Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHO VAY TIÊU DÙNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (220.83 KB, 34 trang )

LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHO VAY TIÊU DÙNG CỦA CÁC NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.1 TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ CÁC DỊCH VỤ
NGÂN HÀNG.
1.1.1 Khái niệm cơ bản về Ngân hàng thương mại.
1.1.1.1. Khái niệm.
Ngân hàng thương mại (NHTM) được hiểu tổng quát nhất là một trung gian tài
chính hoạt động trên lĩnh vực đặc biệt đó là kinh doanh tiền tệ và các dịch vụ Ngân
hàng.
Ngày nay, với cơ chế Ngân hàng hai cấp thì Ngân hàng thương mại không còn
chức năng phát hành tiền như trước đây mà Ngân hàng thương mại chỉ còn chức
năng kinh doanh tiền tệ kiếm lãi và các dịch vụ khác liên quan đến kinh doanh tiền
tệ.
1.1.1.2. Vai trò của Ngân hàng thương mại.
Với chức năng dẫn truyền vốn từ nơi thặng dư vốn đến nơi thâm hụt vốn hay
dẫn truyền vốn từ nơi “thừa” đến nơi “thiếu” vốn. Vai trò của Ngân hàng thương
mại thể hiện ở các khía cạnh sau:
Thứ nhất: Ngân hàng là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế.
Vốn được tạo ra do tiết kiệm, tích luỹ của mỗi cá nhân, doanh nghiệp và Nhà
nước trong nền kinh tế. Vì thế, muốn có vốn phải tăng thu nhập quốc dân, để làm
được như vậy phải mở rộng sản xuất kinh doanh, đẩy mạnh sự phát triển của các
ngành trong nền kinh tế và ngược lại muốn mở rộng sản xuất kinh doanh, đẩy
mạnh sự phát triển các ngành trong nền kinh tế thì phải có vốn. Mặt khác, khi nền
kinh tế càng phát triển thì càng tạo ra nhiều vốn và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt
động của hệ thống Ngân hàng. Ngân hàng đứng ra huy động vốn nhàn rỗi từ mọi
thành phần kinh tế sau đó thông qua hoạt động tín dụng sẽ cung cấp vốn cho các
hoạt động kinh tế, sản xuất kinh doanh, đáp ứng kịp thời nhu cầu của các thành
phần kinh tế.
Thứ hai: Ngân hàng thương mại là công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền
kinh tế.
Nhà nước sẽ điều tiết vĩ mô nền kinh tế thông qua các chính sách tiền tệ và


nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng trung ương đối với các Ngân hàng thương
mại. Các Ngân hàng thương mại là trung tâm và phương tiện để thực hiện các
chính sách tiền tệ thông qua nghiệp vụ tín dụng và thanh toán. Thông qua các
nghiệp vụ này, các Ngân hàng thương mại sẽ mở rộng khối lượng cung ứng tiền tệ
trong lưu thông đáp nhu cầu sản xuất và tái sản xuất của các doanh nghiệp khi nền
kinh tế tăng trưởng, thu hẹp khối lượng tiền tệ trong lưu thông khi nền kinh tế bị
lạm phát cao.
Thứ ba: Ngân hàng thương mại là trung gian thanh toán trong nền kinh tế.
Bằng việc đưa ra các thị trường các loại hình dịch vụ như thẻ, séc, mở các tài
khoản giao dịch, chuyển tiền, các Ngân hàng đã đáp ứng được nhu cầu thanh toán
ngày càng cao, đa dạng và phức tạp của các doanh nghiệp, không những thế còn
giúp họ có thể giảm chi phí và thời gian cũng như tăng độ an toàn trong các hoạt
động kinh doanh thương mại của mình.
Thứ tư: Ngân hàng thương mại là cầu nối giữa nền tài chính quốc gia và nền tài
chính quốc tế.
Trong nền kinh tế thị trường đòi hỏi chúng ta luôn phải hội nhập kinh tế quốc
tế, mở rộng quan hệ thương mại với các nước khác trên thế giới càng trở nên cấp
bách và cần thiết. Việc phát triển của mỗi quốc gia luôn gắn với sự phát triển của
kinh tế thế giới và là một bộ phận cấu thành nên sự phát triển đó vì thế nền tài
chính của mỗi quốc gia cùng phải hoà nhập với nền tài chính quốc tế và Ngân hàng
thương mại cùng với các hoạt động kinh doanh của mình đã góp một vai trò vô
cùng quan trọng trong sự hội nhập này. Với các nghiệp vụ kinh doanh như nhận
tiền gửi, cho vay, thanh toán, nghiệp vị hối đoái và các nghiệp vụ khác, Ngân hàng
đã tạo điều kiện thúc đẩy ngoại thương không ngừng phát triển cũng như góp phần
điều tiết nền tài chính trong nước ổn định và phù hợp với nền tài chính quốc tế.
1.1.2. Chức năng cơ bản của Ngân hàng.
1.1.2.1 Trung gian tài chính.
Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyển
tiết kiệm thành đầu tư, đòi hỏi sự tiếp xúc với hai loại cá nhân và tổ chức trong nền
kinh tế: nhóm thứ nhất các cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu, tức là chi

