Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

Hình tượng Bác Hồ trong bài thơ Viếng lăng Bác

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.06 KB, 5 trang )

HÌNH TƯỢNG BÁC HỒ TRONG BÀI THƠ VIẾNG LĂNG BÁC CỦA VIỄN PHƯƠNG
Summary: Viếng lăng Bác không những là tiếng khóc nghẹ ngào, xúc động của người con miền Nam mà còn
thể hiện một hình tượng đẹp đẽ cao quý luôn sống mãi trong lòng nhân dân Việt Nam - Hình Tượng Bác
Hồ.
TÌM HIỂU HÌNH TƯỢNG BÁC HỒ QUA BÀI THƠ VIẾNG LĂNG BÁC
CỦA NHÀ THƠ VIỄN PHƯƠNG
Nguyễn Thị Xuân Đào
Sinh thời, Bác Hồ luôn luôn nghĩ đến miền Nam, ngày đêm thương nhớ miền Nam. Với Bác, miền Nam là niềm vui,
là hạnh phúc, là nỗi đau không lúc nào nguôi: “Miền Nam trong trái tim tôi”. Niềm mong mỏi thiết tha của Bác là
miền Nam mau được giải phóng. Miền Nam cũng ngày đêm thương nhớ Bác, mong ngày giải phóng để được gặp
Bác kính yêu. Nhưng tiếc thay, khi Bắc Nam sum họp một nhà thì Bác không còn nữa. Lòng thương nhớ, nỗi niềm
đau đớn của đồng bào và chiến sĩ miền Nam dồn nén bao nhiêu năm đã được nhà thơ Viễn Phương thể hiện trong bài
Viếng lăng Bác. Bài thơ không những chỉ thể hiện dòng cảm xúc trào dâng của nhà thơ mà còn thể hiện hình tượng
lãnh tụ Hồ Chí Minh bằng những hình ảnh vừa quen thuộc, vừa giàu sức khái quát, vừa lung linh gợi cảm. Bằng cảm
xúc chân thực và ngôn ngữ thơ gợi cảm, Viễn Phương đã nói hộ chúng ta một chân lý: Bác Hồ vĩ đại sống mãi trong
lòng nhân dân ta.
Bài thơ ra đời năm 1976, khi lần đầu tiên sau giải phóng miền Nam, Viễn phương ra thăm Lăng Bác. Bài thơ rất
ngắn gọn, súc tích nhưng có sức gợi tạo nên sự xúc động cho người đọc. Ngôn ngữ thơ tuôn trào theo theo dòng cảm
xúc chân thành, tha thiết.
Mở đầu bài thơ, Viễn Phương đã bày tỏ ngay tình cảm sâu nặng, ruột thịt của mình bằng câu thơ giản dị: Con ở
miềm Nam ra thăm lăng Bác.
Tình cảm giữa miền Nam và Bác Hồ luôn luôn là tình cảm ruột thịt “Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà” (Tố Hữu) và
tình cảm của miền Nam đối với Bác cũng là tình cảm nhớ mong da diết “Miền Nam mong Bác nỗi mong cha” (Tố
Hữu). Tự đáy lòng của người con đến thăm cha, Viễn Phương nói với Bác: Con ở miền Nam…. Câu thơ giản dị
nhưng bao hàm một ý nghĩa lớn. Trong tim Bác và trong tim miền Bắc, Miền Nam luôn luôn là nỗi đau chia cắt, nỗi
nhớ thương, là niềm tự hào, là biểu tượng anh hùng, bất khuất, dũng cảm, kiên cường, là thành đồng Tổ Quốc… Giờ
đây, nhà thơ mang theo cả niềm tự hào đó của đồng bào miền Nam để đến với Bác.
Hình ảnh đầu tiên trong lăng làm nhà thơ xúc động là hình ảnh hàng tre:
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng


Hàng tre bát ngát cuốn hút cảm xúc của nhà thơ. Qua hình ảnh hàng tre quen thuộc tác giả gửi gắm một ý nghĩa
tượng trưng nhằm ca ngợi Bác, ca ngợi dân tộc. Chắc rằng, cũng như mọi người Việt Nam, trong tâm khảm nhà thơ,
cây tre là hình ảnh giản dị, thân thuộc, đời đời gắn bó với quê hương làng xóm. Hàng tre xanh xanh trong vườn Bác
gợi cho người đọc nhiều liên tưởng. Hàng tre gợi hình ảnh mọi miền quê hương đất nước, nhất là hình ảnh miền
Nam yêu thương. Tre kiên cường trong bão táp mưa sa như dân tộc ta vững vàng qua phong ba bão tố, như Bác Hồ
suốt đời sống giản dị nhưng kiên cường tranh đấu vì độc lập tự do của dân tộc.
Hoà vào dòng người thăm lăng, nhà thơ tiếp tục dòng suy tưởng. Lời thơ bỗng dạt dào một cảm xúc tự hào, thành
kính, thương nhớ Bác:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân
Ai đã từng một lần đi viếng lăng Bác mới hiểu hết hàm ý trong câu thơ của Viễn Phương. Ngày ngày, mặt trời - chúa
tể của thiên nhiên - thán phục một mặt trời trong lăng rất đỏ. Mặt trời rất đỏ, hình ảnh tượng trưng cho Bác Hồ - là
mặt trời cách mạng, là nguồn ánh sáng rực rỡ không bao giờ tắt, mãi mãi chiếu rọi con đường đi tới của dân tộc Việt
Nam. Nhiều nhà thơ đã sử dụng hình ảnh mặt trời để thể hiện ánh sáng của lý tưởng cách mạng, nhưng đối sánh hai
hình ảnh mặt trời của Viễn Phương quả là rất độc đáo. Đây là một sáng tạo nghệ thuật có tác dụng bộc lộ nội dung
rất hiệu quả. Không nhiều lời, chỉ một hình ảnh mặt trời rất đỏ, nhà thơ đã khái quát được hình ảnh Bác Hồ vĩ đại.
Nhà thơ đã nói hộ chúng rằng: Bác Hồ là mặt trời cách mạng đẹp nhất, rực rỡ nhất, chói lọi nhất luôn luôn toả sáng
trong tâm hồn người Việt Nam.
Cùng với mặt trời ngày ngày đi qua trên lăng là dòng người đi trong thương nhớ. Nhịp thơ chầm chậm như bước
chân của dòng người lặng lẽ đi trong suy tưởng, bao trùm một một không khí thương nhớ Bác không nguôi, thành
kính kết tràng hoa tình yêu dâng bảy mươi chín mùa xuân của Người. “Người ta là hoa của đất”, nhà thơ thật sâu sắc
và tinh tế khi tôn quí nhân dân. Mỗi người dân là một bông hoa và dòng người đi trong thương nhớ chính là tràng
hoa dâng lên Bác.
Ngày ngày… ngày ngày …, thời gian không ngừng trôi và lòng người Việt Nam không bao giờ nguôi tình cảm nhớ
thương, yêu quí, kính trọng đối với Bác.
Đặc biệt xúc động là khi vào trong lăng, thấy Bác nằm nghỉ, nhà thơ sững sờ, nghẹn ngào, đau đớn:
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền,

