Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

LÝ LUẬN CHUNG VỀ KIỂM TOÁN KHOẢN MỤC CHI PHÍ SẢN XUẤT TRONG KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (276.35 KB, 33 trang )

LÝ LUẬN CHUNG VỀ KIỂM TOÁN KHOẢN MỤC CHI
PHÍ SẢN XUẤT TRONG KIỂM TOÁN BÁO CÁO
TÀI CHÍNH
I. KIỂM TOÁN KHOẢN MỤC CHI PHÍ SẢN XUẤT TRONG KIỂM TOÁN
BÁO CÁO TÀI CHÍNH
1. Đặc điểm chi phí sản xuất tác động đến kiểm toán khoản mục chi phí sản
xuất
Sự phát sinh và phát triển của xã hội loài người gắn liền với quá trình sản xuất.
Nền sản xuất xã hội của bất kỳ phương thức sản xuất nào cũng gắn liền với sự vận
động, tiêu hao các yếu tố cơ bản tạo nên quá trình sản xuất. Nói cách khác, quá
trình sản xuất là quá trình kết hợp cả ba yếu tố: tư liệu lao đông, đối tượng lao
động và sức lao động. Sự kết hợp cả ba yếu tố này trong quá trình sản xuất sẽ tạo
ra những sản phẩm, dịch vụ phục vụ cho nhu cầu của con người. Việc tiêu hao một
lượng nhất định các yếu tố trên để sản xuất ra sản phẩm, dịch vụ được gọi là chi
phí.
Đối với mỗi doanh nghiệp, chi phí luôn gắn liền với một kỳ sản xuất và phải là
chi phí thực. Vì vậy, cần có sự phân biệt giữa chi phí và chi tiêu. Chi phí của kỳ
hạch toán là những hao phí về tài sản và lao động có liên quan đến khối lượng sản
phẩm sản xuất ra trong kỳ chứ không phải mọi khoản chi ra trong kỳ hạch toán.
Trong khi đó, chi tiêu là sự giảm đi đơn thuần các loại vật tư, tìa sản, tiền vốn của
doanh nghiệp, bất kể nó được dùng vào mục đích gì. Nhưng chi tiêu lại là cơ sở
phát sinh của chi phí, không có chi tiêu thì không có chi phí. Trên thực tế có những
chi phí tính vào kỳ hiện tại nhưng chưa được chi tiêu (các khoản phải trả) hay
những khoản chi tiêu của kỳ hiện tại nhưng chưa được tính vào chi phí (mua tài
sản cố định rồi khấu hao dần vào chi phí). Như vây, chi phí và chi tiêu không
những khác nhau về mặt lượng mà còn khác nhau về thời gian. Sở dĩ có sự khác
nhau như vậy là do đặc điểm, tính chất vận động và phương thức chuyển dịch giá
trị của từng loại tài sản vào quá trình sản xuất và yêu cầu kỹ thuật hạch toán
chúng.
Như vậy, có thể hiểu chi phí sản xuất là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ lao
động sống và lao động vật hoá cần thiết mà doanh nghiệp đã chi ra trong một kỳ


nhất định.
Chi phí về lao động sống là các chi phí về tiền lương và các khoản trích theo
lương được tính vào chi phí. Khoản này bao gồm yếu tố sức lao động – một trong
những yếu tố của bất kỳ nền sản xuất nào.
Chi phí về lao động vật hoá bao gồm chi phí về nguyên vật liệu, chi phí khấu
hao…Khoản này bao gồm hai yếu tố là tư liệu lao động và đối tượng lao động của
nền sản xuất xã hội.
Theo mục đích và công dụng, chi phí sản xuất còn được hiểu là những chi phí
phát sinh liên quan đến việc chế tạo sản phẩm hay thực hiện các lao vụ, dịch vụ
trong phạm vi phân xưởng. Như vậy, chi phí sản xuất được cấu thành bao gồm:
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Bao gồm chi phí về các laọi nguyên vật liệu
chính (kể cả nửa thành phẩm mua ngoài), vật liệu phụ, nhiên liệu….sử dụng trực
tiếp vào sản xuất, chế tạo sản phẩm hay thực hiện công việc lao vụ, dịch vụ. Không
tính vào khoản mục này những chi phí nguyên vật liệu dùng vào mục đích phục vụ
nhu cầu sản xuất chung hay cho những hoạt động ngoài lĩnh vực sản xuất.
Chi phí nhân công trực tiếp: bao gồm chi phí về tiền lương, phụ cấp phải trả
và các khoản trích bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn trên tiền
lương của công nhân trực tiếp sản xuất theo quy định. Không tính vào khoản mục
này những khoản tiền lương, phụ cấp và các khoản trích trên lương của nhân viên
phân xưởng, nhân viên bán hàng, nhân viên quản lý doanh nghiệp hay nhân viên
khác.
Chi phí sản xuất chung: Là chi phí dùng vào việc quản lý và phục vụ sản xuất
chung tại bộ phận sản xuất, bao gồm các khoản sau:
Chi phí nhân viên phân xưởng: Gồm chi phí về tiền lương, phụ cấp và các khoản
trích bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn trên tiền lương của nhân
viên thống kê, bảo vệ…tại phân xưởng sản xuất theo quy định.
Chi phí vật liệu: Gồm các loại vật liệu sử dụng cho nhu cầu sản xuất chung sản
xuất như dùng để sửa chữa tài sản cố định, dùng cho công tác quản lý tại phân
xưởng.
Chi phí dụng cụ sản xuất: Đó là chi phí về các loại công cụ, dụng cụ dùng cho

