này được thực hiện theo một chu kỳ khép kín mang tính quy luật. Nói một
cách khác "tín dụng là quan hệ kinh tế về sử dụng vốn tạm thời giữa người cho vay
và người đi vay theo nguyên tắc có hoàn trả dựa trên sự tín nhiệm ", nhờ có tín
dụng mà nguồn tài chính đã luân chuyển trong nền kinh tế quốc dân từ chủ thể này
sang chủ thể khác nhằm thoả mãn nhu cầu phát triển kinh tế xã hội.
1.1.2.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng
1.1.2.2.1. Tín dụng góp phần thúc đẩy quá trình tập trung vốn và phục vụ sản xuất
kinh doanh.

Hoạt động TD của NH làm nhiệm vụ "thông dòng" để vốn chảy từ nơi thừa
đến nơi thiếu thông qua việc thực hiện hoạt động đi vay và cho vay. Điều này được
thể hiện qua việc thu hút các khoản vốn tạm thời nhàn rỗi trong quá trình luân
chuyển vốn của các DN, các khoản thu nhập khác bằng tiền của các tổ chức và cá
nhân chưa sử dụng, từ đó đáp ứng nhu cầu thiếu vốn của các đối tượng vay.
Tuy nhiên, trong quá trình đầu tư tín dụng không rải đều cho mọi chủ thể có
nhu cầu mà việc đầu tư được tập trung cho DN lớn kinh doanh có hiệu quả. Đầu tư
tập trung là tất yếu trên cơ sở đảm bảo các điều kiện TD sẽ tránh được rủi ro và
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
1.1.2.2.2. Tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy, củng cố chế độ hạch toán kinh
tế .
Đặc trưng cơ bản của TD là vận động trên cơ sở hoàn trả và có lãi theo đúng kỳ
hạn cả vốn và lãi. Do đó, các DN phải sử dụng vốn vay vào sản xuất, kinh doanh sao
cho được đảm bảo an toàn cho NH cũng như chính bản thân DN.
Thông qua cho vay, vốn TD được cung cấp kịp thời tạo điều kiện thuận lợi
cho sản xuất kinh doanh, đồng thời kiểm soát được hoạt động kinh tế đối với DN
vay vốn. Làm cho người vay vốn ngày càng hoàn thiện hơn việc quản lý đồng vốn
thông qua quá trình hạch toán kinh tế, góp phần củng cố chế độ hạch toán.
1.1.2.2.3. Tín dụng ngân hàng nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp.
Với hình thức đa dạng hoá các thành phần kinh tế thì các loại hình DN ngày
càng phát triển phong phú hơn. Điều này đã đòi hỏi sức vươn lên của từng DN bởi
khi đã có nhiều các DN cùng tham gia vào một thị trường thì cạnh tranh là quy luật
tất yếu xẩy ra. Do vậy, nguồn vốn dồi dào sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các DN
mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh tăng cường áp dụng khoa học kỹ thuật hiện
đại, giúp các DN đứng vững trong cạnh tranh. Các DN phải cạnh tranh nhau nên sẽ
tạo ra những sản phẩm hàng hóa có chất lượng cao hợp thị hiếu mọi người và cuối
cùng là tạo cho người tiêu dùng tâm lý yên tâm, tin tưởng vào chất lượng hàng hoá
tạo ra sự công bằng giữa người tiêu dùng và người sản xuất.
1.1.2.2.4. Tín dụng Ngân hàng là công cụ tài trợ nền kinh tế chiến lược, mũi nhọn.
Một trong các hoạt động quan trọng của NH là tập trung mọi hoạt động nguồn

vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi chưa sử dụng nằm ngoài quá trình sản xuất kinh
doanh phân tán ở mọi thành phần kinh tế như nằm trong tay dân cư, các DN, các tổ
chức, cơ quan Nhà nước để từ đó phân phối lại vốn vay đối với các thành phần
kinh tế, giải đều cho mọi chủ thể kinh tế có nhu cầu. Tuy nhiên, quá trình đầu tư
TD chỉ được thực hiện một cách tập trung có mục đích chủ yếu cho các DN lớn,
các DN kinh doanh có hiệu quả. Đầu tư tập trung là một quá trình tất yếu đảm bảo
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, hạn chế rủi ro.
Trong điều kiện nước ta, là một nước nông nghiệp có trình độ còn thấp, sản
xuất trong nước đang cố gắng đáp ứng đủ nhu cầu cần thiết cho xã hội. Do đó,
nông nghiệp được coi như là mặt trận hàng đầu làm cơ sở để phát triển công
nghiệp. Vì thế trong giai đoạn trước mắt Nhà nước cần phải tập trung đầu tư phát
triển nhưng để giải quyết nhu cầu tối thiểu của xã hội đồng thời tạo điều kiện để
phát triển các ngành kinh tế khác. Bên cạnh đó Nhà nước cần phải tập trung tín
dụng đầu tư cho các ngành kinh tế mũi nhọn, vì phát triển các ngành này sẽ tạo
điều kiện để tăng nguồn thu ngoại tệ cho Nhà nước, lôi cuốn các ngành khác phát
triển theo như sản xuất hàng xuất khẩu...
1.1.2.2.5. Tín dụng Ngân hàng tạo điều kiện thúc đẩy các quan hệ kinh tế với nước
ngoài.
TDNH đã trở thành một trong những phương tiện nối liền kinh tế giữa các
nước với vai trò của TDNH đã ngày càng tạo điều kiện cho các DN trong nước có
cơ hội mở rộng hoạt động của mình ra nước ngoài một cách có hiệu quả hơn. Qua
đó TDNH đóng vai trò trong việc thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá trên thị trường quốc
tế, góp phần tăng thu nhập ngoại tệ cho đất nước.
1.1.3. Các phương thức cho vay.
Hiện nay, các tổ chức TD áp dụng các phương pháp cho vay theo Quyết định
số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc NH Nhà nước Việt
Nam. Theo đó, các tổ chức tín dụng thoả thuận với KH về việc lựa chọn phương án
cho vay theo một trong các phương thức cho vay sau:
• Cho vay có thời hạn: là những khoản cho vay trong một thời gian nhất định. Nhất
quán với thông lệ quốc tế, ở Việt Nam các khoản vay này được định nghĩa như

sau:
- Vay ngắn hạn là khoản vay được thanh toán trong vòng một năm kể từ
ngày giải ngân;
- Vay trung hạn là khoản vay được thanh toán trong thời hạn lớn hơn 1
năm đến 5 năm;
- Vay dài hạn là khoản vay được thanh toán sau 5 năm trở lên
• Cho vay dự án đầu tư: Tổ chức TD cho khách hàng vay vốn để thực hiện các dự án
đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, dịch vụ và các dự án đầu tư phục vụ đời
sống. Chúng thường là các khoản vay trung hạn hoặc dài hạn và thường cần có sự
hợp vốn của nhiều NH
• Cho vay hợp vốn (cho vay đồng tài trợ): là một nhóm các tổ chức TD cùng cho vay
đối với một dự án vay vốn của KH, trong đó có một tổ chức TD làm đầu mối (gọi là
NH đầu mối), dàn xếp phối hợp với các tổ chức TD khác (các NH đồng tài trợ). Việc
cho vay hợp vốn thực hiện theo quy chế này và quy chế đồng tài trợ của các tổ chức
TD do Thống đốc NH Nhà nước ban hành.
• Cho vay từng lần: Mỗi lần vay vốn, KH và tổ chức TD thực hiện thủ tục cho vay
vốn cần thiết và kí kết HĐTD.
• Cho vay theo hạn mức tín dụng:Mỗi lần vay vốn KH và tổ chức TD thoả thuận một
hạn mức TD duy trì trong một khoảng thời gian nhất định.
• Cho vay trả góp: Khi vay vốn tổ chức TD và KH xác định, thoả thuận số lãi vốn
vay phải trả với số nợ gốc được chia ra để trả nợ theo nhiều kỳ hạn trong thời hạn
cho vay.
• Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng: Tổ chức TD cam kết sẵn sàng cho KH
vay vốn trong phạm vi hạn mức TD nhất định. Tổ chức TD và KH thoả thuận thời
hạn hiệu lực của hạn mức TD dự phòng, mức phí trả cho hạn mức TD dự phòng.
• Cho vay qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng:Tổ chức TD chấp nhận
cho KH được sử dụng số vốn vay trong phạm vi hạn mức TD để thanh toán tiền
mua hàng hoá dịch vụ và rút tiền mặt tại máy rút tiền tự động hoặc điểm ứng tiền
mặt là đại lý của tổ chức TD. Khi cho vay, phát hành và sử dụng thẻ TD, KH phải
tuân theo các quy định của Chính phủ và NH Nhà nước Việt Nam về phát hành và