tiêu cho tiêu dùng và đầu tư vượt qua thu nhập và vì thế họ là những người cần bổ
sung vốn; và nhóm thứ hai các cá nhân và tổ chức thặng dư trong chi tiêu, tức là
thu nhập hiện tại của họ lớn hơn các khoản chi tiêu cho hàng hoá, dịch vụ và do
vậy họ có một khoản tiền dư thừa tạm thời để tiết kiệm. Trên thực tế hai loại cá
nhân và tổ chức này hoàn toàn độc lập với Ngân hàng. Điều tất yếu là tiền sẽ
chuyển từ nhóm thứ hai sang nhóm thứ nhất nếu cả hai cùng có lợi. Như vậy thu
nhập gia tăng là động lực tạo ra mối quan hệ tài chính giữa hai nhóm. Nhưng để
hai nhóm này gặp nhau con đường ngắn nhất là có một trung gian đứng giữa để
đảm bảo điều kiện của các bên đặt ra. Và Ngân hàng đã đứng ra làm trung gian đó
và tất nhiên Ngân hàng sẽ được hưởng một khoản lợi nhuận. Ngân hàng nhận tiền
gửi từ nhóm thứ nhất với một khoản phí nhất định và cho nhóm thứ hai vay với
một khoản lãi lớn hơn để đảm bảo Ngân hàng có lãi.
1.1.2.2. Tạo phương tiện thanh toán.
Trong nền kinh tế, tiền vàng là phương tiện thanh toán cơ bản được chấp nhận
rộng rãi nhất. Và các Ngân hàng đã không tạo được tiền vàng mà tạo các phương
tiện thanh toán khi phát hành giấy nhận nợ với khách hàng dựa vào số tiền kim loại
mà Ngân hàng hiện nắm giữ. Giấy nhận nợ do Ngân hàng phát hành với ưu điểm
nhất định đã trở thành phương tiện thanh toán rộng rãi được nhiều người chấp
nhận. Như vậy, ban đầu các Ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán thay cho
tiền kim loại dựa trên số lượng tiền kim loại đang nắm giữ. Với nhiều ưu thế, dần
dần giấy nợ của Ngân hàng đã thay thế tiền kim loại làm phương tiện lưu thông và
phương tiện cất trữ; nó trở thành tiền giấy.
Ngày nay việc in tiền đã không còn được tự do như trước. Nhà nước đã tập
trung quyền lực phát hành tiền giấy vào một tổ chức: hoặc là Bộ Tài chính hoặc là
Ngân hàng Trung ương. Và trong điều kiện phát triển thanh toán qua Ngân hàng,
các khách hàng nhận thấy nếu họ có được số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán,
họ có thể chi trả để có được hàng hoá và các dịch vụ theo yêu cầu.
Khi Ngân hàng cho vay, số dư triên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách
hàng tăng lên, khách hàng có thể dùng để mua hàng và dịch vụ. Do đó, bằng việc
cho vay các Ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán. Toàn bộ hệ thống Ngân