nhu cầu sản xuất chung ở phân xưởng như: khuôn mẫu, dụng cụ gá lắp, dụng cụ
cầm tay, dụng cụ bảo hộ lao động….Chi phí dụng cụ sản xuất có thể bao gồm trị
giá thực tế của công cụ, dụng cụ xuất kho (đối với loại phân bổ một lần) và số phân
bổ về chi phí công cụ, dụng cụ kỳ này (đối với loại phân bổ nhiều lần) dùng cho
nhu cầu sản xuất chung ở bộ phận phân xưởng sản xuất.
Chi phí khấu hao tài sản cố định: bao gồm số khấu hao về tài sản cố định hữu
hình, tài sản cố định vô hình và tài sản cố định thuê tài chính sử dụng ở phân
xưởng sản xuất như khấu hao máy móc thiết bị sản xuất, khấu hao nhà xưởng…
Chi phí dịch vụ mua ngoài và chi phí khác bằng tiền: Bao gồm các khoản chi về
dịch vụ mua ngoài, thuê ngoài để sử dụng cho nhu cầu sản xuất chung của phân
xưởng như chi phí về điện, nước, điện thoại, thuê sửa chữa tài sản cố định…và các
khoản chi phí khác phát sinh trong phạm vi phân xưởng.
Phân loại chi phí sản xuất theo mục đích và công dụng kinh tế có tác dụng phục
vụ cho việc quản lý chi phí theo định mức, là cơ sở cho kế toán tập hợp chi phí sản
xuất và tính giá thành sản phẩm theo khoản mục, là căn cứ để phân tích tình hình
thực hiện kế hoạch giá thành và định mức chi phí sản xuất cho kỳ sau. Từ đó đề ra
được những biện pháp để phấn đấu giảm chi phí, chọn phương án sản xuất có chi
phí thấp nhất, đó chính là cơ sở, tiền đề để hạ giá thành, tăng doanh lợi.
Tóm lại, chi phí sản xuất nằm trong giai đoạn sản xuất và kết quả của giai đoạn
này thể hiện ở thành phẩm, sản phẩm dở dang. Do đó, khi kiểm toán cần phải cân
nhắc các vấn đề sau:
Xem xét việc tổ chức hạch toán chi phí sản xuất, đối tượng hạch toán chi phí,
tính phù hợp của phương pháp kế toán áp dụng, tính trung thực của số liệu.
Ngoài việc kiểm toán các yếu tố chi phí chính là chi phí nguyên vật liệu trực
tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung, kiểm toán viên còn phải
kiểm toán đối với chi phí sản xuất kinh doanh dở dang và việc tính giá thành sản
phẩm. Khi đó kiểm toán viên cần phải xem xét các phương pháp đánh giá sản
phẩm dở dang và phương pháp tính giá thành có phù hợp hay không, đồng thời
xem xét tính nhất quán của các phương pháp đó.
2. Vai trò của kiểm toán khoản mục chi phí sản xuất trong kiểm toán báo cáo

