LÍ LUẬN CHUNG VỀ CHO VAY TÀI TRỢ GIẢI QUYẾT VIỆC
LÀM
1.1. GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM, SỰ CẦN THIẾT CỦA CHƯƠNG TRÌNH
CHO VAY TÀI TRỢ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM (CVTTGQVL)
1.1.1. Lý luận chung về lao động, việc làm và thất nghiệp
Từ xa xưa, loài người đã tách khỏi thế giới loài vật khi biết tìm lửa để sưởi ấm
và nấu chín thức ăn, biết nuôi trồng để có thức ăn dự trữ,... Và cho tới tận bây giờ
lao động vẫn là ... và nghĩa vụ của mỗi con người ở độ tuổi lao động bởi lao động
giúp con người tồn tại và phát triển.
Lịch sử loài người đã ghi nhận tính xã hội hoá cao của lao động kéo theo đó là
tính xã hội hoá cao của việc làm. Do đó, phải có sự nhận thức đúng đắn về vấn đề
việc làm.
Trên thế giới có rất nhiều quan niệm khác nhau về việc làm.
- Theo tiến sĩ Sonhin và PTS.G.Rin Xốp (người Nga) thì: "Việc làm là sự
tham gia của người có khả năng lao động vào một hoạt động xã hội có ích trong
khu vực xã hội hoá của sản xuất, trong học tập, trong công việc nội trợ, trong kinh
tế phụ của các nông trang viên".
- Hay theo Ghi-Hân-Tô ở Viện phát triển Hải ngoại Luân Đôn định nghĩa:
"Việc làm theo nghĩa rộng là toàn bộ các hoạt động kinh tế của một xã hội, nghĩa là
tất cả những gì quan hệ cách kiếm sống của con người, kể cả các quan hệ xã hội và
các tiêu chuẩn hành vi tạo thành khuôn khổ của quá trình kinh tế".
Hai quan điểm trên ngoài tính tích cực đã bộc lộ sự bất hợp lý. Quan điểm thứ
nhất công nhận học tập cũng là lao động nhưng những người lao động lại không
tạo ra được thu nhập để nuôi sống được bản thân thì chưa được gọi là lao động.
Còn quan điểm 2 lại làm mọi người lẫn lộn giữa việc làm hợp pháp và không hợp
E
U N N
Dân số trong tuổi lao động qui định
- Chủ động tìm việc- Sẵn sàng tìm việcKhông chủ động tìm việc
Muốn làm việc Không muốn làm việc
Không có việc làmCó việc làm
Lực lượng lao động Không thuộc lực lượng lao động
pháp. Khi mà tệ nạn xã hội còn là vấn đề bức bách trong xã hội hiện đại thì khó mà
thừa nhận quan niệm này.
Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, quan niệm về việc làm cũng thay
đổi một cách căn bản. Tại Hội nghị quốc tế lần thứ 13 (1983) tổ chức lao động quốc tế
(ILO) đã đưa ra khái niệm: "Người có việc làm là những người làm một việc gì đó có
được trả công, lợi nhuận hoặc được thanh toán bằng hiện vật, hoặc những người tham
gia vào các hoạt động mang tính chất tự tạo việc làm vì lợi ích hay vì thu nhập gia đình
không được nhận tiền công hoặc hiện vật lao động".
Trên cơ sở vận dụng khái niệm đúng đắn trên và nghiên cứu cụ thể điều kiện ở Việt
Nam, trong chương 2 điều 13 của "Bộ Luật lao động" của nước ta đã ghi rõ "Việc làm là
mọi hoạt động tạo ra nguồn thu nhập mà không bị pháp luật ngăn cấm".
Hàng ngày có 1 số người mất việc, bỏ việc, song cũng có 1 số người tìm được
việc làm, sự biến đổi lên xuống tự nhiên đó quyết định tới tỷ lệ lưu lượng lao động
có việc làm.