Vẫn biết trời xanh là mãi mãi ,
Mà sao nghe nhói ở trong tim
Bác nằm đó như đang trong giấc ngủ bình yên sau bảy mươi chín mùa xuân không hề nghỉ. Từ ánh điện mờ ở trong
lăng, nhà thơ liên tưởng đến một hình ảnh rất đẹp: vầng trăng sáng dịu hiền. Hình ảnh đó đã đưa người đọc vào một
thế giới huyền diệu, trong sáng và thanh khiết; càng gợi ta nghĩ đến tình yêu thiên nhiên, yêu trăng nồng nàn của Bác.
Vầng trăng kia đã bao lần sáng lên trong thơ Người. Cả khi trong ngục: “Người ngắm trăng soi qua cửa sổ, trăng
nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”. Cả những khi bận rộn việc nước việc quân, Bác vẫn thấy “trung thu trăng sáng như
gương”, “rằm xuân lồng lộng trăng soi”, “trăng ngân đầy thuyền”, “trăng vào cửa sổ đòi thơ”, “trăng lồng cổ thụ
bóng lồng hoa…” Giờ đây, Bác nằm đó, trong giấc ngủ bình yên, giữa vầng trăng sáng dịu hiền. Vẫn biết rằng Bác
như trời xanh, mãi mãi sống trong sự nghiệp của chúng ta. Nhưng con tim nhà thơ đau đớn vô cùng khi đứng trước
Người. Mà sao nghe nhói ở trong tim, chỉ một chữ nhói cũng đủ nói lên nỗi quặn đau, thương nhớ không gì bù đắp
được vì mất Bác, vì nỗi thiếu vắng Bác.
Và nỗi đau không còn kìm ném được nữa, nó trào lên dữ dội khi nhà thơ chia tay với Bác:
Mai về miền Nam, thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng
Muốn làm bông hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.
Thương Bác, thương đến trào nước mắt, một tình cảm yêu quý mãnh liệt, trọn vẹn như tình cảm của người con đối
với người cha ruột thịt. Nhà thơ chia tay Bác trong tiếng khóc nấc nở nghẹn ngào. Làm sao ngăn được dòng nước
mắt thương nhớ Bác-một con người vừa vĩ đại, thanh cao, vừa gần gũi thân thiết với chúng ta, một con người suốt
đời hy sinh, cống hiến cho dân tộc nay vĩnh viễn nằm lại trong lăng? Nhà thơ lưu lưyến không muốn rời xa Bác, chỉ
ước muốn biến thành con chim, bông hoa, cây tre, góp tiếng hót, làn hương quanh nơi Bác nghỉ cho trọn niềm trung
hiếu với Người. Đoạn thơ dạt dào tình cảm, nhịp điệu thiết tha, cùng với hình ảnh cây tre trung hiếu một lần nữa
truyền đến người đọc sự xúc động nghẹn ngào.
Bài thơ ngắn, nhưng tác giả đã thành công khi sử dụng hàng loạt hình ảnh ẩn dụ mang tính tượng trưng sâu sắc. Các
hình ảnh hàng tre xanh xanh, giữa bão táp mưa sa, đến các hình ảnh mặt trời rất đỏ, tràng hoa, bảy mươi chín mùa
xuân, vầng trăng sáng dịu hiền, trời xanh là mãi mãi đã gợi cho người đọc thấy trọn vẹn hình tượng Bác Hồ gần gũi,
cao quý, thanh khiết, vĩ đại biết bao. Ngoài ra, nó còn gợi đến hình ảnh quê hương, đất nước, nhân dân. Nhà thơ đã
có nhiều dụng ý khi sử dụng các hình ảnh rất đẹp, rất lớn lao của vũ trụ: mặt trời, vầng trăng, trời xanh. Những hình
ảnh đó tượng trưng cho cái vĩ đại, lớn lao của Bác Hồ. Bác như vầng mặt trời rực rỡ, như vầng trăng sáng dịu hiền,