tài chính
Chi phí nói chung và chi phí sản xuất nói riêng đóng vai trò nhất định trong Báo
cáo tài chính và là một trong những yếu tố rất quan trọng trong quá trình kinh
doanh của doanh nghiệp. Chi phí phát sinh và biến đổi liên tục trong quá trình phát
triển của doanh nghiệp, gắn liền với sự tồn tại của doanh nghiệp. Mặc dù chi phí
sản xuất chưa đủ để nói lên hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhưng nó ảnh
hưởng trực tiếp đến việc đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh và việc tính toán
các chỉ tiêu trên báo cáo tài chính. Cụ thể:
Các chỉ tiêu về chi phí sản xuất có liên quan chặt chẽ tới các tài khoản trên
Bảng cân đối kế toán cũng như các chu trình kiểm toán khác. Cụ thể, chi phí sản
xuất liên quan đến tài khoản 152, 334, 338, 214….do vậy nó cũng liên quan đến
các chu trình mua hàng - thanh toán, chu trình tiền lương - nhân viên, chu trình đầu
tư tài sản cố định… Vì vậy, việc xem xét, đánh giá các chỉ tiêu chi phí sản xuất
được gắn liền với quá trình xem xét, đánh giá các khoản mục, các chu trình nghiệp
vụ liên quan và đòi hỏi một sự phân tích, đánh giá tổng hợp của kiểm toán viên.
Trên Báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh, các chỉ tiêu về chi phí là các chỉ tiêu
quan trọng phản ánh tổng quát quá trình kinh doanh trong bất kỳ doanh nghiệp nào
mà mọi sai sót liên quan đến việc phản ánh chi phí đều có ảnh hưởng trực tiếp đến
kết quả cuối cùng của doanh nghiệp là lợi nhuận của hoạt động kinh doanh.
Đối với Nhà nước, các chỉ tiêu doanh thu và chi phí cùng các khoản thu nhập
khác có liên quan trực tiếp đến việc xác định thuế thu nhập và thuế giá trị gia tăng
phải nộp. Theo đó, những sai sót hay gian lận trong quá trình hạch toán chi phí sản
xuất có ảnh hưởng trực tiếp tới nghĩa vụ của doanh nghiệp với ngân sách Nhà
nước.
Khoản mục chi phí sản xuất có ảnh hưởng lớn tới các khoản mục khác trong
báo cáo tài chính. Do vậy, khoản mục này luôn được coi là một khoản mục trọng
yếu. Trong bất kỳ một cuộc kiểm toán báo cáo tài chính nào, khi đánh giá tính
trọng yếu của các khoản mục trên báo cáo tài chính, các kiểm toán viên đều cho
rằng khoản mục chi phí sản xuất là trọng yếu và do đó cần phải được tiến hành
kiểm toán một ccách đầy đủ nhằm tránh bỏ sót những sai sót trọng yếu có thể có

đối với khoản mục này và do đó có thể giảm rủi ro kiểm toán xuống mức thấp nhất
có thể được. Tính đúng đắn của việc tập hợp chi phí sản xuất là một cơ sở quan
trọng để kiểm toán viên đưa ra ý kiến của mình về tính trung thực và hợp lý của
các thông tin trình bày trên các báo cáo tài chính cuả doanh nghiệp, đồng thời tư
vấn cho doanh nghiệp hoàn thiện hơn trong công tác hạch toán kế toán, từ đó nâng
cao hiệu quả kinh doanh của khách hàng.
Với những lý do trên, kiểm toán khoản mục chi phí sản xuất trở thành một
phần hành không thể thiếu được trong kiểm toán báo cáo tài chính , đặc biệt là đối
với kiểm toán báo cáo tài chính của doanh nghiệp sản xuất. Nếu thiếu kiểm toán
khoản mục này kiểm toán viên không thể đưa ra ý kiến về tính trung thực và hợp lý
của các thông tin trình bày trên báo cáo tài chính trên các khía cạnh trọng yếu, tức
là không đạt được mục tiêu kiểm toán đối với khách hàng.
3. Đặc điểm của kiểm toán khoản mục chi phí sản xuất trong kiểm toán báo
cáo tài chính
Kiểm toán báo cáo tài chính là một bộ phận của hệ thống kiểm toán nói chung.
Kiểm toán báo cáo tài chính có thể được định nghĩa như sau:
“Kiểm toán Báo cáo tài chính là hoạt động đặc trưng nhất của kiểm toán nhằm
xác minh và bày tỏ ý kiến về các bảng khai tài chính do các kiểm toán viên chuyên
nghiệp tiến hành theo luật định”.
Kiểm toán báo cáo tài chính thường có hai cách tiếp cận sau:
Tiếp cận kiểm toán báo cáo tài chính theo khoản mục: Là cách kiểm toán viên phân
chia từng khoản mục hoặc nhóm khoản mục trong các bảng khai tài chính vào một
phần hành. Cách tiếp cận theo khoản mục đơn giản song hiệu quả không cao do
tách biệt những khoản mục ở những vị trí khác nhau nhưng có mối liên hệ chặt chẽ
với nhau, đồng thời việc đánh giá tác động của kiểm soát nội bộ đối với từng
khoản mục là rất khó khăn.
Tiếp cận kiểm toán báo cáo tài chính theo chu trình: Là cách kiểmtoán viên phân
chia các khoản mục, các quá trình có mối liên hệ chặt chẽ với nhau vào một chu
trình. Kiểm toán báo cáo tài chính theo chu trình khắc phục được hạn chế của kiểm
toán báo cáo tài chính theo khoản mục. Tuy nhiên, kiểm toán báo cáo tài chính