Nhưng có phải cứ không có việc làm là thất nghiệp. Ta cần phải xem xét kỹ
lưỡng về vấn đề này qua sơ đồ sau của tổ chức lao động quốc tế ILO:
Cơ cấu về lực lượng lao động
Mất việc
Không thuộc lực lượng lao động
Tìm được việc
Người có việc Thất nghiệp
Tham gia LV
Về hưu, tạm ngừng làm việc
Tái nhập hoặc nhập mới
Không hứng thú làm việc
E: Người có việc làm N: Người không tham gia hoạt động kinh tế
U: Người thất nghiệp
Theo sơ đồ trên ta có 1 số khái niệm như sau:
- Thất nghiệp là người trong độ tuổi lao động có sức lao động chưa có việc
làm nhưng chưa tìm được việc làm.
Người cần giải quyết việc làm là người có sức lao động, có ... làm việc, có
khả năng lao động nhưng không có việc làm, không có vốn đầu tư để tạo việc làm.
Ta có thể thấy rõ khái niệm thất nghiệp trong sơ đồ các luồng lưu thông của
thị trường lao động sau:
Theo sơ đồ trên thì một người có thể được coi là người có việc, thất nghiệp
hoặc không thuộc lực lượng lao động. Cần phải phân định rõ ranh giới giữa những
khái niệm đó để thực hiện chương trình CVTTGQVL một cách có hiệu quả.
Với mục đích phân tích sâu sắc hơn thực trạng thất nghiệp, từ đó tìm ra
phương hướng giải quyết giảm thất nghiệp, tăng việc làm ta cần hiểu rõ nguồn gốc
của thất nghiệp. Muốn vậy ta nghiên cứu 4 loại thất nghiệp:
+ Thất nghiệm tạm thời: Là loại thất nghiệp nảy sinh khi người lao động luôn
không hài lòng với công việc mình đang làm mà muốn tìm kiếm một công việc
hoặc nơi làm việc khác hơn.
+ Thất nghiệp cơ cấu: Xảy ra khi cơ cấu sản xuất có sự thay đổi, sự mất cân
đối cung cầu giữa các loại lao động, khả năng điều chỉnh cung của thị trường lao
động không theo kịp nhu cầu. Loại thất nghiệp này trở nên trầm trọng khi nó biến
động mạnh và kéo dài.
+ Thất nghiệp thiếu cầu: (Thất nghiệp kiểu Keynes): Do sự suy giảm của tổng
cầu kéo theo mức cầu chung về lao động giảm xuống, tiền lương và giá cả chưa
điều chỉnh kịp để phục hồi mức hữu nghiệp toàn phần, khoảng cách giữa đường
cầu lao động mới và đường cầu lao động cũ là thất nghiệp thiếu cầu. Nó gắn liền
với thời kỳ suy thoái của chu kỳ kinh doanh. Dấu hiệu chứng tỏ sự xuất hiện của
loại thất nghiệp này là tình trạng thất nghiệp xảy ra tràn lan khắp mọi nơi, mọi
ngành.
+ Thất nghiệp lý thuyết cổ điển: Loại thất nghiệp này xảy ra khi có sự tác động
của yếu tố ngoài thị trường (ví dụ: ... khoán chi, tinh giảm biên chế), làm cho thị
trường lao động không cân bằng. Khi tiền lương tối thiểu qui định cao hơn mức
cân bằng của thị trường lao động, khoảng cách từ đường cầu lao động tới đường
cung lao động là thất nghiệp theo lý thuyết cổ điển.
1.1.2. Sự cần thiết và cấp thiết của chương trình CVTTGQVL.
Cho vay tài trợ là một phạm trù kinh tế để chỉ các khoản cho vay mà người đi
vay được hưởng những ưu đãi nào đó nhưng thông thường nhất là lãi suất nhẹ và
thời hạn cho vay dài để trợ giúp phát triển kinh tế.
1.1.2.2. Tính cấp thiết của vấn đề giải quyết việc làm trong xã hội:
Không chỉ cần thiết trên mặt lý luận và trong thực tế giải quyết việc làm
(GQVL) là 1 vấn đề cấp thiết đối với mọi quốc gia nói chung và các nước đang
phát triển nói riêng, nó là mục tiêu cơ bản của quản lý kinh tế vĩ mô.