sử dụng thẻ TD.
• Cho vay theo hạn mức thấu chi: Là việc cho vay mà tổ chức TD thoả thuận bằng
văn bản chấp thuận cho KH chi vượt số tiền có trên TK thanh toán của KH phù
hợp với các quy định của Chính phủ NH Nhà nước Việt Nam về hoạt động thanh
toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.
Phương thức cho vay là một nội dung quan trọng của kỹ thuật cung ứng
vốn TD đối với các tổ chức kinh tế, việc xác định được phương thức cho vay thích
hợp với một tổ chức kinh tế sẽ tạo ra điều kiện tốt để thực hiện các nghiệp vụ TD,
gắn sự vận động của tổ chức TD với sự vận động của đối tượng vay vốn.
1.1.4. Chỉ tiêu đánh chất lượng hoạt động tín dụng ngân hàng.
Chất lượng TD là một phạm trù rộng, bao hàm nhiều nội dung, trong đó có
nội dung quan trọng thể hiện ở tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ. Do vậy, trong một
số trường hợp khi nói đến chất lượng TD theo nghĩa hẹp người ta có thể chỉ nêu
lên tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ.
Trong hoạt động kinh doanh của các NHTM hiện nay, chất lượng TD vẫn là
một nội dung được đặc biệt quan tâm không chỉ của các nhà quản lý, điều hành
trong NH mà còn là mối quan tâm lo ngại của nhiều cấp, nhiều ngành từ Trung
ương đến địa phương. Mặc dù vậy, cho đến nay cũng chưa có quy định cụ thể về
hệ thống các chỉ tiêu đánh giá chất lượng TD của các NHTM. Đây là yêu cầu cần
thiết không chỉ đối với đội ngũ thanh tra trong quá trình thực hiện thanh tra, kiểm
soát các NHTM mà còn là cơ sở để các NHTM tự đánh giá độ an toàn và chất
lượng của đồng vốn mà họ cho vay đối với mỗi KH.
Chỉ tiêu đánh giá chất lượng TD vừa có chỉ tiêu mang tính định tính, vừa có
chỉ tiêu mang tính định lượng. Nhưng hiện nay ở nước ta việc quy định cho các chỉ
tiêu mang tính định tính rất khó do nó chỉ mang tính tương đối. Vì vậy, nếu xét về
bản chất và yêu cầu đối với một NHTM, theo tôi, trước mắt NHNN Việt Nam cần
quy định hệ thống chỉ tiêu đánh giá chất lượng TD của các NHTM theo các chỉ tiêu
sau:
- Tỷ lệ nợ quá hạn:
Tỷ lệ nợ quá hạn là tỷ lệ phần trăm giữa nợ quá hạn và tổng dư nợ của NHTM

ở một thời điểm nhất định, thường là cuối tháng, cuối quý hoặc cuối năm.
Tỷ lệ nợ quá hạn được tính không chỉ mang tính tổng quát mà phải cụ thể theo
cấp độ của từng khoản vay. Ví dụ:
Tỷ lệ nợ quá hạn =
dông tÝn nîd­ Tæng
håithu khãNî

Trong nền kinh tế thị trường, rủi ro trong hoạt động kinh doanh là khách quan,
do đó nợ quá hạn của NHTM là tất yếu, không thể tránh khỏi. Song, nếu một
NHTM có nhiều khoản nợ quá hạn sẽ gặp nhiều khó khăn trong kinh doanh vì sẽ
có nguy cơ mất vốn, mà đây là điều tệ hại dễ dẫn đến mất khả năng thanh toán và
giảm thu nhập. NHTM nào có tỷ lệ nợ quá hạn cao sẽ bị đánh giá là có chất lượng
TD thấp. Đây là chỉ tiêu hiện nay thường được sử dụng khi phân tích đánh giá chất
lượng TD của NHTM.
- Cơ cấu vốn đầu tư:
Một trong các chỉ tiêu trong khi xem xét và đánh giá chất lượng TD của
NHTM là chỉ tiêu cơ cấu vốn đầu tư tín dụng. Việc phân tích cơ cấu vốn đầu tư TD
chính là việc xem xét đánh giá tỷ trọng cho vay đã phù hợp với khả năng đáp ứng
của bản thân NH cũng như đòi hỏi về vốn của nền kinh tế chưa. Trên cơ sở đó, các
NHTM có thể quyết định quy mô, tỷ trọng đầu tư vào các lĩnh vực một cách hợp lý
để vừa đảm bảo an toàn vốn cho vay vừa có thể thu lại lợi nhuận cao nhất.
- Tỷ lệ thanh toán nợ do bán tài sản của người vay:
Nếu xét về bản chất TD, thì nguồn trả nợ cho NH của người vay về nguyên
tắc là được trích ra từ phần thu nhập do hoạt động sản xuất kinh doanh của KH, nó
bao gồm các chi phí lao động vật hoá (chi phí nguyên, nhiên vật liệu, khấu hao tài
sản cố định) và phần giá trị mới sáng tạo ra. Tuy vậy, có nhiều trường hợp do sử
dụng vốn kém hiệu quả, bị mất vốn (sản xuất kinh doanh thua lỗ, phá sản ...) nên
người vay phải bán tài sản (có thể do tự nguyện hoặc bắt buộc) để trả nợ NH. Số
tiền do bán tài sản có thể đủ để trả hết nợ món vay, nhưng cũng có thể chỉ trả được

×