theo chu trình rất phức tạp đòi hỏi kiểm toán viên phải có trình độ nghiệp vụ cao.
Kiểm toán chi phí sản xuất vừa mang đặc điểm chung của kiểm toán báo cáo tài
chính, vừa mang đặc điểm riêng của kiểm toán khoản mục.
 Kiểm toán khoản mục chi phí sản xuất mang đặc điểm chung của kiểm toán báo
cáo tài chính
Về chức năng: Kiểm toán khoản mục chi phí sản xuất sản xuất nhằm xác minh và
bày tỏ ý kiến về tính trung thực, hợp lý và hợp pháp của khoản mục chi phí sản
xuất trên báo cáo tài chính.
Về phương pháp kiểm toán: Kiểm toán khoản mục chi phí sản xuất sử dụng kết
hợp 2 phương pháp cơ bản là kiểm toán chứng tứ và kiểm toán ngoài chứng từ.
Về trình tự kiểm toán: Kiểm toán khoản mục chi phí sản xuất được tiến hành theo
3 bước: Lập kế hoạch kiểm toán, thực hiện kiểm toán và kết thúc kiểm toán.
 Kiểm toán chi phí sản xuất mang đặc điểm riêng của kiểm toán khoản mục
Về đối tượng kiểm toán: Kiểm toán chi phí sản xuất có đối tượng là khoản mục
chi phí sản xuất. Do đó, việc kiểm toán chi phí sản xuất gắn với việc kiểm tra tính
đúng đắn và hợp lý trong quá trình lập và luân chuyển chứng từ về chi phí sản
xuất,tính chính xác trong quá trình tính toán, ghi chép sổ sách về chi phí sản xuất
và trình bày trên Báo cáo tài chính.
Về phương pháp kiểm toán: Kiểm toán chi phí sản xuất sử dụng kết hợp cả hai
phương pháp kiểm toán chứng từ và ngoài chứng từ nhưng chú trọng nhiều đến
phưong pháp cân đối, đối chiếu trực tiếp, đối chiếu logic. Bên cạnh đó, kiểm toán
viên còn sử dụng các phương pháp quan sát, phỏng vấn, điều tra.
Về thực hiện kiểm toán: Trong quá tình thực hiện kiểm toán khoản mục chi phí
sản xuất, kiểm toán viên thường chú ý đến một số vấn đề sau:
Thứ nhất, kiểm toán khoản mục chi phí sản xuất có liên quan đến các chỉ tiêu
tiền mặt, vật tư, hàng hoá, tiền lương…Vì vậy, kiểm toán khoản mục chi phí sản
xuất thường kết hợp với kiểm toán các phần hành có liên quan để giảm bớt khối
lượng công việc kiểm toán.
Thứ hai, các nghiệp vụ phát sinh về chi phí sản xuất có liên quan trực tiếp đến
các nghiệp vụ chi tiền, nghiệp vụ xuất vật tư, hàng hoá. Đây là những yếu tố

thường xuyên biến động, dễ xảy ra gian lận và sai sót nhất nên khoản mục chi phí
sản xuất dễ xảy ra sai phạm. Vì vậy, kiểm toán viên phải hết sức thận trọng trong
quá trình kiểm toán khoản mục chi phí sản xuất.
Thứ ba, khoản mục chi phí sản xuất ảnh hưởng trực tiếp đến các chỉ tiêu trên
Bảng cân đối kế toán và Báo cáo kết quả kinh doanh. Vì vậy, khoản mục chi phí
sản xuất được đánh giá là trọng yếu trong quá trình kiểm toán.
II. MỤC TIÊU VÀ TRÌNH TỰ KIỂM TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT TRONG
KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH
1. Mục tiêu của kiểm toán chi phí sản xuất
Mục tiêu kiểm toán tổng quát theo chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 200,
đoạn 11 xác định: “Mục tiêu kiểm toán báo cáo tài chính là giúp cho kiểm toán viên
và công ty kiểm toán đưa ra ý kiến xác nhận rằng báo cáo tài chính có được lập
trên cơ sở chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành (hoặc được chấp nhận), có tuân
thủ pháp luật liên quan, có phản ánh trung thực và hợp lý tình hình tài chính trên
các khía cạnh trọng yếu hay không?”.
Đây là mục tiêu tổng quát của cuộc kiểm toán báo cáo tài chính . Mục tiêu
tổng quát này được cụ thể hoá thành các mục tiêu như tính hợp lý chung, tính hiện
hữu, tính đầy đủ, tính giá, quyền và nghĩa vụ, trình bày và khai báo.
Trong quá trình thực hiện kiểm toán, ngoài việc phải xác định chính xác các
mục tiêu cụ thể, kiểm toán viên còn phải gắn các mục tiêu đó vào từng phần hành
kiểm toán để xây dựng hệ thống mục tiêu đặc thù. Việc xác định mục tiêu kiểm
toán đặc thù cho mỗi phần hành, khoản mục cụ thể là một công việc quan trọng,
góp phần nâng cao hiệu quả của cuộc kiểm toán đồng thời có thể giúp làm giảm rủi
ro kiểm toán xuống mức thấp nhất. Trên cơ sở các mục tiêu kiểm toán đặc thù cho
từng khoản mục, kiểm toán viên tiến hành các thủ tục để khẳng định mục tiêu kiểm
toán đó có được đơn vị khách hàng tuân thủ hay không, từ đó tìm ra các sai phạm.
Như đã trình bày, chi phí sản xuất bao gồm các yếu tố chi phí nguyên vật liệu
trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung. Do vậy, việc kiểm
toán chi phí sản xuất được tiến hành dựa trên cơ sở kiểm toán đối với những khoản
mục này.