hàng cũng tạo phương tiện thanh toán khi các khoản triền gửi được mở rộng từ
Ngân hàng này đến Ngân hàng khác trên cơ sở cho vay. Khi khách hàng tại một
Ngân hàng sử dụng khoản tiền vay để chi trả thì sẽ tạo nên khoản thu của một
khách hàng khác tại một Ngân hàng khác từ đó tạo ra các khoản cho vay mới.
Trong khi không một Ngân hàng riêng lẻ nào có thể cho vay lớn hơn dự trữ dư
thừa, toàn bộ hệ thống Ngân hàng có thể tạo ra khối lượng tiền gửi gấp bội thông
qua hoạt động cho vay.
1.1.2.3. Trung gian thanh toán.
Ngân hàng là trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết các quốc gia.
Thay mặt khách hàng, Ngân hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hoá và dịch vụ.
Để việc thanh toán nhanh chóng, thuận tiện và tiết kiệm chi phí, Ngân hàng đưa ra
cho khách hàng nhiều hình thức thanh toán như thanh toán bằng séc, uỷ nhiệm chi,
nhờ thu, các loại thẻ… cung cấp mạmg lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và
cung cấp tiền giấy khi khách hàng cần. Các Ngân hàng còn thực hiện thanh toán bù
trừ với nhau thông qua Ngân hàng Trung ương hoặc thông qua các trung tâm thanh
toán. Công nghệ thanh toán qua Ngân hàng càng đạt hiệu quả cao khi qui mô sử
dụng công nghhệ đó càng được mở rộng. Vì vậy, công nghệ thanh toán hiện đại
qua Ngân hàng thường được các nhà quản lí tìm cách áp dụng rộng rãi. Nhiều hình
thức thanh toán được chuẩn hoá góp phần tạo tính thống nhất trong thanh toán
không chỉ giữa các Ngân hàng trong một quốc gia mà còn giữa các Ngân hàng trên
toàn thế giới. Các trung tâm thanh toán quốc tế được thiết lập đã làm tăng hiệu quả
của thanh toán qua Ngân hàng, biến Ngân hàng trở thành trung tâm thanh toán
quan trọng và có hiệu quả, phục vụ đắc lực cho nền kinh tế toàn cầu.
1.1.3. Các dịch vụ Ngân hàng.
1.1.3.1 Nhận tiền gửi.
Để có tiền để cho vay, ngoài vốn tự có Ngân hàng thương mại phải huy động
vốn từ các nguồn khác nhau như là tiền nhàn rỗi của dân cư, tiền chưa sử dụng của
các doanh nghiệp và của Nhà nước dưới dạng tiền gửi thanh toán, tiền gửi tiết
kiệm. Trong quá trình nhân tiền gửi, các Ngân hàng thương mại phải trả cho khác
hàng mọi khoản lãi, đây được coi là phần thưởng cho khách hàng khi đã hi sinh

nhu cầu tiêu dùng trước mắt và cho phép Ngân hàng sử dụng tạm thời để kinh
doanh và khoản tiền đó được gọi là lãi tiền gửi và đây cũng chính là một trong
những công cụ để các Ngân hàng cạnh tranh trong quá trình huy động tiền gửi.
1.1.3.2. Mua bán ngoại tệ.
Mua bán ngoại tệ là một trong những dịch vụ quan trọng của các Ngân hàng do
tính chất không khép kính của nền kinh tế một quốc gia. Mua bán ngoại tệ nghĩa là
mua bán loại tiền này lấy một loại tiền khác để hưởng phí dịch vụ. Đây là dịch vụ
rất quan trọng giúp các doanh nghiệp có thể tiến hành các hoạt động buôn bán của
mình với nước ngoài cũng như đáp ứng nhu cầu dùng ngoại tệ của người dân.
Ngày nay hoạt động này đã mở rộng ra với rất nhiều các hình thức dịch vụ phong
phú: mua bán, trao đổi, gửi vay các loại ngoại tệ với các nghiệp vụ như giao ngay,
kỳ hạn, hoán đổi, quyền chọn và tương lai. Các Ngân hàng thương mại tham gia
giao dịch ngoại hối với hai mục đích. Thứ nhất, Ngân hàng cung cấp dịch vụ cho
khách hàng, chủ yếu là mua hộ và bán hộ cho nhóm khách hàng riêng lẻ, và Ngân
hàng thu một khoản phí. Mục đích thứ hai là Ngân hàng kinh doanh ngoại hối
nhằm kiếm lời khi tỷ giá thay đổi.
1.1.3.3 Cho vay.
Đây là hoạt động chủ yếu mang lại lợi nhuận chủ yếu nhất cho các Ngân hàng
thương mại cũng như chứa đựng nhiều rủi ro nhất đối với các Ngân hàng thương
mại. Có thể phân chia cho vay thành các loại chính sau.
Cho vay thương mại: Đây là các khoản tín dụng phục vụ cho hoạt động mua bán
trao đổi hàng hoá của các doanh nghiệp thông qua các nghiệp vụ như cho vay trực
tiếp ngắn hạn để đáp ứng nhu cầu dự trữ hàng hoá, trợ vốn lưu động và cho vay
dưới hình thức chiết khấu thương phiếu.
Cho vay tiêu dùng: Đây là loại hình cho vay dành cho người tiêu dùng là cá
nhân, hộ gia đình có nhu cầu vay để đáp ứng nhu cầu chi tiêu cho đời sống hàng
ngày. Ban đầu loại hình này không được các Ngân hàng thương mại ưa chuộng vì
họ cho rằng loại hình này rủi ro cao, nhưng sau đó, do có sư gia tăng thu nhập của
người dân cũng như sự cạnh tranh gay gắt, loại hình này đã phát triển một cách
mạnh mẽ.

