Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỘ NÔNG DÂN HUYỆN THANH MIỆN TỈNH HẢI DƯƠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (207.02 KB, 35 trang )

MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỘ NÔNG DÂN
HUYỆN THANH MIỆN TỈNH HẢI DƯƠNG
I- QUAN ĐIỂM - MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỘ NÔNG DÂN
HUYỆN THANH MIỆN.
1- Quan điểm phát triển:
Phát triển kinh tế hộ nông dân là một quá trình lâu dài, đòi hỏi sự đầu tư đúng
mức cả về vật chất lẫn lao động. Nhằm khai thác tốt nhất những lợi thế và nguồn
lực trong nông nghiệp- nông thôn. Đem lại hiệu quả cao nhất trên một diện tích
nhất định.
-Phát triển kinh tế hộ nông dân theo hướng sản xuất hàng hoá, hình thành các
trang trại gia đình trong nông nghiệp-nông thôn, đó là một xu hướng, một đòi hỏi
tất yếu của quá trình phát triển. Một nền nông nghiệp phát triển không chấp nhận
cung cách làm ăn theo hướng hộ nông dân tự cung tự cấp . Các trang trại gia đình
là hình thức sản xuất phù hợp nhất trong nông nghiệp , nó có những ưu điểm và lợi
thế mà không một hình thức sản xuất nào khác có được.
-Phát triển kinh tế hộ nông dân phải gắn liền với quá trình công nghiệp hoá-
hiện đại hoá nông nghiệp-nông thôn trên địa bàn huyện. áp dụng những thành tựu
công nghiệp vào phục vụ cho sản xuất nông nghiệp một cách lâu dài và trước hết là
phát triển công nghiệp chế biến , bảo quản nông sản; từng bước cơ khí hoá, điện
khí hoá nông nghiệp. Tăng cường ứng dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật tiên
tiến nhất, hiện đại nhất vào sản xuất nông nghiệp.Công nghiệp hoá luôn phải gắn
liền với hiện đại hoá mới mong phát triển nông nghiệp một cách ổn định và lâu dài.
Mới đem lại hiệu quả thiết thực và cao nhất cho các hộ nông dân.
- Phát triển kinh tế hộ nông dân phải đạt được hiệu quả tổng hợp trên cơ sở sử
dụng tốt nhất, hiệu quả nhất mọi nguồn lực, mọi lợi thế có trên địa bàn huyện, phát
triển kinh tế hộ nông dân phải đạt được hiệu quả cả về kinh tế, chính trị và xã hội.
Vừa phải đạt được hiệu quả kinh tế cao, tăng thu cho những người lao động, đảm
bảo cuộc sống ấm lo, đầy đủ cho những người nông dân vừa phải tham gia giải
quyết việc làm, điều chỉnh mức độ dân cư phù hợp trong từng khu vực, trong từng
xã.
- Phát triển kinh tế hộ nông dân phải gắn với việc bảo vệ môi trường sinh thái.


Tăng cường sử dụng phân bón hữu cơ, áp dụng những biện pháp phòng và chống
sâu bệnh bằng phương pháp sinh học, hạn chế tới mức thấp nhất việc sự dụng phân
bón và thuốc bảo vệ thực vật hoá học làm hại tới môi trường sinh thái.Tăng cường
các biện pháp canh tác phù hợp, không ngừng cải tạo, bồi dưỡng đất đai, áp dụng
các biện pháp chăm sóc có lợi cho môi trường.
Đó là bốn quan điểm mà chúng ta phải lưu ý và tuân thủ khi thực hiện công
tác phát triển kinh tế hộ nông dân ở Thanh Miện. Bốn quan điểm này luôn phải đi
liền với nhau, hỗ trợ nhau cùng tồn tại và phát triển. Có như vậy mới mong đem lại
hiệu quả cao nhất, thiết thực nhất trong việc phát triển kinh tế hộ hiện nay.
2- Phương hướng-Mục tiêu phát triển kinh tế hộ nông dân của huyện
Thanh Miện
2.1-Phương hướng tổng quát.
