Tải bản đầy đủ (.docx) (4 trang)

Tải Phân tích hình tượng dòng sông trong bài Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm - Phân tích tác phẩm Bên kia sông Đuống

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (86.93 KB, 4 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Đề bài: Phân tích hình tượng dịng sơng trong bài Bên kia sơng Đuống của </b>
<b>Hồng Cầm</b>


<b>Bài làm</b>


Ngay từ nhan đề bài thơ người đọc đã bắt gặp dịng sơng Đuống. Dịng sơng trở
thành một hình tượng nghệ thuật có vai trị quan trọng với câu từ của tác phẩm.
“Con sông Đuống rõ ràng là một nhân vật - vì nó là một nhân vật nó mới có thể
nằm nghiêng được. Cái thế nằm nghiêng nghiêng ấy không phải do tôi nghĩ ra,
cũng là tự nhiên khi cảm xúc trào ra, cứ thế tơi viết” (Hồng Cầm). Đó khơng
chỉ là dịng Thiên Đức có thật mà cịn là con sông tượng trưng, là ranh giới
hiện hữu cho sự ngăn cách giữa bên này và bên kia, giữa tự do và mất tự do,
giữa hiện thực và khát vọng. Tất cả những gì đẹp nhất, thân yêu, quý giá nhất,
tất cả tình yêu, ước mơ, khát vọng của nhà thơ đều ở bên kia sông Đuống, và
dù nỗ lực vươn tới, dù khao khát trở lại quê hương, nhà thơ cũng không sao tới
được. Không chỉ là ranh giới về không gian, con sông ấy là ranh giới của thời
gian, con sơng ấy đã trầm tích vào trong mình tất cả chiều sâu của lịch sử, cả
“ngày xưa” và cả hôm nay. Con sông ấy như một chứng nhân lịch sử đã chứng
kiến cả truyền thống và hiện đại, cả quá khứ và tương lai của quê hương Kinh
Bắc. Lấy con sơng Đuống làm ranh giới, Hồng Cầm muốn làm bật lên thế đối
lập, tương phản giữa bên này và bên kia, quá khứ và hiện tại. Không phải ngẫu
nhiên mà trong bài thơ này cái điệp khúc “bên này”, “bên kia”, “đi đâu về đâu”,
“tan tác về đâu”... và cả những ấn tượng thời gian hiện tại “từ ngày khủng
khiếp”, “bây giờ”, “nay người ở đâu”...cứ trở đi trở lại, hịa quyện vào nhau,
đầy xót xa, day dứt. Cũng không phải ngẫu nhiên mà trong bài thơ có sự trộn
lẫn giữa những chi tiết về hiện thực đau đớn tan tác với những chi tiết về quá
khứ yên bình hạnh phúc, giữa niềm vui truyền thống với niềm bơ vơ trong hiện
tại:


<i>Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã</i>
<i>Bây giờ tan tác về đâu.</i>



Với nhà thơ, quá khứ yên bình ấy là khát vọng, là vẻ đẹp lí tưởng mà ơng ln
hướng tới và hiện tại tan tác, chia li là hiện thực. Như vậy, bài thơ khơng chỉ có
sự đối lập giữa bên này và bên kia sơng Đuống mà cịn có sự đối lập giữa quá
khứ vật chất tinh thần truyền thống với hiện tại đau thương, tan tác. Hướng về
quá khứ lí tưởng ở đây khơng phải là tâm trạng hồi cổ, nhất là khi bài thơ kết
thúc bằng ý niệm thời gian tương lai:


<i>Bao giờ về bên kia sơng Đuống</i>
<i>Ta lại tìm em...</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

bình, hạnh phúc với những "bãi mía bờ dâu”, “ngô khoai biêng biếc", với "lúa
nếp thơm nồng”, “môi cắn chỉ quết trầu” và “màu dân tộc” sau “những ngày
khủng khiếp". Từ góc độ này, có thể coi đó là kết cấu tuần hoàn của bài thơ, là
niềm mơ ước một ngày quê hương Kinh Bắc hồi sinh tươi tắn da thịt! Rõ ràng,
nhà thơ hồn tồn khơng hồi niệm và tôn thờ quá khứ, ngược- lại, ông chỉ
khao khát giành lại cho quê hương thân yêu những gì mà trước kia nó đã từng
có: sự bình n, niềm hạnh phúc, những sinh hoạt văn hóa tinh thần truyền
thống...