Kiểm toán khoản mục chi phí sản xuất trong kiểm toán báo cáo tài chính thường
hướng tới các mục tiêu đặc thù sau:
Tính hiện hữu: Các nghiệp vụ kinh tế phát sinh về chi phí sản xuất đã được ghi
sổ là có thật và có căn cứ hợp lý.
Tính đầy đủ: Tất cả các nghiệp vụ kinh tế liên quan đến chi phí sản xuất trong
kỳ đều phải được phản ánh trên sổ sách kế toán của đơn vị một cách đầy đủ, đúng
kỳ và đảm bảo không có sai sót trọng yếu phát sinh.
Tính chính xác: Các khoản chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ phải được phản
ánh đúng với giá trị thực của nó và phù hợp với các chứng từ gốc đi kèm. Việc kết
chuyển số liệu giữa các sổ kế toán và Báo cáo tài chính phải được thực hiện một
cách chính xác và phù hợp với các nguyên tắc kế toán.
Tính tuân thủ: Việc áp dụng các quy định, chính sách về chi phí sản xuất phải
nhất quán giữa các kỳ, hạch toán chi phí sản xuất phải tuân thủ các chuẩn mực,
chế độ kế toán hiện hành.
Trình bày và khai báo: Các nghiệp vụ chi phí sản xuất phát sinh phải được trình
bày đúng tài khoản. Việc kết chuyển số liệu giữa các sổ kế toán và Báo cáo tài
chính phải được thực hiện một cách chính xác và phù hợp với các nguyên tắc kế
toán.
2. Quy trình kiểm toán chi phí sản xuất
Như đã trình bày ở trên, kiểm toán chi phí sản xuất là kiểm toán một khoản mục
trong kiểm toán báo cáo tài chính. Vì vậy, trình tự kiểm toán khoản mục chi phí sản
xuất mang đặc điểm chung của kiểm toán báo cáo tài chính, đồng thời có những
đặc điểm riêng của kiểm toán khoản mục. Tính chất riêng có của kiểm toán khoản
mục chi phí sản xuất được thể hiện cụ thể trong từng giai đoạn kiểm toán.
Kiểm toán khoản mục chi phí sản xuất được tiến hành qua 3 giai đoạn: Lập kế
hoạch kiểm toán, thực hiện kiểm toán và kết thúc kiểm toán.
2.1. Lập kế hoạch kiểm toán khoản mục chi phí sản xuất
Lập kế hoạch kiểm toán là giai đoạn đầu tiên trong quy trình kiểm toán, có mục
đích tạo ra các tiền đề về cơ sở pháp lý, tài liệu, vật chất, nhân lực và các điều kiện
khác trước khi thực hiện kiểm toán. Việc lập kế hoạch kiểm toán đã được quy định

trong Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 300, đoạn 2 là: “Kiểm toán viên và công
ty kiểm toán cần lập kế hoạch kiểm toán để có thể đảm bảo được rằng cuộc kiểm
toán được tiến hành một cách có hiệu quả”. Trong giai đoạn này, kiểm toán viên
cần thực hiện các bước công việc sau:
Bước 1: Chuẩn bị kế hoạch kiểm toán khoản mục chi phí sản xuất
Chuẩn bị kế hoạch kiểm toán nhằm mục đích xác lập cơ sở pháp lý, xác đích các
mục tiêu, phạm vi kiểm toán cùng các điều kiện về nhân lực, vật lực cho cuộc kiểm
toán
Khi tiếp nhận Thư mời kiểm toán, công ty kiểm toán cần đánh giá khả năng
chấp nhận kiểm toán thông qua xem xét hệ thống kiểm soát nội bộ, tính liêm chính
của Ban quản lý và liên lạc với kiểm toán viên tiền nhiệm.
Nếu chấp nhận thư mời kiểm toán, công ty kiểm toán sẽ cử kiểm toán viên
xuống đơn vị theo yêu cầu của khách hàng. Kiểm toán viên đó phải có trình độ,
năng lực và sự hiểu biết về lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh của khách hàng. Kiểm
toán viên cũng phải bảo đảm tính độc lập với khách hàng về lợi ích kinh tế và quan
hệ xã hội. Trên cơ sở đó, kiểm toán viên thay mặt công ty kiểm toán cùng khách
hàng ký Hợp đồng kiểm toán mà thực chất là một hợp đồng kinh tế.
Sau khi ký kết Hợp đồng kiểm toán làm căn cứ pháp lý cho cuộc kiểm toán,
kiểm toán viên xác định các mục tiêu của cuộc kiểm toán. Đây là bước rất quan
trọng vì nó xác định cái đích cần đạt tới và là thước đo đánh giá kết quả cuộc kiểm
toán.
Sau khi xác định được mục tiêu bao trùm của cuộc kiểm toán viên, kiểm toán
viên cần xác định đối tượng kiểm toán là các báo cáo tài chính hay một quy trình
nghiệp vụ, một hoạt động…. Tiếp đó cần xác định phạm vi kiểm toán. Đó là sự
giới hạn về không gian và thời gian của đối tượng kiểm toán.
Sau khi xác định được đối tượng, mục tiêu, phạm vi kiểm toán, công ty kiểm
toán sẽ chỉ định nhóm kiểm toán. Đó là những người có trình độ tương xứng và
độc lập với khách hàng. Trong Chuẩn mực Kiểm toán quốc tế có đưa ra yêu cầu
đối với kiểm toán viên là: Khả năng của kiểm toán viên, tính chính trực, khách
quan và độc lập, tính thận trọng nghề nghiệp. Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số