Do đổi mới cơ chế quản lý, phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo
cơ chế thị trường theo định hướng XHCN nước ta đã đạt được những thành tựu
đáng kể về vấn đề GQVL góp phần ổn định tình hình kinh tế xã hội, đưa nền kinh
tế thoát khỏi khủng hoảng và có những bước phát triển với tốc độ khá nhanh.
Tỷ lệ thất nghiệp giảm từ 9-10% năm 1989-1990 xuống còn 6,08% năm 1994;
5,885 năm 1996 và 6,01% năm 1997. Từ năm 1991-1997 đã có trên 7,2 triệu người
được GQVL hoặc hỗ trợ ổn định việc làm.
Trong vấn đề GQVL thì vai trò của Nhà nước bằng cơ chế, chính sách, bằng
nguồn lực tài chính tập trung của mình là vô cùng cần thiết. Những năm qua trong
quá trình đổi mới Chính phủ đã đưa ra chương trình cho vay từ quỹ quốc gia hỗ trợ
việc làm theo Nghị quyết 120/HĐBT. Qua 9 năm thực hiện chương trình đã đạt
được nhiều kết quả đáng kể. Tuy vậy, vấn đề GQVL vẫn là 1 bức xúc của Nhà
nước và của xã hội bởi những lý do sau:
Biểu 1: Dân số và nguồn lao động 1996 - 2000
Năm
Khu vực
1996 1997 1998 1999 2000
Dân số cả nước 75.602 77.190 78.789 80.420 82.078
- Tổng số trong độ tuổi lao động 41.253 42.478 43.733 45.069 46.377
% so với dân số 54,56 55,03 55,51 56 56,5
- Chia theo nam, nữ
+Nam 20,445 21.065 21.704 22.362 23.044,5
% so với tổng số 49,56 49,59 49,62 49,65 49,69
+ Nữ 20.808 21.413,27 22.036,12 22.677,1 23.332
% so với tổng số 50,44 50,41 50,38 50,35 50,31
- Chia theo thành thị, nông thôn
+ Thành thị 9.282 9.812,93 10.374,24 10.967,65 11.545
% so với tổng số 22,5 23,1 23,74 24,35 25
+ Nông thôn 31.971 32.665,3 33.365,6 34.071,23 34.781,53
% so với tổng số 67,75 76,9 76,28 75,65 75
Từ biểu sau ta có thể rút ra kết luận: Nước ta dân số thuộc loại đông (trên 80
triệu người). Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên còn cao. Mỗi năm gia tăng khoảng 1,4 triệu
người, chủ yếu ở nông thôn. Tính đến năm 2000 có khoảng trên 40 triệu người
trong lực lượng lao động, số lao động mới tăng thêm khoảng trên 4 triệu người do
phần lớn lực lượng lao động ở Việt Nam là lao động trẻ. Mặc dù số lượng lao động
của Việt Nam khá lớn nhưng nguồn lao động này chưa được sử dụng có hiệu quả.
Thất nghiệp ở nước ta nghiêm trọng về mức độ và phức tạp ở biểu hiện. Theo kết
quả điều tra lao động và việc làm cả nước của Bộ Lao động thương binh & xã hội
ngày 1/7/1998, tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị trong cả nước có xu hướng
tăng lên qua các năm 1996, 1997 và 1998 (năm 1998 là 6,85% so với 6,01% năm
1997 và 5,88% năm 1996). Trong số 61 tỉnh, thành phố, 4 tỉnh có tỷ lệ thất nghiệp
ở mức báo động trên 8% là Hà Nội, Hải Phòng, Thái Bình và Hà Tây. Tính trong 4
năm (1997-2000) trong cả nước có khoảng 8 triệu người cần GQVL.
Hai là, chất lượng lao động thấp, cơ cấu đào tạo chưa hợp lý.
Hiện trạng nước ta vẫn tồn tại là thất nghiệp không phải do thiếu công việc
mà là do chất lượng nguồn lao động nước ta quá thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu
của công việc. Vì vậy, đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực có ý nghĩa vô cùng
quan trọng để GQVL hiện nay.