như bầu trời xanh. Ở Bác toả ra ánh sáng của trí tuệ thiên tài và lấp lánh ánh sáng của một tâm hồn cao đẹp. Còn hình
ảnh hàng tre xanh xanh lại tượng trưng cho cái bình dị, gần gũi của Người. Và hơn thế nữa, tất cả các hình ảnh ấy
đều gợi cho ta thấy sự bất tử của Bác Hồ. Người sống mãi trong lòng nhân dân ta, trong sự nghiệp của chúng ta. Mãi
mãi là vị cha già thân thiết, yêu quý của chúng ta.
Viếng lăng Bác không những là tiếng khóc đau đớn, nghẹn ngào trước sự ra đi của Bác, là lòng thương nhớ không
nguôi, lòng kính phục vô hạn của nhà thơ Viễn Phương và của nhân dân ta đối với Bác Hồ mà bài thơ còn diễn tả
thành công hình tượng Bác Hồ vĩ đại bằng những hình ảnh đẹp, nhịp điệu tha thiết, cảm xúc nồng nàn chân thực. Âm
hưởng của bài thơ ngân vang mãi trong lòng người đọc. Bài thơ được phổ nhạc càng trở nên truyền cảm sâu xa, làm
xúc động hàng triệu trái tim Việt Nam từ 1976 đến nay.
VIẾNG LĂNG BÁC (Viễn Phương)
1. Hoàn cảnh sáng tác : Tháng 4 năm 1976. Tác giả là người miền Nam. Thơ của Viễn Phương là
tiếng nói của đồng bào miền Nam hướng về vị Cha già kính yêu của dân tộc.
- Sáng tác sau khi đất nước thống nhất, thể hiện cảm xúc chân thành và suy ngẫm sâu sắc về hình
tượng Bác Hồ trong lòng dân tộc.
2. Kết cấu : Gồm 4 khổ thơ, thể hiện tình cảm với lãnh tụ qua tình cảm riêng tư. Bố cục nghệ thuật
từ xa tới gần, từ ngoài vào trong, kết nối suy tưởng - cảm xúc. Thể thơ tự do, riêng khổ 3 kết cấu
theo thể thất ngôn, cô đọng vẻ đẹp hình tượng Bác Hồ.
3. Phân tích :
+ Khổ đầu :
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.
Tình cảm bộc lộ trực tiếp qua cách xưng hô : Con – Bác, từ đó tạo thành mối liên hệ đồng cảm,
gần gũi, vừa yêu thương vừa kính trọng với lãnh tụ. Tác giả không dùng từ « viếng » trong câu thơ
mà dùng từ « thăm » để tạo cảm giác như được tiếp xúc với Bác. Tính chất gặp gỡ thân tình mà
cảm động, nên từ xa nhìn thấy đã ngập tràn xúc cảm : « sương » vừa là báo hiệu thời gian ra thăm
từ rất sớm, tạo nên không khí se chùng niềm thương nỗi nhớ. Nhưng cũng cho phép liên tưởng
hình ảnh tác giả nhìn cảnh vật như mờ ảo sau màn sương – nhoà lệ nhớ thương ! Hình ảnh lăng
Bác tạo cảm giác thân thuộc gần gũi, vì có sự xuất hiện của « hàng tre ». Hai sắc thái được diễn tả

là « bát ngát » và « xanh xanh » để bao quát không gian rộng, thoáng và yên bình, không gian mở
ra ngút ngát. Thăm Bác, nhìn thấy hàng tre cũng là lúc tác giả nói lên cảm giác xúc động mãnh liệt
về hình ảnh biểu tượng của dân tộc. Thán từ « Ôi ! » cùng với cảm nhận dáng tre « đứng thẳng
hàng » nghiêm trang cũng tạo nên cảm giác thành kính thiêng liêng trước lăng Bác. Không những
thế, tư thế « đứng thẳng hàng » còn đặt trong thế đối lập với « bão táp mưa sa » gợi lên phẩm
chất của tre dẻo dai, cứng cáp bền bỉ, cũng là tư thế hiên ngang của dân tộc vượt qua bao thử
thách gian lao để đi đến thắng lợi vinh quang. Để từ đó, tác giả như cảm nhận giây phút về bên
Bác, có toàn thể dân tộc cùng canh giấc ngủ cho Người.
+ Khổ 2 :
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.
Nếu như khổ thứ nhất là cảm nhận không gian trong cảm giác thanh tĩnh tuyệt đối thì khổ thứ hai
là cảm nhận từ góc độ thời gian nghệ thuật. Thời gian được nói đến là « ngày ngày » cùng với
hình ảnh so sánh « mặt trời » thực và « mặt trời trong lăng » tạo nên vẻ đẹp của suy tưởng biết ơn
thành kính. Hình ảnh Bác được nâng tầm ngang với hình ảnh bất tử - mặt trời – mang tầm vóc vũ
trụ. Mặt trời trong lăng là cách hình dung về Bác, theo thủ pháp hoán dụ. Mặt trời đem cho thế gian
ánh sáng, sự sống, cũng như Bác đem ánh sáng lý tưởng cộng sản, sắc đỏ tương lai cho toàn dân
tộc. Sự nghiệp của Bác tạo dựng nên cũng bất tử trường tồn như ánh thái dương. Suy ngẫm ấy
không làm cho hình ảnh của vĩ nhân quá xa vời mà lại khiến Bác càng sống trong niềm thương nỗi
nhớ của mọi người. Tình cảm thành kính biết ơn đã được tác giả đặt trong liên tưởng « dòng
người » - « tràng hoa » và từ « dâng ». Cuộc đời Bác là « bảy mươi chín mùa xuân », mang ý
nghĩa biểu tượng của một sức sống vĩnh cửu, một vẻ đẹp hoà vào thiên nhiên đầy sức sống như
mùa xuân. Thủ pháp điệp kết cấu « ngày ngày...đi qua trên lăng » và « ngày ngày....đi trong
thương nhớ » tạo hiệu quả thẩm mỹ đặc biệt : vừa chiêm ngưỡng cảm phục, vừa trân trọng yêu
thương. Vẻ đẹp của Bác luôn sáng mãi trong lòng dân tộc, luôn gần gũi thân thương trong trái tim
mọi người.
+ Khổ 3 :
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên

Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim
Khổ thơ diễn tả khoảnh khắc tác giả được đứng chiêm ngưỡng Bác trong lăng. Cảm xúc dồn nén,
chất chứa thương yêu đem lại sự lắng sâu về vẻ đẹp tâm hồn Bác. Ở trên, Bác được so sánh với
“mặt trời” thì ở khổ này Bác lại được đặt vào ánh sáng “vầng trăng” . Thực ra, vầng trăng này là
một liên tưởng sáng tạo của Viễn Phương, bởi lẽ trong lăng nhưng tâm hồn Bác luôn có vầng
trăng tri kỷ. Tâm hồn Bác là tâm hồn thi nhân, trăng từng làm bạn với Người trong bao bài thơ khi
bị giam cầm, lúc đi kháng chiến… nên giờ đây khi Người vào “giấc ngủ bình yên” thì dường như
trăng lại toả sáng cốt cách thi nhân của Bác. Toát lên từ khuôn mặt Bác là vẻ đẹp mà tác giả cảm
nhận như giấc ngủ bình yên, giấc ngủ của con người thanh thản vì đã làm tròn sứ mệnh với dân
tộc, hoàn thành sự nghiệp cách mạng của mình. Câu thơ gợi cảm giác nghiêm trang, đến lúc đó
mới cảm thấy nỗi đau mất mát. Tác giả nghĩ về “trời xanh” cũng có nghĩa là nghĩ đến thời điểm đất
nước thanh bình, nhưng cũng là cách ẩn dụ nói về con người Bác đã hoà nhập vào vũ trụ vĩnh
hằng. Ý thơ này giống như câu thơ của một cao tăng Nhật Bản là thiền sư Ryokê Osini từng viết:
Trời xanh đón ngừơi cứu nước về/Đau lòng chúng sinh trên đường mê/ Xưa nay hiếm bậc lão anh
kiệt/ Chiếc lá thu bay trời ủ ê. Nỗi đau là có thật, xuất phát từ sâu thẳm trái tim của đứa con miền
Nam ra thăm Bác ngày đất nước đã hoàn toàn thống nhất.(Chúng ta biết Bác luôn dành tình cảm
sâu đậm cho đồng bào miền Nam khi sinh thời Người nói “Miền Nam trong trái tim tôi” và Tố Hữu
trong bài tơ “Bác ơi” cũng từng viết: Miền Nam đang thắng mơ ngày hội/ Rước Bác vào thăm thấy
Bác cười!). Ngày hội non sông không chứng kiến nụ cười của Bác rạng rỡ, nên nỗi đau như “nhói
ở trong tim” là nỗi đau không gì bù đắp.
+ Khổ kết:
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này
Tình cảm của nhà thơ đến khổ thơ này tự nhiên không hề kìm giữ, làm nên phút giây “trào
nước mắt” của nỗi xúc động bồi hồi. Tình cảm ấy không hề bi lụy mà thăng hoa thành khát vọng,
thành lời tâm nguyện trước anh linh của Bác. Nỗi nhớ nhung biến thành ước muốn thật đẹp đẽ của