200 cũng quy định các yêu cầu đối với một kiểm toán viên khi tham gia kiểm toán,
đó là: Tuân thủ pháp luật của Nhà nước, tuân thủ nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp,
tuân thủ chuẩn mực kiểm toán, có thái độ hoài nghi nghề nghiệp.
Bước 2: Thu thập thông tin
Bước công việc này khá quan trọng giúp kiểm toán viên hiểu khái quát về
khách thể kiểm toán. Trong Chuẩn mực Kiểm toán quốc tế (ISA) 310 chỉ rõ: “Để
thực hiện công tác kiểm toán tài chính, chuyên gia kiểm toán phải hiểu biết đầy đủ
về hoạt động của đơn vị được kiểm toán để xác định và hiểu được các sự kiện,
nghiệp vụ và cách làm việc của đơn vị, mà theo đánh giá của kiểm toán viên có thể
có một tác động quan trọng đến các báo cáo tài chính, đến việc kiểm toán hoặc đến
báo cáo kiểm toán”.
Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 310 - Hiểu biết về tình hình kinh doanh
của khách hành có nêu: “Khi thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán viên
phải nắm được tình hình kinh doanh của đơn vị để có thể nhận thức và xác định các
sự kiện, nghiệp vụ và thực tiễn hoạt động mà theo đánh giá của kiểm toán viên có
thể ảnh hưởng trọng yếu đến báo cáo tài chính, đến việc kiểm tra của kiểm toán
viên hoặc đến báo cáo kiểm toán”.
Trong bước này, kiểm toán viên cần thu thập thông tin cơ sở và thông tin về
nghĩa vụ pháp lý của khách hàng. Thu thập thông tin cơ sở có mục đích giúp kiểm
toán viên hiểu được một cách tổng quát lĩnh vực hoạt động và tình hình sản xuất
kinh doanh của đơn vị khách hàng. Các thông tin này có thể được thu thập từ nhiều
nguồn khác nhau như: Tham quan nhà xưởng, xem xét các tài liệu của công ty,
phỏng vấn nhân viên của công ty, nhận diện các bên có liên quan, trao đổi với kiểm
toán viên năm trước hoặc tham khảo ý kiến của các chuyên gia bên ngoài.
Kết quả cần thu thập được trong bước này nhằm giải đáp những câu hỏi doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực gì, sản xuất những hàng hoá gì, công nghệ sản
xuất ra sao, quy mô của doanh nghiệp như thế nào, hoạt động của doanh nghiệp ra
sao….
Thu thập thông tin về nghĩa vụ pháp lý của khách hàng nhằm mục đích giúp
kiểm toán viên hiểu được những căn cứ cho sự hiện diện của khách hành trong nền