Về trình độ học vấn: Theo kết quả điều tra của Bộ LĐTB & XH toàn quốc có
khoảng 32,06% lực lượng lao động tốt nghiệp cấp II; 13,4% tốt nghiệp cấp III và
còn 26,7% chưa tốt nghiệp cấp I và chưa biết chữ. Ở nông thôn tỷ lệ trên còn thấp
hơn khoảng 29,2%.
- Về trình độ chuyên môn kỹ thuật: Trình độ tay nghề của lực lượng lao động
nước ta hiện tại chưa đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế và lại càng khó khăn
để có thể đáp ứng yêu cầu của quá trình CNH-HĐH đất nước. Mới có khoảng 16%
lực lượng lao động qua đào tạo trong khi đó tỷ lệ này ở các nước khoảng 40-50%.
- Cơ cấu đào tạo ở nước ta lại càng mất cân đối. Nhìn chung ở các nước thì cứ
1 trình độ đại học có 5 trung học và 10 công nhân lành nghề. Nhưng ở nước ta lại 1
đại học có 1,6 trung học và 3,6 công nhân lành nghề (trong tổng số lao động kỹ
thuật). Đây chính là nguyên nhân đưa đến tình trạng lao động thừa về số lượng và
thiếu về chất lượng.
Ba là, những bất hợp lý trong phân bố lao động theo ngành và lãnh thổ:
Trước hết cơ cấu lao động nước ta còn vô cùng lạc hầu: lao động công nghiệp
xây dựng chiếm trên 10%, lao động dịch vụ thương mại khoảng 20% và lao động
nông nghiệp xấp xỉ 70%. Tuy lao động nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn nhưng
nông nghiệp nước ta lại bị hạn chế bởi diện tích đất canh tác ít, năng suất lao động
thấp, khả năng tích luỹ để đầu tư phát triển ít,... Ngoài ra lực lượng lao động của
nước ta phân bố chưa đồng đều theo lãnh thổ: lao động kỹ thuật, tay nghề cao
trong nông nghiệp, lâm nghiệm, thuỷ sản rất thấp và tập trung ở những vùng nông
thôn. Lao động có kỹ thuật chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn (xem biểu 1).
Tình trạng di dân tự do tìm việc làm ngày càng tăng đã thành 1 vấn đề bức xúc của
xã hội nhất là vấn đề lao động nông thôn tràn vào các đô thị lớn tìm kiếm việc làm
gây ra rất nhiều tệ nạn xã hội nhức nhối. Đây là nguyên nhân mà tỷ lệ thất nghiệp
cao ở các thành thị của nước ta.
Bốn là, sự tác động của các nhân tố bên ngoài đến lao động và việc làm.
* Tác động trong nước:
Nhân tố thứ nhất là sự xuất hiện nhu cầu việc làm đối với những người ở
ngoài độ tuổi lao động. Nhu cầu trên ngày càng cao do kinh tế thị trường với sự
điều tiết của Nhà nước, thị trường lao động sẽ phát triển nhanh, việc quản lý lao
động của các ngành công nghiệp sẽ từng bước được nới lỏng, xuất hiện hiện tượng
những người về hưu trước hạn lại đi làm trở lại. Có 2 trường hợp: những người vừa
làm chính vừa làm những công việc thêm hoặc những người đã nghỉ hưu lại đi làm.
Như vậy, họ sẽ lấy mất phần công việc của những người đang trong lực lượng
lao động. Do vậy, Nhà nước không những tạo cơ hội tìm việc cho người đến tuổi
lao động mà còn phải GQVL cho cả những người ngoài độ tuổi lao động.
Thứ hai: tác động của vấn đề cải cách các doanh nghiệp Nhà nước. Thực hiện
giảm biên chế, tổ chức lại cơ cấu lao động và tiền vốn, thực hiện "khoán chi" làm
tăng thất nghiệp. Năm 1990 toàn quốc có 12.000 DNNN mà đến 1999 còn 5.750
DNNN. Tương ứng số công nhân viên chức giảm xuống còn khoảng 3 triệu người.