Tài trợ cho dự án: Do nhu cầu mở rộng sản xuất của các doanh nghiệp, các
Ngân hàng đã phát triển cho vay trung và dài hạn để các doanh nghiệp có thể xây
dựng nhà máy, mua sắm thiết bị máy móc phục vụ cho sản xuất, tăng cường khoa
học công nghệ.
1.1.3.4 Bảo lãnh.
Do nhu cầu phát triển nhanh chóng và đa dạng của thương mại hàng hoá đã
hình thành nên loại hình dịch vụ bảo lãnh, đây là việc Ngân hàng dùng uy tín của
mình để bảo lãnh cho khách hàng của mình mua hàng hoá chịu, tham gia đấu thầu,
bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh hồi thanh toán, bảo lãnh tài chính.
1.1.3.5 Bảo quản tài sản hộ.
Ngân hàng cho khách hàng “thuê két” để bảo quản hộ khách hàng những giấy
tờ có giá, vàng, giấy tờ cầm cố hoặc giấy tờ quan trọng với nguyên tắc an toàn, bảo
mật và thuận tiện.
1.1.3.6. Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán.
Khi khách hàng gửi tiền vào Ngân hàng, Ngân hàng sẽ mở một tài khoản cho
khách hàng và không chỉ thực hiện việc bảo quản mà còn thực hiện các lệnh chi trả
khi có giấy thanh toán từ khách hàng gửi đến Ngân hàng, mở ra một phương thức
thanh toán không dùng tiền mặt. Đem lại tiện ích nhanh chóng đảm bảo và tiết
kiệm chi phí cho khách hàng. Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, bên
cạnh các phương thức thanh toán như séc, uỷ nhiệm chi, nhờ thu, luân chuyển đã
phát triển các hình thức thanh mới bằng điện tử…
1.1.3.7.Quản lý ngân quỹ.
Các NHTM được biết đến là những nhà thủ quỹ và quản lý ngân quỹ chuyên
nghiệp, với kinh nghiệm quản lý ngân quỹ và khả năng trong việc thu và chi tài
chính, nhiều Ngân hàng đã cung cấp cho khách hàng dịch vụ quản lý ngân quỹ
trong đó Ngân hàng đồng ý quản lý việc thu và chi cho một Công ty kinh doanh và
tiến hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào các chứng khoán sinh lời và
tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần tiền mặt để thanh toán.
1.1.3.8. Tài trợ các hoạt động của chính phủ.
Ở hầu hết các quốc gia, các Chính phủ thường ở tình trạng thu không đủ chi, vì