Phát huy mọi nguồn lực, tận dụng mọi lợi thế, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh
công nghiệp hoá-hiện đại hoá nông nghiệp-nông thôn. Thúc đẩy sản xuất hàng hoá
phát triển toàn diện với nhịp độ tăng trưởng cao và bền vững. Phát huy hơn nữa
những ưu điểm đã làm được, tập trung giải quyết tốt các vấn đề còn tồn tại, khúc
mắc, ổn định và không ngừng cải thiện đời sống nhân dân. Tăng nhanh số hộ khá
và hộ giầu qua từng năm, phấn đấu xoá bỏ được các hộ nghèo trong thời gian ngắn
nhất.
-Tăng cường chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế, giảm dần tỷ trọng ngành nông
nghiệp trong nền kinh tế quốc dân. Giảm cả tương đối và tuyệt đối số hộ, số lao
động và số nhân khẩu xuống mức hợp lý trong ngành nông nghiệp.
-Tập trung phát triển kinh tế hộ nông dân theo hướng sản xuất hàng hoá, tạo
mọi tiền đề cần thiết cho kinh tế trang trại xuất hiện và phát triển. Tổng hợp và
chuyên môn hoá sản xuất, hình thành những vùng sản xuất chuyên môn hoá lớn
với nhiều loại sản phẩm hàng hoá có giá trị cao.
-Tăng cường tích luỹ và tái đầu tư sản xuất mở rộng với nhiều ngành nghề, sử
dụng số lao động hợp lý. Từng bước đầu tư, sử dụng những công cụ sản xuất hiện
đại trên cơ sở khắc phục dần tình trạng manh mún về ruộng đất.
-Tăng cường ứng dụng khoa học-kỹ thuật vào sản xuất thông qua các kênh

khác nhau của huyện. Mở rộng các quá trình liên doanh, liên kết và hợp tác trong
nông nghiệp nông thôn.
2.2-Mục tiêu cụ thể.
-Mục tiêu tới năm 2005
+Mức độ tăng trưởng nền kinh tế bình quân 8,6% năm. đến năm 2005 tổng
giá trị sản phẩm nội huyện đạt 683,5 tỷ đồng. Trong đó nông nghiệp đạt 389,5 tỷ
đồng, cơ cấu nông nghiệp-công nghiệp và diện tích tương ứng 57%-18%- 25%.
Bình quân sản phẩm theo đầu người đạt 5.200.000 đồng.
+Phấn đấu đến năm 2005 toàn huyện giữ ổn định từ 6500 đến 7000 ha đất
canh tác trồng lúa, còn lại tập trung chuyển đổi sang lập vườn trồng cây có giá trị
kinh tế cao và nuôi thả cá ở những vùng hợp lý từ 100-150 ha. năm. Mở rộng diện
tích chuyển đổi cây trồng ngắn ngày đạt từ 400-500 ha/ năm. Tích cực mở rộng
diện tích gieo trồng cây vụ đông, phấn đấu từ 2500-3000 ha/năm. Năng xuất lúa
đạt từ 12-14 tấn/ ha trở lên. Tổng sản lượng lương thực đạt 90.000 tấn/năm trở lên,
bình quân lương thực đạt 650 -700kg/ người/ năm.
Phấn đấu giá trị sản xuất trên 1 ha canh tác đạt từ 33 đến 35 triệu đồng/năm.
Đến năm 2005 giá trị thu được từ chăn nuôi chiếm trên 30% tổng gía trị toàn ngành
nông nghiệp.Có 56.000 con lợn, 6500 trâu bò, 700.000 gia cầm các loại, sản lượng
cá đạt 1500 tấn.
+Tốc độ phát triển bình quân ngành nông nghiệp đạt 4,5-5%/năm. Phấn đấu
mỗi năm có thêm từ 1000-1500 lao động đến độ tuổi có việc làm và đưa từ 300-
500 nhân khẩu đi xây dựng các vùng kinh tế mơí. Tăng nhanh số hộ giầu và hộ
khá, xoá hộ nghèo. 75% số hộ sử dụng nước hợp vệ sinh, cơ bản hoàn thành các
công trình công cộng, hiện đại hoá, kiên cố hoá cơ sở hạ tầng phục vụ cho nông
nghiệp-nông thôn.
-Mục tiêu trong năm 2001.
+Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 8,6%, trong đó nông nghiệp đạt 4,5-5%.
Tổng giá trị nội huyện đạt 491 tỷ đồng, trong đó nông nghiệp đạt 317 tỷ đồng.