Nếu hệ số giảm biên chế là 0,2 (sau khi đã trừ số về hưu trước hạn) thì giai đoạn
2000-2015 cần phải sắp xếp việc làm cho khoảng 60 vạn lao động. Có nghĩa bình
quân mỗi năm phải sắp xếp việc làm cho hơn 4 vạn người của các ngành công hữu
đã giảm. Đây là vấn đề gây sức ép vô cùng lớn đến vấn đề GQVL.
Ngoài ra trong tương lai sự phát triển của khoa học công nghệ sẽ dẫn đến tình
trạng máy móc làm việc thay con người. Lượng lao động thừa ra cũng sẽ gây 1 ảnh
hưởng không nhỏ tới việc GQVL.
Nhân tố không thể thiếu tác động tới lao động và việc làm chính là mặt trái
của cơ chế thị trường. Trong môi trường cạnh tranh sẽ có 2 loại doanh nghiệp: loại
doanh nghiệp không thể đứng vững sẽ bị phá sản, giải thể dẫn tới tình trạng toàn
bộ lao động bị đẩy ra ngoài xã hội trở thành gánh nặng thất nghiệp. Còn loại doanh
nghiệp có thể chiến thắng trong cạnh tranh sẽ tìm mọi cách nâng cao năng suất lao
động bằng cách sàng lọc tinh giảm lao động. Điều đó đồng nghĩa với việc 1 bộ
phận lao động yếu kém và thừa của những doanh nghiệp đó sẽ trở thành thất
nghiệp.
Và nhân tố cuối cùng không thể bỏ qua là sự mai một của các làng nghề
truyền thống và quá trình đô thị hoá tác động không ít tới tình trạng thất nghiệp ở
Việt Nam. Do đó ngoài vụ mùa nông dân vẫn chơi dài và tình trạng thiếu đất trồng
trọt trong khi đời sống vô cùng thiếu thốn. Đây cũng là nguyên nhân có sự di dân
tự do từ nông thôn ra thành thị. Nhà nước cần sớm có biện pháp bảo tồn và khôi
phục những ngành nghề thủ công nghiệp truyền thống để tạo cho những người thất
nghiệp tạm thời ở nông thôn 1 lối thoát về vấn đề việc làm
* Tác động của thế giới:
Tác động của tình trạng khủng hoảng tài chính, kinh tế khu vực, kinh tế thế
giới làm cho tình trạng rút vốn đầu tư nước ngoài ồ ạt làm kinh tế trong nước lâm
vào giai đoạn khó khăn và xảy ra tình trạng mất việc hàng loạt do rút hợp đồng gia
công chế biến do sự giảm sút của thị trường tiêu thụ nước ngoài.
Thêm vào đó, sự cạnh tranh trên thị trường lao động quốc tế làm giảm lượng
nhân công xuất khẩu lao động của nước ta trong thời gian qua. Trong khi đó số
nhân công xuất khẩu lao động hết hạn đã về nước gây 1 sự dư thừa lao động.
1.1.2.1. Sự cần thiết của chương trình CVTTGQVL
Theo kinh tế học công cộng thì thất nghiệp là 1 trong những thất bại tất yếu
của nền kinh tế thị trường, hơn nữa thất nghiệp là vấn đề của toàn xã hội do đó chỉ
có sự vận động tự do của thị trường thì không thể giải quyết nổi vấn đề này mà cần
có bàn tay hữu hình của Nhà nước can thiệp. Chương trình CVTTGQVL của Nhà
nước giữ 1 vai trò quan trọng đối với nền kinh tế xã hội được thể hiện trên 1 số
khía cạnh sau:
- Đối với xã hội: CVTTGQVL phản ánh khả năng sử dụng công cụ tài chính
một cách linh hoạt, làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất trong giai đoạn quá độ ở nước ta hiện nay. Đồng thời
nó phản ánh rõ nét sự can thiệp của Nhà nước ta vào quá trình phát triển kinh tế.