vậy, Chính phủ các nước đều muốn tiếp cận với các khoản cho vay của Ngân hàng.
Ngày nay, chính phủ giành quyền cấp giấy phép hoạt động và kiểm soát các Ngân
hàng. Các Ngân hàng được cấp giấy phép thành lập với điều kiện là họ phải cam
kiết thực hiện với mức độ nào đó các chính sách của Chính phủ và tài trợ cho
Chính phủ. Các Ngân hàng thương mại thường mua trái phiếu Chính phủ theo một
tỷ lệ nhất định trên tổng lượng tiền gửi mà Ngân hàng huy động được.
1.1.3.9. Cho thuê thiết bị trung và dài hạn (leasing).
Các NHTM cho khách hàng thuê các tài sản, thiết bị, máy móc đắt tiền, khách
hàng không có nhu cầu dùng lâu dài hoặc không đủ tài chính để mua. Rất nhiều
Ngân hàng tích cực cho khách hàng quyền lựa chọn thuê các thiết bị máy móc cần
thiết thông qua hợp đồng thuê mua, trong đó Ngân hàng mua thiết bị và cho khách
hàng thuê với một số điều kiện nhất định. Dịch vụ này của Ngân hàng cũng có
nhiều điểm giống với cho vay và được xếp vào tín dụng trung và dài hạn.
1.1.3.10. Các dịch vụ Ngân hàng khác
Ngoài các loại hình dịch vụ trên, Ngân hàng còn có các loại hình dịch vụ khác
như cung cấp các dịch vụ uỷ thác và tư vấn, cung cấp các dịch vụ môi giới đầu tư
chứng khoán, cung cấp các dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ đại lý…
Cung cấp các dịch vụ uỷ thác và tư vấn tức các Ngân hàng sẽ quản lý hộ tài sản
và quản lý hoạt động tài chính cho các cá nhân và doanh nghiệp có nhu cầu. Dịch
vụ uỷ thách này phát triển sang cả người vay hộ, uỷ thác cho vay hộ, uỷ thác phát
hành, uỷ thác đầu tư… Thậm chí các Ngân hàng đóng vai trò là người uỷ thác
trong di chúc, quản lý tài sản cho khách hàng qua đời bằng cách công bố tài sản,
bảo quản tài sản có giá. Nhiều khách hàng coi Ngân hàng như một chuyên gia tư
vấn tài chính. Ngân hàng sẵn sàng tư vấn đầu tư, về quản lý tài sản, về thành lập
mua bán, sát nhập doanh nghiệp…
Cung cấp các dịch vụ môi giói đầu tư chứng khoán tức là các Ngân hàng bán các
dịch vụ môi giới chứng khoán, cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu, trái
phiếu và các chứng khoán khác. Trong một vài trường hợp, các Ngân hàng tổ chức
ra Công ty chứng khoán hoặc các Công ty môi giới chứng khoán để cung cấp dịch
vụ môi giới. Các Ngân hàng còn tư vấn phát hành chứng khoán cho các công ty khi

các công ty có nhu cầu phát hành hoặc phát hành thêm các loại chứng khoán để
huy động vốn.
Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm tức Ngân hàng liên doanh với các Công ty bảo
hiểm hoặc tổ chức ra Công ty con để thực hiện việc bán bảo hiểm cho khách hàng,
điều đó đảm bảo cho việc hoàn trả trong trường hợp khách hàng bị chết, bị tàn phế
hoặc gặp rủi ro trong hoạt động, mất khả năng thanh toán. Ngân hàng cung cấp các
dịch vụ bảo hiểm như Tiết kiệm an sinh, Tiết kiệm hưu trí, Tiết kiệm khuyến
học…
Cung cấp các dịch vụ đại lý tức Ngân hàng nhận làm Ngân hàng đại lý cho các
Ngân hàng khác và thực hiện các nghiệp vụ như thanh toán hộ, phát hành hộ các
chứng chỉ tiền gửi, làm Ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ.
1.2 TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
1.2.1. Khái niệm về tín dụng.
Tín dụng là là hoạt động kinh doanh cơ bản đầu tiên của các NHTM. Đây là
hoạt động sinh lời lớn nhất trong các hoạt động kinh doanh của các NHTM. Và
cũng là hoạt động mang lại nhiều rủi ro nhất đối với các NHTM. Có nhiều quan
điểm về tín dụng như: Tín dụng là hoạt động tài trợ của Ngân hàng đối với khách
hàng của mình. Tín dụng là quan hệ vay mượn, gồm cả cho vay và đi vay. Tín
dụng là hoạt động kinh doanh của Ngân hàng dựa trên nguyên tắc bảo toàn và sinh
lời…
Tóm lại, Tín dụng là hoạt động tài trợ của Ngân hàng cho khách hàng nhằm
thoã mãn nhu cầu về vốn của khách hàng dựa trên nguyên tắc khách hàng phải trả
cả gốc và lãi đúng như thời hạn cam kết.. Trong quan hệ tín dụng, khách hàng phải
đảm bảo thanh toán cho Ngân hàng cả gốc và lãi đúng thời hạn cam kết. Ngân
hàng phải hoạt động trên nguyên tắc bảo toàn vốn và sinh lời.
1.2.2. Các hình thức của tín dụng
1.2.2.1 Chiết khấu thương phiếu.
Người bán Người mua
Ngân hàng
(2)