Bình quân giá trị sản phẩm theo đầu người đạt 3,8 triệu đồng.
+Tổng diện tích gieo trồng17.976 ha. sản lượng lương thực 91.797 tấn.

Vụ chiêm xuân gieo cấy 7.488 ha, năng suất phấn đấu 62 tạ/ha, sản lượng
46.426 tấn. Chuyển đổi 250 ha sang trồng cây xuất khẩu, rau các loại.
Vụ mùa cấy 7.538 ha, năng xuất 60 tạ/ha, sản lượng 45.228 tấn. Chuyển
200ha sang trồng cây xuất khẩu, rau các loại.
Vụ đông gieo trồng 2500 ha.
Chuyển 100 ha đất trồng lúa kém hiệu quả sang trồng cây lâu năm, thả cá. Giá
trị thu từ trồng trọt 327 tỷ đồng.
+Duy trì đàn trâu ổn định 1100 con; đàn bò 4700 con trong đó bò lai sind
1200 con; đàn lợn 54 nghìn con, sản lượng thịt hơi xuất chuồng 5650 tấn, đàn gia
cầm có 500 nghìn con. Nuôi và đánh bắt thuỷ sản đạt 1100 tấn các loại. Chăn nuôi
theo hướng sind hoá đàn bò, lạc hoá đàn lợn, công nghiệp và bán công nghiệp.
+Giảm tỷ lệ hộ nghèo từ 11,1% xuống còn 8,5%.
II- MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỘ NÔNG DÂN
HUYỆN THANH MIỆN.
Để tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế hộ nông dân huyện Thanh Miện
phát triển hơn nữa, trong thời gian tới, theo em một số giải pháp sau đây sẽ giúp
đáp ứng phần nào những yêu cầu và mục tiêu vừa đặt ra. Trước mắt cũng như lâu
dài sẽ phát huy được ưu điểm của những việc đã làm tốt, hạn chế tiến tới xoá bỏ
hẳn những tồn tại và vướng mắc trong quá trình phát triển kinh tế hộ nâng dân hiện
nay ở Thanh Miện. Tạo lập và phát huy mọi tiền đề cần thiết thúc đẩy kinh tế trang
trại trong nông nghiệp-nông thôn ra đời và phát triển.
1- Giải pháp về đất đai .
Đất đai đang là vấn đề nổi cộm ở khắp mọi miền đất nước, không phải chỉ vì
vị trí quan trọng của nó đối với sản xuất nông nghiệp mà còn vì hiện nay cách quản
lý và sử dụng đất đai ở các địa phương còn nhiều bất cập. Thanh Miện là một
huyện thuộc vùng trung tâm của đồng bằng Sông Hồng, diện tích đất nông nghiệp
bình quân đầu người rất thấp càng đòi hỏi sự chặt chẽ trong quản lý và sử dụng
nguồn đất này. Mặc dù việc quy hoạch các loại đất và lập bản đồ địa chính ở hai
cấp đã được hoàn thành , nhưng nếu chúng ta quan tâm hơn nữa đến cách sử dụng
đất thì chúng ta có thể hy vọng đạt được hiệu quả cao hơn từ nguồn đất nông

nghiệp hạn hẹp này. Theo em, trong thời gian tới cần thực hiện tốt những vấn đề
sau đây.
1.1-Tăng cường công tác chuyển đổi, chuyển nhượng ruộng đất giữa các hộ
nông dân:
Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cơ bản đã được hoàn tất. Việc
thực hiện năm quyền của người sử dụng đất đai đã được đảm bảo, đặc biệt là
quyền chuyển đổi, chuyển nhượng được các cấp, các ngành khuyến khích tạo điều
kiện thực hiện. Nhưng trong chính các hộ nông dân, việc thực hiện năm quyền lại
ít được coi trọng nhất là chuyển đổi và chuyển nhượng rất ít khi xâỷ ra. Trong năm
2000 vừa qua là năm có số hộ nông dân chuyển nhượng đất đai nhiều nhất cũng
mới chỉ có 83 hộ chuyển nhượng với diện tích là 16.496 m
2
. Điều đó đã nói nên
việc chuyển nhượng ruộng đất ở Thanh Miện thực sự còn nhiều mới mẻ. Qua tìm
hiểu, em được biết có tình trạng này là do:
-Tâm lý người nông dân sản xuất nhỏ đã tồn tại từ rất lâu coi việc chuyển đổi,
thay đổi và chuyển nhượng ruộng đất là không nên, ruộng đất mình có thế nào , có
ở những đâu mình cứ canh tác như vậy.