Thêm vào đó, CVTTGQVL tạo điều kiện tốt cho việc thu hút lao động, nhờ vậy
tình trạng thiếu việc làm sẽ được giải quyết góp phần thắt chặt các tệ nạn xã hội
đang có nguy cơ phát triển.
Ngoài ra, CVTTGQVL sẽ kéo gần khoảng cách giàu nghèo trong xã hội, công
bằng xã hội giữa những người lao động sẽ được đảm bảo. Người lao động được
khuyến khích lao động họ sẽ cố gắng lao động tạo của cải cho xã hội. Công bằng
xã hội chính là mục tiêu của Nhà nước XHCN.
- Đối với nền kinh tế:
CVTTGQVL đóng vai trò quan trọng, nó giúp Đảng và Nhà nước ta hoàn
thiện, khắc phục được những ưu, nhược điểm ở các vùng kinh tế khác nhau, qua đó
tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển cân đối và ổn định.
CVTTGQVL là 1 đòn bẩy khá công hiệu để thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh
doanh giữa vừa và nhỏ phát triển. Thực tế ở các nước chứng minh rằng sản xuất
kinh doanh vừa và nhỏ vừa có khả năng giải quyết việc làm tốt mà không đòi hỏi
lượng vốn đầu tư lớn. Đó là loại hình hoạt động rất đa dạng, linh hoạt thích nghi
cao, con đường phát triển là từ thấp đến cao phù hợp với khả năng tích luỹ và huy
động vốn trong dân. Khi nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi, khu vực Nhà
nước đang sắp xếp lại lao động thì ... là loại hình khá hiệu quả để thu hút lao động.
CVTTGQVL theo dự án nhỏ còn góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nền
kinh tế, nhất là trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ nông thôn. Đây là 1 trong
những mục tiêu chiến lược ở công cuộc cải cách và đổi mới của Đảng và Nhà nước
ta.
- Trên giác độ tài chính:
Ý nghĩa to lớn nhất của việc tạo lập quĩ CVTTGQVL là khơi dậy được các
nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư, khuyến khích dân tự đầu tư vào sản xuất kinh
doanh và thu hút nước ngoài. Thực tế đã chứng minh nếu ngân sách Nhà nước đầu
tư 1 thì dân đầu tư gấp 2-3 lần.
Hơn nữa, trên giác độ quản lý tiền tệ, nhờ có dự án nhỏ mà đã thúc đẩy tiền
nhàn rỗi trong dân đang nằm dưới dạng cất trữ chuyển thành tiền trong lưu thông,
đầu tư vào sản xuất làm cho công tác quản lý tiền tệ của Nhà nước được tốt hơn.
- Xét trên giác độ bồi dưỡng và phát triển nguồn thu cho ngân sách Nhà nước
thì CVTTGQVL là 1 phương pháp khá tốt vì nó khai thác được tiềm năng sẵn có từ
mỗi địa phương vì có dự án được thẩm định chắc chắn. Mặt khác ngân sách Nhà
nước có hạn nên cho vay có hoàn trả là phương pháp tốt hơn là cấp phát không
hoàn trả.
Tóm lại, xét trên mọi giác độ thì CVTTGQVL là hết sức quan trọng, cần thiết
và cấp thiết trong sự phát triển kinh tế xã hội của nước ta.