(4)
(3)
(5)
Thương phiếu được hình thành chủ yếu từ quá trình mua bán chịu hàng hoá và
dịch vụ giữa khách hàng với nhau. Người bán (hoặc người hưởng thụ) có thể giữ
thương phiếu đến hạn để đòi tiền người mua (hoặc người phải trả) hoặc mang đến
Ngân hàng để xin chiết khấu trước hạn.
Sơ đồ 1.1. Chiết khấu thương phiếu:
(1) Người bán chuyển hàng hoá hoặc dịch vụ cho người mua;
(2) Thương phiếu được lập, người mua ký, cam kết trả tiền cho người bán
(người thụ hưởng) khi thương phiếu đến hạn và giao thương phiếu cho người bán
hoặc người hưởng thụ;
(3)Trong thời hạn có hiệu lực của thương phiếu, người bán có thể mang thương
phiếu đến Ngân hàng để xin chiết khấu;
(4) Sau khi kiểm tra độ an toàn của thương phiếu, Ngân hàng có thể phát tiền
cho người bán và nắm giữ thương phiếu (Ngân hàng có thể yêu cầu người bán ký
hậu vào thương phiếu, cam kết trả tiền cho Ngân hàng nếu người mua không trả -
quyền truy đòi đối với thương phiếu);
(5) Đến hạn, Ngân hàng chuyển thương phiếu đến người mua đòi tiền (nếu
người mua không trả, Ngân hàng có quyền đòi tiền của các bên ký tên trên thương
phiếu).
(1)
Số tiền Ngân hàng ứng trước phụ thuộc vào lãi suất chiết khấu, thời hạn chiết
khấu và lệ phí chiết khấu.
1.2.2.2. Cho vay.
Đây là hình thức tín dụng cơ bản của tất cả các NHTM. Và cũng là nghiệp vụ
mang lại thu nhập chính cho các NHTM. Cho vay được áp dụng với nhiều sản
phẩm đa dạng tuỳ vào năng lực mỗi Ngân hàng. Cho vay thường được áp dụng với
các hình thức sau:
Thấu chi: Là nghiệp vụ cho vay qua đó Ngân hàng cho phép người vay được

chi trội (vượt) trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định
và trong khoảng thời gian xác định. Giới hạn này gọi là hạn mức thấu chi.
Để được thấu chi, khách hàng làm đơn xin Ngân hàng hạn mức thấu chi và thời
gian thấu chi (có thể phải trả phí cam kết cho Ngân hàng). Trong quá trình hoạt
động, khách hàng có thể ký séc, lập uỷ nhiệm chi, mua thẻ… vượt quá số dư tiền
gửi để chi trả (song trong hạn mức thấu chi). Khi khách hàng có tiền nhập về tài
khoản tiền gửi, Ngân hàng sẽ thu nợ gốc và lãi thấu chi. Các khoản chi quá hạn
mức thấu chi sẽ chịu lãi suất phạt và bị đình chỉ sử dụng hình thức này.
Cho vay trực tiếp từng lần: Cho vay trực tiếp từng lần là hình thức cho vay
tương đối phổ biến của Ngân hàng đối với các khách hàng không có nhu cầu vay
thường xuyên, không có điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi. Một số khách
hàng sử dụng vốn chủ sở hữu và tín dụng thương mại là chủ yếu, chỉ khi có nhu
cầu thời vụ, hay mở rộng sản xuất đặc biệt mới vay Ngân hàng, tức là vốn từ Ngân
hàng chỉ tham gia vào một số giai đoạn nhất định của chu kỳ sản xuất kinh doanh.
Cho vay theo hạn mức: Là nghiệp vụ tín dụngtheo đó Ngân hàng thoả thuận cấp
cho khách hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kỳ hoặc
cuối kỳ. Đó là số dư tối đa tại thời điểm tính. Hạn mức tín dụng được cấp trên cơ
sở kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu vốn và nhu cầu vay vốn của khách hàng.
Trong kỳ khách hàng có thể thực hiện vay trả nhiều lần, song dư nợ không được
quá hạn mức tín dụng. Một số trường hợp Ngân hàng quy định hạn mức cuối kỳ.
Dư nợ trong kỳ có thể lớn hơn hạn mức. Mỗi lần vay khách hàng chỉ cần trình bày
phương án sử dụng tiền vay, nộp các chứng từ chứng minh đã mua hàng hoặc dịch
vụ và nêu yêu cầu vay. Sau khi kiểm tra tính chất hợp pháp và hợp lệ của chứng từ,
Ngân hàng sẽ phát tiền cho khách hàng.
Cho vay luân chuyển: Là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hoá.
Doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn. Ngân hàng có thể cho vay để mua
hàng và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng. Đầu năm hoặc quý, người vay phải
làm đơn xin vay luân chuyển. Ngân hàng và khách hàng thoả thuận với nhau về
phương thức vay, hạn mức tín dụng, các nguồn cung cấp hàng hoá và khả năng tiêu
thụ. Hạn mức tín dụng có thể được thoả thuận trong 1 năm hoặc vài năm. Đây