-Hầu hết các hộ nông dân đều chưa mấy quan tâm tới việc chuyển đổi, chuyển
nhượng đất nông nghiệp, họ chưa nhìn thấy những lợi ích từ việc làm này hoặc
chưa có ý định làm điều gì đó thay đổi mà phải chuyển nhượng đất đai, họ chấp
nhận diện tích đất manh mún hiện tại như một điều cố hữu.
-Hầu hết các hộ nông dân có nhu cầu chuyển nhượng chưa chuyển hẳn sang
làm các ngành nghề khác vì vậy họ chưa có một cơ sở vững chắc đảm bảo cho
cuộc sống sau khi chuyển nhượng. Tốt hơn hết là họ cho đợ ruộng hoặc cho thuê.
Khi nào muốn họ có thể lấy lại và tiếp tục công việc của nhà nông trên những diện
tích đó.
-Tâm lý sợ thua thiệt, tốn kém tồn tại trong các hộ nông dân khi chuyển đổi
hoặc chuyển nhượng đã dẫn đến việc họ ngại làm việc này hoặc e dè khi đề cập
đến vấn đề chuyển đổi, chuyển nhượng.

-Ở một số nơi mặc dù đã có chủ trương chỉ đạo khuyến khích việc chuyến đổi,
chuyến nhượng ruộng đất nhưng vẫn gây phiền hà, khó dễ cho các hộ nông dân
trong quá trình làm thủ tục chuyển nhượng, chuyển đổi cho hợp với pháp lý.
Vì vậy trong thời gian tới, để cải thiện tình hình này, giúp người nông dân
thấy rõ được lợi ích mà hăng hái thực hiện các quyền lợi của mình, theo em cần
thực hiện những việc sau:
-Thông qua đại hội xã viên , các cuộc họp của chi bộ Đảng các thôn, xóm mà
có sự giải thích, tuyên truyền và hướng dẫn cụ thể những lợi ích thiết thực, những
quyền lợi mà người sử dụng đất đai được hưởng, có thể làm, giúp cho các hộ nông
dân hiểu rõ về những chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước trong việc
khuyến khích thực hiện quyền chuyển nhượng, chuyển đổi này, giúp họ hiểu rõ họ
có thể làm gì, họ được những gì và không thể làm gì trên ruộng đất cuả họ.
-UBND huyện nên thành lập những tổ chuyên trách của các cơ quan liên
ngành cùng UBND xã tăng cường kiểm tra và hướng dẫn các hộ có nhu cầu
chuyển nhượng, hướng dẫn họ những trình tự pháp lý cần làm. Phối hợp với các
cấp chính quyền địa phương giúp hộ nông dân đánh giá đúng giá trị ruộng đất mà
họ đang sử dụng. Giúp đỡ và tạo điều kiện về pháp lý để các hộ nông dân có thể
chuyến đổi và chuyển nhượng ruộng đất của mình được dễ dàng ít tốn kém bảo
đảm tính pháp lý về quyền sử dụng đất cho những người đã nhận đất chuyển đổi để
họ yên tâm chuyển đổi, chuyển nhượng và sản xuất.
-Giới thiệu, phổ biến những điển hình tiên tiến, những gia đình đã làm tốt
công tác chuyển nhượng, chuyển đổi, chỉ cho các hộ nông dân thấy những hiệu quả
thực tế từ việc chuyển nhượng, chuyển đổi những chi phí đã được giảm bớt trong
quá trình canh tác trước và sau khi chuyển đổi, chuyển nhượng. Trách nhiệm này
thuộc về hệ thống khuyến nông, các cấp hội và đoàn thanh niên.
-Song song với quá trình thực hiện các thủ tục pháp lý về chuyển nhượng đất
nông nghiệp thì sự kết hợp với việc quản lý nhân khẩu, hộ khẩu và các quyền lợi
có liên quan cũng cần được coi ntrọng, tránh những tiêu cực xảy ra.