1.2. QUĨ QUỐC GIA HỖ TRỢ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM VÀ QUĨ GIẢI
QUYẾT VIỆC LÀM ĐỊA PHƯƠNG
1.2.1. Chủ trương, phương hướng, biện pháp của chương trình CVGQVL
Chương trình CVQGVL là 1 chương trình lớn và lâu dài của đất nước ta nó
thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước trong việc tạo điều kiện về vốn để
người lao động phát triển sản xuất, phát huy được tiềm năng về lao động, tay nghề
truyền thống và máy móc thiết bị, kinh nghiệm sản xuất kinh doanh,... để họ ổn
định việc làm; trong việc tạo chỗ làm mới thu hút lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp
và từng bước đưa nền kinh tế nước ta phát triển 1 cách bền vững. Đảng và Nhà
nước đã xác định:
1. Chủ trương của chương trình CVQGVL là: "Tích cực giải quyết vấn đề lao
động, việc làm: nghĩa là kết hợp chương trình quỹ quốc gia GQVL với từng chương
trình, dự án phát triển kinh tế để tạo ra nhiều chỗ làm mới đặc biệt là dự án đầu tư
bằng vốn ngân sách, và đầu tư của nước ngoài. Khuyến khích phát triển doanh
nghiệp vừa và nhỏ, các làng nghề truyền thống; phát triển các ngành nghề mới ở
nông thôn để GQVL tại chỗ. Hoàn thiện cơ chế quản lý và tăng quĩ quốc gia hỗ trợ
việc làm".
Đảm bảo việc làm cho dân là mục tiêu xã hội hàng đầu. GQVL, đảm bảo cho
mọi người có khả năng lao động, có nhu cầu làm việc, và có việc làm (đặc biệt là
thanh niên, lao động nữ, lao động là người tàn tật) là trách nhiệm của mọi ngành,
mọi cấp, của Nhà nước và toàn xã hội.
2. Phương hướng của chương trình CVQGVL như sau:
Về cơ bản là phải gắn GQVL với nhiệm vụ thực hiện chiến lược phát triển
kinh tế xã hội, phát huy tiềm năng của cách thành phần kinh tế, gắn lao động với
đất đai, tài nguyên của đất nước; kết hợp giữa GQVL tại chỗ là chính với mở rộng
hoạt động để phát triển việc làm ngoài nước.
Phương hướng cụ thể hoá như sau:
Trước hết ban hành và tổ chức thực hiện hệ thống pháp luật, các chủ trương
chính sách đồng bộ nhằm thúc đẩy nền kinh tế hướng về nhập khẩu, phát triển bền
vững, phát triển các khu công nghiệp tập trung, các vùng kinh tế trọng điểm. Chú
trọng phát triển doanh nghiệp nhỏ và công nghệ sử dụng nhiều lao động. Phát triển
toàn diện kinh tế - xã hội nông thôn, nông nghiệp để thu hút nhiều lao động vào
làm việc. Thực hiện nghiêm ngặt chế độ kiểm soát chỉ tiêu sử dụng lao động; các
kế hoạch kinh tế - xã hội, các chương trình dự án kết hợp hài hoà giữa tăng trưởng
kinh tế với GQVL. Đó là hướng giải quyết việc làm cơ bản và quan trọng nhất.
Thêm nữa phải duy trì đảm bảo việc làm cho người lao động, chống sa thải
công nhân hàng loạt. Từng bước xây dựng và thực hiện chính sách bảo hiểm thất
nghiệp.
Phương hướng cuối cùng là tăng cường các hoạt động hỗ trợ trực tiếp để
GQVL cho người thấp nghiệp, người thiếu việc làm và những đối tượng yếu thế
trong thị trường lao động.
3. Biện pháp: Để thực hiện chủ trương và phương hướng trên, Đảng và Nhà
nước đã xác định biện pháp cho quá trình GQVL như sau:
- Lập quĩ quốc gia về GQVL từ các nguồn: trích một tỷ lệ nhất định trong
ngân sách Nhà nước; 1 phần từ nguồn thu do đưa lao động đi làm việc ở nước
ngoài, từ sự trợ giúp của các tổ chức quốc tế hoặc Chính phủ cho GQVL.
Quĩ sẽ có được sử dụng để: cho vay với lãi suất nâng đỡ hoặc bảo tồn giá trị
cho vay đối với hộ tư nhân, hộ gia đình, cá nhân, doanh nghiệp tạo được chỗ làm
việc mới hoặc thu hút thêm lao động, trợ giúp cho các chương trình, dự án tạo việc
làm; các trung tâm dạy nghề và dịch vụ việc làm, trung tâm áp dụng tiến bộ khoa
học kỹ thuật và chuyển giao công nghệ sử dụng nhiều lao động.