kinh tế như doanh nghiệp thành lập theo quyết định nào, cơ quan nào cấp, laọi hình
doanh nghiệp, laọi hình sở hữu, cơ cấu tổ chức…Kiểm toán viên có thể thu thập từ
các nguồn thông tin như: Quyết định thành lập công ty, quy chế, nội quy công ty,
Biên bản họp hội đồng quản trị, họp cổ đông, các hợp đồng kinh tế, các báo cáo
ngành, phỏng vấn Ban giám đốc, nhân viên công ty….
Tuy nhiên, việc thu thập các thông tin về đơn vị chỉ cho phép kiểm toán viên
hiểu được doanh nghiệp theo “chiều rộng” mà chưa hiểu được theo “chiều sâu” và
nó chỉ hướng tới việc đưa ra các bước kiểm toán chứ chưa đặt ra mục tiêu thu thập
bằng chứng cho kết luận của kiểm toán viên.
Trong kiểm toán khoản mục chi phí sản xuất , kiểm toán viên cần thu thập
thông tin về quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm, đặc điểm về chi phí sản xuất,
các quy định về quản lý và kiểm soát nội bộ đối với chi phí sản xuất, các thông tin
về phân cấp quản lý chi phí sản xuất tại đơn vị được kiểm toán. Ngoài ra, kiểm
toán viên cần xem xét nội dung kiểm toán khoản mục chi phí sản xuất của năm
trước (nếu có).
Bước 3: Thực hiện các thủ tục phân tích sơ bộ
Thực hiện các thủ tục phân tích sơ bộ là việc kiểm toán viên phân tích các số
liệu, thông tin, các tỷ suất quan trọng, qua đó tìm ra xu hướng biến động và tìm ra
những mối quan hệ có mâu thuẫn với các thông tin có liên quan khác hoặc có sự
chênh lệch lớn so với giá trị đã dự kiến.
Các thủ tục phân tích sơ bộ thường được thực hiện ở cả 3 bước là lập kế hoạch
kiểm toán, thực hiện kiểm toán, kết thúc kiểm toán, trong đó ở giai đoạn lập kế
hoạch kiểm toán, các thủ tục phân tích sơ bộ giúp kiểm toán viên nhận diện các
vấn đề quan trọng đòi hỏi sự quan tâm đặc biệt trong quá tình kiểm toán sau này.
Ngoài ra, kiểm toán viên còn xác định được rủi ro tiềm tàng liên quan đến các
khoản mục. Việc thực hiện các thủ tục phân tích sơ bộ bao gồm một số bước từ xây
dựng mục tiêu phân tích, thiết kế các thủ tục phân tích, tiến hành phân tích và đưa
ra kết luận. Xây dựng mục tiêu phân tích là nhằm kiểm tra các biến động và kiểm
tra tính hợp lý của các thông tin thích đáng khác hay kiểm tra các biến động có
chênh lệch lớn so với giá trị dự kiến. Trên cơ sở mục tiêu phân tích, cần thiết kế

các thủ tục phân tích. Các thủ tục phân tích được kiểm toán viên sử dụng gồm 2
loại:
Phân tích ngang: là việc phân tích dựa trên cơ sở so sánh các trị số của cùng
chỉ tiêu trên báo cáo tài chính. Các chỉ tiêu được sử dụng bao gồm: So sánh số liệu
của kỳ này với kỳ trước, so sánh số liệu thực tế với định mức, so sánh số liệu của
doanh nghiệp với số liệu chung của ngành.
Phân tích dọc: là việc phân tích dựa trên cơ sở so sánh các tỷ lệ tương quan
qua chỉ tiêu và các khoản mục khác nhau trên báo cáo tài chính. Các tỷ suất tài
chính thường dùng trong phân tích dọc có thể là các tỷ suất về khả năng thanh
toán, các tỷ suất sinh lời…..
Sau khi các thủ tục phân tích được thiết kế, kiểm toán viên tiến hành phân tích.
Việc phân tích đó có thể cho kiểm toán viên biết về xu hướng tăng, giảm của thông
tin, tính hợp lý của thông tin.
Đối với phần hành chi phí sản xuất, kiểm toán viên tiến hành so sánh số liệu
trên các sổ kế toán về chi phí sản xuất với số kế hoạch của đơn vị hoặc số liệu ước
tính của kiểm toán viên, so sánh số liệu về chi phí sản xuất của năm nay với năm
trước, sử dụng các tỷ suất như:
Tỷ suất lãi gộp = Tổng lãi gộp / Tổng doanh thu
Tỷ lệ vòng quay hàng tồn kho =Tổng giá vốn hàng bán / Bình quân hàng tồn
kho
Bước 4: Tìm hiểu sơ bộ hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng đối với chi
phí sản xuất
Chi phí sản xuất là một khoản chi phí chiếm tỷ trọng tương đối lớn trên Báo
cáo tài chính của doanh nghiệp (đặc biệt là đối với những doanh nghiệp sản xuất).
Để có thể kiểm soát tốt chi phí sản xuất, các doanh nghiệp thường thiết lập hệ
thống kiểm soát nội bộ theo sự vận động của chi phí. Hệ thống kiểm soát nội bộ
đối với chi phí sản xuất tại các doanh nghiệp thường bao gồm các yếu tố sau:
Bộ phận quản lý sản xuất và các chính sách về quản lý sản xuất:
Bộ phận quản lý sản xuất phải đảm bảo xuyên suốt từ trên xuống dưới và phải
được thiết lập từ bộ phận quản lý cấp cao như: Phòng Kế hoạch, Phòng Quản lý