Tuy nhiên một số lo ngại cũng được đặt ra đó là khi tình hình chuyển đổi,
chuyển nhượng đất đai trong nông nghiệp đã trở nên sôi động sẽ xuất hiện những

đầu cơ ruộng đất mà hậu quả mang lại rất nghiêm trọng như những người có nhu
cầu sử dụng lại không có đất trong khi đất nằm trong tay những kẻ đầu cơ này
không được canh tác, quan tâm đúng mức sẽ gây lãng phí nguồn lực và làm trầm
trọng thêm một số vấn đề xã hội ở nông thôn. Cho nên về lâu dài UBND huyện
cũng nên tìm cách quản lý chặt chẽ tình hình chuyển nhượng và chuyển đổi đất đai
này.
Chuyển nhượng và chuyển đổi đất đai là một vận động bình thường của nền
kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị trường. Mức độ sôi động của sự chuyển dịch này
nhiều khi lại là dấu hiệu tăng trưởng kinh tế hoặc là kết quả của một quá trình phát
triển. Nhất là đối với nông nghiệp, muốn hình thành các trang trại gia đình nhất
thiết phải có sự tích luỹ về đất đai. Vì vậy, trong thời gian tới cần quan tâm hơn
nữa đến vấn đề chuyển nhượng và chuyển đổi đất đai ở Thanh Miện, thúc đẩy nó
phát triển theo đúng xu hướng đề ra.
1.2- Quản lý và sử dụng tốt diện tích đất chuyên dùng và đất nông nghiệp do
các UBND xã qản lý:
Diện tích đất chuyên dùng và đất nông nghiệp cho các UBND xã quản lý quá
lớn. Trên toàn huyện hiện nay, diện tích này là 3.480.88 ha. Trong đó có 2530,85
ha đất chuyên dùng và 950,03 ha đất nông nghiệp. Trong khi đó việc sự dụng hai
loại đất này chưa đem lại hiệu quả tương xứng với tiềm năng của nó.Vì vậy cần sử
dụng có hiệu quả hơn hai loại đất này theo các cách sau đây:
-Đối với đất chuyên dùng.
Tổng diện tích đất chuyên dùng do UBND các xã quản lý chủ yếu được đưa
vào sử dụng để làm đất xây dựng; đất giao thông; đất thuỷ lợi và một số công việc
khác. Những diện tích đất này hiện nay đã được quy hoạch và có kế hoạch cụ thể
để sử dụng. Tuy nhiên chúng ta có thể sử dụng có hiệu quả hơn theo hai hướng sau
đây:
+Những diện tích đất làm đường giao thông và một số diện tích đất chuyên
dùng khác, ngoài những phần đã xây dựng chính còn lại những phần đất dư như
hai bên đường, xung quanh các khu xây dựng có thể cho đầu thầu công khai để các
hộ có thể trồng cây lâu năm hoặc trồng cây lấy gỗ với thời gian nhất định.Vừa tạo

việc làm, tăng thu nhập cho các hộ nông dân, lại vừa cải thiện được cảnh quan môi
trường và tăng thu cho ngân sách. Hiện nay những diện tích đất đai này còn rất
nhiều ở các xã như Tiền Phong; Ngũ Hùng; Lam Sơn; Hồng Quang...
+Đối với những diện tích đất chuyên dùng đã có quy hoạch nhưng chưa có
điều kiện sử dụng, nếu thực sự không ảnh hưởng nhiều đến công việc sản xuất , an
ninh chính trị... thì UBND các xã cũng có thể cho đấu thầu công khai hoặc giao
cho những gia đình khó khăn trồng cây hàng năm, tăng thu nhập cho những hộ
này. Riêng đối với đất dùng sản xuất vật liệu xây dựng đã khai thác thành các
thùng, đấu... như ở xã Lê Hồng, Thanh Giang chúng ta có thể đấu thầu, cải tạo
thành ao thả cá, cũng có thể đem lại hiệu quả cao hơn là bỏ hoang như hiện nay.
-Đối với phần diện tích đất nông nghiệp
Đất nông nghiệp do UBND các xã quản lý hiện nay trên địa bàn huyện có tới
950,03 ha bằng 11,2% diện tích đất nông nghiệp đã giao cho các hộ nông dân, con
số này là quá lớn và hiện nay mới chỉ có 568,55 ha (59,84%) được đưa vào cấy lúa
là đem lại hiệu quả khá. Còn lại 56,96 ha đưa vào trồng cây ngắn ngày ; 294,33 ha
diện tích khác chưa được sử dụng có hiệu quả, tình trạng này xẩy ra là do chưa có
sự quan tâm đúng mức đến diện tích đất này, biểu hiện.