Khơng chỉ là dịng sơng biểu tượng, con sơng Đuống cịn được Hồng Cầm thể
hiện như một dịng sơng có thực, đang bồi hồi thao thức chảy. Lời động viên an
ủi mơ đầu bài thơ “Em ơi buồn làm chi” cũng không chỉ là lời an ủi “một con
người không xác định”, “một người cùng quê bên kia sông Đuống”, “một cơ
gái Kinh Bắc của ngày xưa”, mà cịn là “một em cụ thể”, “có một chuyện cụ
thể”. Hồng Cầm tâm sự: “cái “em ơi" ấy là do từ tâm linh của mình, người vợ
ấy suốt mấy tháng trời đêm nào cũng khóc, đêm nào tơi cũng phải an ủi, dỗ
dành... Chính cái “em” ấy là người vợ. Ba câu ấy hầu như ở trong lịng mình
bật ra, bật ra một cách vơ thức”. Đó cũng là lời tự an ủi tâm hồn đau khổ của
chính mình khi nghe tin q hương bị tàn phá. Để xoa dịu nỗi đau, nhà thơ an


ủi vỗ về bằng cách “đưa em về sông Đuống”, nhưng không phải sông Đuống
hiện tại, mà là sông Đuống “ngày xưa cát trắng phẳng lì”, hết sức tươi đẹp, yên
bình, ngập tràn ánh sáng và sắc trắng tinh khôi. Nhịp thơ và sự phối hợp ngôn
từ đã khéo léo gợi ra một dịng sơng êm đềm đang thao thức đổ về biển lớn:


<i>Sơng Đuống trơi đi</i>
<i>Một dịng lấp lánh</i>


<i>Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

“Nắng sắp lên rồi - Chân trời đã tỏ”. Cả dịng sơng Đuống, cả q hương Kinh
Bắc đang nỗ lực hành trình từ bóng tối ra ánh sáng, từ tăm tối khổ đau đến hồi
sinh tươi sáng, yên bình...


Từ vị trí “đứng bên này sơng”, ý thức được dịng sơng biểu tượng như một ranh
giới hiện hữu không thể vượt qua, Hồng Cầm hướng tồn bộ tâm trí của mình
về q hương bên kia sơng Đuống với biết bao “xót xa”, “nhớ tiếc”. Quê hương
Kinh Bắc hiện về qua nỗi nhớ, qua hình dung, nhưng vẫn chân thực, sinh động
lạ thường. Đó là một miền quê có truyền thống văn hóa nghệ thuật lâu đời, với
một vẻ đẹp cổ kính, với biết bao giá trị quý giá thiêng liêng: lúa nếp, tranh
Đơng Hồ, hội hè đình đám, tình mẹ, tình con... Mỗi giá trị, mỗi vẻ đẹp của
miền quê đều đã trở thành kỉ niệm, khắc sâu vào nỗi nhớ nhà thơ, kể cả mùi
hương lúa nếp nhỏ bé, mơ hồ. Đó đâu chỉ là hương vị thứ nếp cẩm đã trở thành
di sản của Kinh Bắc, mà còn tiêu biểu cho hương vị của dân tộc với nền văn
minh lúa nước, thứ hương vị trầm tích vào ngay trong sự tích bánh chưng bánh
dày như một nét đặc trưng cho tâm hồn, cốt cách cha ông. Nhưng hiện thân cho
vẻ đẹp lí tưởng trong thế giới thơ Hồng Cầm, thế giới Kinh Bắc có lẽ chính là
người phụ nữ. Nàng là trung tâm của sự sống, kết tinh cho vẻ đẹp đất trời.
Nàng xuất hiện ở đâu là ở đó sáng lên những sắc màu rực rỡ, những vẻ đẹp tinh
khơi, những đường nét thanh tú. Vì vậy thơ Hoàng Cầm và thế giới Kinh Bắc


đầy vẻ đẹp nữ tính. Đó là “những khn mặt búp sen”, “những cơ hàng xén
răng đen”, “những nàng môi cắn chỉ quết trầu”, "những nàng dệt sợi”, những
thiếu nữ “mặc yếm thắm”, “thắt lụa hồng”, đi “trẩy hội non sông”... Nhưng tất
cả những vẻ đẹp, những giá trị ấy đều đã thuộc về quá khứ, hoặc đang bị kẻ thù
hủy hoại. Thay cho “Chợ Hồ, chợ Sủi người đua chen - Bãi Trầm Chỉ người
giăng tơ nghẽn lối” trong quá khứ là hình ảnh phiên chợ nghèo tan tác, đớn
đau: “Lá đa lác đác trước lều - Vài ba vết máu loang chiều mùa đơng”. Tấm
lịng thơm thảo khiến đứa con xa q muốn gửi về quê hương “một tấm the
đen”, nhưng “Gửi về may áo cho ai”?. Đâu chỉ con người, ngay cả cuộc sống
của những lồi vật hiền lành vơ tội cùng bị đảo lộn, từ cánh cò hoảng hốt giữa
thời buổi tên rơi đạn lạc “bay vùn vụt” đến “Chó ngộ một đàn - Lưỡi dài lê sắc
máu – Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang". Theo tôi, không nên hiểu đây là hình ảnh
tượng trưng cho lũ giặc mà nhà thơ viết lên bằng tất cả lòng ghê tởm, uất hận
kẻ thù. Đó là hình ảnh tả thực, nhưng lại có sức tố cáo mạnh mẽ nhất, ẩn giấu
nhiều đau đớn nhất trước tội ác kẻ thù - cái tội ác hủy diệt sự sống, hủy diệt
môi trường sống - mà Nguyễn Trãi từng thể hiện trong Bình Ngơ đại cáo: “Tàn
hại cả côn trùng cây cỏ.”


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4></div>

<!--links-->

×