không phải là thời hạn hoàn trả mà là thời hạn để Ngân hàng xem xét lại mối quan
hệ giữa Ngân hàng và khách hàng cũng như tình hình tài chính của khách hàng.
Cho vay trả góp: Là hình thức tín dụng theo đó Ngân hàng cho phép khách
hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thoả thuận. Cho vay trả góp
thường được áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn, tài trợi cho tài sản cố
định hoặc hàng lâu bền. Số tiền trả nợ mỗi lần được tính toán sao cho phù hợp với
khả năng trả nợ.
Ngân hàng thường cho vay trả góp đối với người tiêu dùng thông qua hạn mức
nhất định. Ngân hàng sẽ thanh toán cho người bán lẻ về số hàng hoá mà khách
hàng đã mua trả góp. Các cửa hàng bán lẻ nhận ngay tiền sau khi bán hàng từ phía
Ngân hàng và làm đại lí thu tiền cho Ngân hàng, hoặc khách hàng trả trực tiếp cho
Ngân hàng. Đây là hình thức tín dụng tài trợ cho người mua nhằm khuyến khích
tiêu thụ hàng hoá.
Cho vay gián tiếp: Đây là hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung gian.
Ngân hàng cho vay qua các tổ, đội, hội, nhóm như nhóm sản xuất, Hội Nông dân,
Hội cựu chiến binh… Các tổ chức này thường liên kết các thành viên theo một
mục đích riêng, song chủ yếu đề hỗ trợ lẫn nhau, bảo vệ quyền lợi cho mỗi thành
viên. Vì vậy, việc phát triển kinh tế, làm giàu, xoá đói giảm nghèo luôn được các tổ
chức này rất quan tâm.
Ngân hàng có thể chuyển một vài khâu của hoạt động cho vay sang các tổ chức
trung gian như thu nợ, phát tiền vay… Ngân hàng cũng có thể cho vay thông qua
người bán lẻ các sản phẩm đầu vào của quá trình sản xuất. Việc cho vay này sẽ hạn
chế người vay sử dụng tiền vay sai mục đích.
Mục đích cho vay qua trung gian nhằm tiết kiệm chi phí cho vay, giảm bớt rủi
ro. Tuy nhiên nó cũng bộc lộ các khiếm khuyết. Nhiều trung gian đã lợi dụng vị
thế của mình để tăng lãi suất cho vay lại, hoặc giữ lấy số tiền của các thành viên
khác cho riêng mình. Các nhà bán lẻ có thể lợi dụng để bán hàng kém chất lượng
hoặc với giá đắt cho người vay vốn.
1.2.2.3. Cho thuê tài chính.
Đây là một sản phẩm có thể nói là biến dạng của hình thức cho vay. Ngân hàng

tài trợ cho khách hàng bằng cách mua các tài sản theo yêu cầu của khách hàng để
khách hàng thuê. Vì tài sản cho thuê thuộc sở hữu Ngân hàng nên có thể thu hồi
để bán hoặc cho thuê lại khi người thuê không trả nợ được. Điều này giảm bớt thiệt
hại cho Ngân hàng. Nghiệp vụ này phát sinh khi khách hàng không đủ tiền mua,
hoặc chỉ có nhu cầu sử dụng trong thời gian ngắn hơn thời gian khấu hao của tài
sản… Cho thuê có hai hình thức chủ yếu là thuê nghiệp vụ và thuê tài chính. Trong
thuê nghiệp vụ người thuê chỉ thuê trong một thời gian ngắn, không có dự định
mua tài sản đó để sử dụng lâu dài. Cho thuê tài chính đáp ứng nhu cầu thuê trong
thời gian dài và người đi thuê có quyền mua lại tài sản khi hết hợp đồng thuê. Hoạt
động cho thuê của NHTM chủ yếu là cho thuê tài chính.
1.2.2.4. Bảo lãnh, bảo đảm.

×