+ Lệ phí đấu thầu, thuê đất nông nghiệp đối với 56,96 ha và 294,33 ha trên rất
thấp cùng với tâm lý đất thuê không phải là đất của mình đã dẫn tới tình trạng bỏ
bê, không mấy mặn mà của các hộ thuê đất trên những diện tích này. Mặc dù thời
gian đấu thầu khá dài nhưng đa số các hộ nông dân không chịu đầu tư, chỉ biết khai
thác dẫn đến hiệu quả đem lại trên những diện tích thầu thấp hơn hẳn diện tích
cùng loại do các hộ nông dân nhận khoán.
+ Huyện mà trực tiếp là các UBND xã chưa có quy hoạch cây trồng đúng đắn
trên những diện tích này, các loại cây trồng ở đây chưa phù hợp với yêu cầu của thị
trường đòi hỏi vì vậy hiệu quả mang laị rất thấp.
+ Các văn bản cam kết giữa UBND xã và các hộ nông dân cho những diện
tích đất đai thầu còn rất lỏng lẻo, chưa có sự ràng buộc về sử dụng đối với các hộ
dẫn tới tình trạng sử dụng đất bừa bãi, chưa áp dụng khoa học-kỹ thuật canh tác
vào đất thuê đúng mức. Tình trạng lấy đất đóng gạch trên những diện tích này diễn

ra khá phổ biến, tạo thành những thùng, ao rất lãng phí.Vì vậy trong thời gian tới,
cần thực hiện một số biện pháp quản lý đối với những diện tích đất nông nghiệp
này như sau:
+Đối với những diện tích chưa cho thuê hoặc đã hết hạn thuê, hiện nay
UBND xã đã thu hồi: Cần điều chỉnh lại mức lệ phí thuê dựa trên mức quy định
chung của toàn huyện. Tổ chức đấu thầu công khai, đánh giá đúng giá trị thực
trạng của những diện tích đất sắp đưa vào đấu thầu, từ đó có những quy định rõ
ràng bằng văn bản, có cam kết với các hộ sử dụng về việc chấp hành những quy
định này, nếu hộ làm sai có thể phạt hoặc thu hồi đất.
+Đối với những diện tích đang trong thời hạn hợp đồng giữa hộ và UBND xã:
Dựa vào luật pháp xử lý những trường hợp cố ý làm sai như lấy đất đóng gạch, tạo
thành thùng ao có thể thu hồi nếu mức độ vi phạm quá nghiêm trọng. Có các biện
pháp quản lý chặt chẽ và hướng dẫn cụ thể đối với những diện tích đang sử dụng.
Hạn chế đến thấp nhất những sại phạm mà các hộ nông dân có thể mắc phải.
+UBND huyện nên có một mô hình cụ thể về việc sử dụng diện tích đất nông
nghiệp do UBND các xã quản lý. Có sự quy hoạch cụ thể về các loại cây trồng, vật
nuôi được phép canh tác trên những diện tích này. Dựa trên kết quả điều tra đất
đai năm 2000 mà có cơ sở hình thành một bảng lệ phí cho thuê đối với từng diện
tích cụ thể hoặc áp dụng giá trần, giá sàn khi cho thuê đối với tất cả các diện tích
trên địa bàn toàn huyện.. Nghiêm cấm lấy đất đóng gạch, nếu có nhu cầu cải tạo
thành thùng ao để nuôi trồng thuỷ sản trên những diện tích đất này phải có đơn và
luận chứng kỹ thuật trình UBND huyện xem xét quyết định.
Quản lý sâu sát, chặt chẽ hơn nữa việc thuê và cho thuê đất tránh những tiêu
cực xảy ra, thường xuyên giám sát việc thực hiện sử dụng, hướng dẫn kỹ thuật nuôi
trồng cho các hộ nông dân sao cho hiệu quả mang lại trên một đơn vị diện tích thuê
ngày càng cao, ngang bằng hoặc vượt hơn so với diện tích cùng loại đã giao khoán
cho các hộ nông dân. Kiên quyết xử lý những trường hợp vi phạm hoặc có hành vi
phá hoại đất đai.