sản xuất, Phòng Kiểm tra chất lượng, các phân xưởng, tổ đội sản xuất…Các bộ
phận và từng cá nhân trong bộ phận này cần được phân định rõ quyền hạn, trách
nhiệm trong công tác quản lý chi phí sao cho phù hợp với đặc điểm sản xuất kinh
doanh, đặc điểm quy trình công nghệ, phương thức và trình độ quản lý của doah
nghiệp.
Các chính sách về quản lý sản xuất trong doanh nghiệp được xây dựng từ giai
đoạn cung cấp các nguồn lực cho sản xuất đến giai đoạn kết thúc sản xuất, bao
gồm:
Chính sách về xuất vật tư cho sản xuất như: vật tư xuất kho phải có phiếu yêu
cầu sử dụng vật tư và có sự phê chuẩn của bộ phận sản xuất
Chính sách về theo dõi thời gian làm việc và chính sách tính lương cho công
nhân viên như: tính lương theo sản phẩm hoàn thành, theo thời gian….
Đối với các doanh nghiệp lớn thì một yêu cầu cơ bản nhất là phải xây dựng
được hệ thống tiêu chuẩn để kiểm soát chi phí. Doanh nghiệp phải xây dựng được
định mức kinh tế kỹ thuật về tiêu hao vật tư và lao động cho từng loaị sản phẩm và
từng công đoạn chế biến sản phẩm. Các định mức chi phí này luôn phải được thiết
lập phù hợp với dây truyền công nghệ và được theo dõi định kỳ bởi bộ phận quản
lý sản xuất. Các chi phí sản xuất thực tế phát sinh được so sánh với định mức nhằm
phát hiện những biến động bất thường để từ đó ra những quyết định kịp thời.
Ngoài ra, để kiểm soát tốt được chi phí sản xuất, các doanh nghiệp cần có các
quy định về việc ghi chép sổ sách tại các bộ phận sản xuất và các quy định về kiểm
tra tại các tổ đội sản xuất.
Hệ thống kế toán:
Đây là yếu tố quan trọng trong hệ thống kiểm soát nội bộ, bao gồm hệ thống
chứng từ kế toán, hệ thống tài khoản kế toán, hệ thống sổ kế toán chi phí, báo cáo
chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm, các chính sách kế toán liên quan đến chi
phí sản xuất.
Chứng từ kế toán là vật mang tin, chứng minh cho nghiệp vụ kinh tế đã thực
sự phát sinh và hoàn thành. Các chứng từ sử dụng trong hạch toán chi phí sản xuất
bao gồm:

Các chứng từ vật tư: Yêu cầu sử dụng vật tư, Phiếu xuất kho, Phiếu báo vật tư
còn lại…
Các chứng từ về tiền lương: Bảng chấm công, Bảng thanh toán tiền lương,
tiền thưởng, Phiếu bảo hiểm xã hội…
Chứng từ về tài sản cố định: Bảng tính khấu hao, Bảng phân bổ khấu hao….
Các chứng từ dịch vụ mua ngoài: Hoá đơn tiền điện, tiền nước….
Ngoài ra, còn một số chứng từ khác như Bảng phân bổ tiền lương, Bảng phân
bổ nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ…
Các chứng từ này phải được lập một cách rõ ràng và trung thực, phản ánh đúng
nội dung, bản chất của nghiệp vụ kinh tế phát sinh và tuân thủ theo đúng quy định
về trình tự luân chuyển chứng từ. Các yếu tố trên chứng từ phải đảm bảo đầy đủ,
gạch bỏ phần bỏ trống, không tẩy xoá, sửa chữa. Trong mọi trường hợp, tính liên
tục trên các chứng từ cần phải được tuân thủ.
Phương thức hạch toán chi phí sản xuất: Các nghiệp vụ kinh tế liên quan đến
chi phí sản xuất phát sinh phải được hạch toán đúng vào tài khoản trên cơ sở quy
trình hạch toán như sau:
Sơ đồ 01: Sơ đồ hạch toán chi phí sản xuất
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
Chi phí nguyên nhân công trực tiếp
Chi phí sản xuất chung
Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang
Hàng tồn kho
Giá vốn hàng bán
Kết chuyển chi phí
nguyên vật liệu trực tiếp
Kết chuyển chi phí
nhân công trực tiếp
Kết chuyển chi phí
sản xuất chung
Nhập kho hoặc gửi bán

Tiêu thụ thẳng không qua kho


Hệ thống sổ kế toán: Hiện nay có 4 hình thức ghi sổ là Nhật ký chung, Chứng
từ ghi sổ, Nhật ký chứng từ, Nhật ký sổ cái. Tuỳ từng điều kiện thực tế, các doanh
nghiệp có thể lựa chọn một trong các hình thức sổ trên, đồng thời mở sổ chi tiết
theo từng đối tượng tập hợp chi phí. Các sổ kế toán cơ bản về chi phí sản xuất bao

×