đứa con miền Nam: muốn làm con chim hót, đoá hoa toả hương, muốn giữ lại những thời khắc
lắng đọng và đẹp đẽ nhất của tâm hồn khi được gần bên Bác. Nói như một ý thơ Tố Hữu: “Yêu
Bác lòng ta trong sáng hơn” hay như câu thơ: “Ta bên Người, Người toả sáng trong ta/ Ta bỗng
lớn ở bên Người một chút”. Mượn những hình tượng tự nhiên để diễn tả lòng mình, Viễn Phương
cũng nói hộ tấm lòng những đứa con của Bác: muốn lòng mình trong sáng hơn, đẹp đẽ hơn. Hơn
thế, tác giả còn muốn hoá thân “làm cây tre trung hiếu chốn này” - bồi đắp tâm hồn và phẩm chất
để sống xứng đáng với tình thương của Bác. Đó cũng là lời hứa tiếp tục thực hiện ước vọng của
Người.
Sau này bài thơ đã thành giai điệu trong bài hát nổi tiếng cùng tên, lời thơ được chắp cánh, thăng
hoa thành bài hát xúc động bao thế hệ. Bởi những gì mà tác giả gửi gắm đã nói lên tình cảm đồng
điệu của bao thế hệ người Việt Nam yêu nước.
Nét độc đáo trước hết ở bài thơ này là nhịp thơ. Nhịp thơ chậm rãi như nhịp đi khoan thai, thành kính
của dòng người vào Lăng viếng Bác với những bước chân lặng lẽ, bồi hồi xao xuyến. Khổ thơ mở đầu
cho thấy tác giả đang chuẩn bị vào lăng viếng Bác, vì thế mới nhìn thấy cảnh từ xa: "Đã thấy trong
sương hàng tre bát ngát". Ống kính tâm hồn của nhà thơ bắt khá nhạy khi chọn cây tre làm biểu tượng
cho tinh thần Việt Nam với tư thế: "Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng". Ở đây nhà thơ đặc biệt chú ý khi
dùng từ láy "Ơi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam" chỉ hai chữ "xanh xanh" đã thổi hồn Việt vào từng cây cỏ
của một đất nước bốn mùa xanh tốt. Tiếp đó, cùng với hai từ láy "ngày ngày" trong câu: "Ngày ngày mặt
trời đi qua trên Lăng" đã dãn rộng câu thơ, cho ta hình dung dòng người đang bước chậm lại. Khổ thơ
thứ hai này có sự chuyển dịch về không gian, khi tác giả bước đến gần Lăng Bác hơn mới: "Thấy một
mặt trời trong Lăng rất đỏ". Hai câu thơ bất ngờ và hay nhất của bài thơ: "Ngày ngày dòng người đi
trong thương nhớ/Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân" đã vĩnh cửu hóa tình cảm của dân tộc
đối với lãnh tụ kính yêu.
Khổ thơ thứ ba là lúc nhà thơ đã bước vào trong Lăng. Hình ảnh Bác hiện lên thật đẹp như huyền thoại:
"Bác nằm trong giấc ngủ bình yên/Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền". Vầng trăng chính là vầng sáng
ánh đèn, nhưng cũng là vầng trăng tình cảm dân tộc dành cho Bác. Hàng tre, mặt trời và vầng trăng là
những biểu tượng giàu tính khái quát có sức gọi lớn lao. Cao trào của cảm xúc được dồn nén từ thăm
thẳm: "Dẫu biết trời xanh là mãi mãi" đến trào lên nức nở: "Mà sao nghe nhói ở trong tim", chỉ một từ
nhóiiii thôi mà tim ta bỗng thắt lại. Tôi nghĩ sẽ không có một từ nào thay thế, gây xúc động hơn trong
văn cảnh này.

Khổ thơ cuối là lúc nhà thơ ra khỏi Lăng Bác và bước vào khu nhà sàn của Bác ngập tràn trong hương
hoa cây lá. Nhà thơ viết thật chân thành: "Mai về miền Nam thương trào nước mắt" và tiếp đó là ý
nguyện: "Muốn làm con chim ca hát quanh Lăng", "Muốn làm đóa hoa", "Muốn làm cây tre" như một sự
giãi bày cho ta thấy hình ảnh lãnh tụ hòa quyện với thiên nhiên, với hồn Việt.
Bài thơ "Viếng Lăng Bác" viết giản dị, ngắn gọn, xúc tích, giàu nhạc tính, cân đối như một khúc ca từ,
ngôn ngữ thơ chọn lọc có sức gợi mở. Vì thế khi được nhạc sĩ Hoàng Hiệp phổ nhạc đã chắp cánh cho
tứ thơ bay xa, ngân vang mãi trong lòng chúng ta.

×