Em nghĩ đó là những việc làm cần thiết đối với diện tích đất nông nghiệp do
UBND xã quản lý ở huyện Thanh Miện hiện nay.

1.3- Đầu tư cải tạo và tiến hành sản xuất kinh doanh trên diện tích đất chưa
sử dụng:
Diện tích đất chưa sử dụng có trên địa bàn huyện vẫn còn khá lớn: 236,5 ha,
chiếm khoảng 3% tổng diện tích đất tự nhiên. Những diện tích này xưa nay đều bỏ
không, chưa sử dụng vào bất kỳ mục đích nào, trong đó có 181,52 ha là đất có mặt
nước và 154,98 ha là sông. Chủ yếu tập có ở những vùng giáp gianh, ven những
cửa sông, những thùng, đầm lớn. Tập trung nhiều ở các xã Tiền Phong; Ngũ Hùng,
Ngô Quyền, Thị Trấn Thanh Miện. Đặc điểm của những diện tích đất này là rất
khó tiến hành sản xuất kinh doanh. Vì vậy trong những năm vừa qua mặc dù đã có
sự cố gắng và quan tâm để đưa vào sử dụng nhưng vẫn chưa đạt được kết quả thoả
đáng. Tuy nhiên nếu có sự đầu tư cải tạo đúng mức, chúng hoàn toàn có thể được
đưa vào để nuôi trồng thuỷ sản, một số diện tích còn có thể cấy một vụ lúa. Theo
em, trong thời gian tới cần thực hiện một số công việc nhằm cải tạo tiến tới sử
dụng có hiệu quả diện tích này như sau:
-Phòng Địa chính, Phòng NN& PTNT cần kết hợp với xí nghiệp khai thác
công trình thuỷ lợi huyện Thanh Miện, kiểm tra rà soát và quy hoạch cụ thể tất cả
những diện tích đất chưa sử dụng, có sự phân tích đánh giá đúng, rõ ràng những
khả năng có thể dùng nguồn đất chưa sử dụng này vào những mục đích gì thì phù
hợp và cần thiết. Thực tế từ năm 1998 đến 2000 chúng ta đã chuyển được 12,90 ha
sang đất nông nghiệp 2 vụ; 15,68 ha sang đất nông nghiệp 1 vụ; 0,39 ha sang trồng
cây hàng năm khác; 11,3 ha sang vườn tạp; 32,01 ha sang mặt nước nuôi trồng
thuỷ sản và 378,34 ha sang làm thuỷ lợi. Và hoàn toàn có thể làm như vậy đối với
những diện tích còn lại. Sự đánh giá , quy hoạch của các phòng ban này sẽ làm cơ
sở để UBND huyện mà trực tiếp là các UBND xã có kế hoạch và biện pháp sử
dụng vào các mục đích khác nhau cho có hiệu quả hơn.
Sau khi có sự phân tích và đánh giá tổng hợp của các phòng ban nêu trên,
chúng ta sẽ thực hiện việc sử dụng theo các hướng sau đây.
-Đối với những diện tích có thể cải tạo và trồng lúa ngay được hoặc có thể
trồng các loại cây ngắn ngày khác thì các xã có diện tích này nên chủ động cho đấu
thầu công khai, dựa trên định mức lệ phí giống như đất nông nghiệp do UBND các

xã quản lý như trên. Do phải cải tạo xong mới có thể sử dụng được nên có thể ưu
tiên không thu lệ phí và các loại thuế từ 1 đến 3 vụ.
-Đối với những diện tích đòi hỏi đầu tư cải tạo lớn, mà hiện nay trên địa bàn
huyện Thanh Miện thì đa số các diện tích này chỉ có thể dùng nuôi trồng thuỷ sản .
UBND các xã có thể xử lý theo các cách sau:
+UBND xã trực tiếp tiến hành cải tạo bằng nguồn vốn chưa sử dụng hoặc
bằng vốn vay. Sau đó đấu thầu công khai, dân chủ cho những hộ nông dân tiến
hành sản xuất kinh doanh. Số tiền thu được từ cho đấu thầu này, một số năm đầu
có thể dùng bù đắp những quỹ đã trích ra hoặc để trả nợ tiền vay.
+UBND xã chủ động cho đấu thầu công khai ngay cho các hộ nông dân có
nhu cầu và điều kiện cải tạo để sản xuất kinh doanh. Tuỳ theo sự phân tích tính
toán của những người có trách nhiệm mà có những ưu đãi về lệ phí, về thuế trong
một số năm cho thoả đáng và công bằng.
+UBND huyện có thể xem xét, giao những diện tích lớn cho trạm giống cá
của huyện tiến hành cải tạo và đưa vào sản xuất kinh doanh phù hợp.
+Tất cả những diện đất chưa sử dụng nêu trên đều thuộc diện khó cải tạo, khó
tiến hành sản xuất kinh doanh, vì vậy UBND huyện cần có kế hoạch giao cho các
phòng ban chức năng tiến hành hỗ trợ các hộ nông dân về khoa học kỹ thuật cải
tạovà canh tác sao cho đạt hiệu quả cao nhất.
Hiện nay tất cả chúng ta đều xác định việc phát triển kinh tế hộ nông dân
thành kinh tế trang trại là điều tất yếu và là hướng đi đúng cho kinh tế hộ nông dân
ở Thanh Miện hiện nay. Vì vậy đối với những diện đất chưa sử dụng và 950,03 ha
đất nông nghiệp do UBND các xã quản lý tiến hành đấu thầu công khai, dân chủ
hiện nay cần có những ưu tiên giao cho những hộ có khả năng đảm đương diện tích
lớn, có kế hoạch sử dụng khoa học, rõ ràng, có thể phát triển thành những trang trại
trồng trọt hoặc nuôi cá. Ưu tiên cả về loại đất, lô đất, thuế, lệ phí và cả về thời hạn
sử dụng. Việc này tiến hành là rất khó nhưng cần kiên quyết, nhất quán nhằm tạo
lập những điển hình, những hạt nhân trong việc tạo lập và phát triển kinh tế trang
trại như xu hướng hiện nay.
1.4-Quản lý tốt diện tích đất nông nghiệp do các hộ di dân để lại, có kế

hoạch giao lại đúng thời điểm cho những hộ nông dân thiếu đất ở địa phương:
Hàng năm số nhân khẩu đưa đi phát triển các vùng kinh tế mới của huyện trên
dưới 500 người. Việc này diễn ra đã để lại một số diện tích đất nông nghiệp khá
lớn cần xử lý, và thực tế đã diễn ra một số tiêu cực trong việc quản lý và sử dụng
tiếp những diện tích này như việc mất công bằng khi giao cho các hộ khác sử
dụng,giao không đúng thời vụ, đã gây ra sự lãng phí và những việc không hay
trong đời sống của người dân. Vì vậy trong thời gian tới UBND huyện cần có kế
hoạch giao cho các xã quản lý và giao cho những hộ sử dụng thật chặt chẽ và công
bằng. Giao đúng những người cần ruộng và có khả năng canh tác một cách hiệu
quả,theo các hướng sau:
-Các UBND xã dựa trên danh sách các hộ di dân đi xây dựng vùng kinh tế
mới đã được UBNN huyện phê duyệt, qủan lý chặt chẽ nhân khẩu đi, thu hồi ruộng
đất vào đầu vụ, tiến hành các thủ tục pháp lý cần thiết nhận lại ruộng từ các hộ.
-Trên cơ sở diện tích ruộng đất đã nhận lại, tiến hành phân bổ cho các hộ
nông dân mới ở nơi khác đến nhưng chưa được chia ruộng như những hộ nhận
khoán trước đó.
-Nếu diện tích ruộng đất đã thu hồi vẫn còn, các tổ, đội sản xuất tập hợp
những hộ có nhu cầu sử dụng, thông qua Đại hội xã viên hoặc các cuộc họp của tổ,
đội sản xuất mà tổ chức bình bầu công khai số hộ được nhận.
- Tiến hành các thủ tục pháp lý cần thiết giao ruộng đất cho các hộ, để người
dân có thể yên tâm sản xuất trên những diện tích được giao.
Trong quá trình thực hiện những công việc nêu trên, cần chú ý đến thời hạn
thu hồi ruộng và cần phải nhanh chóng giao ruộng cho các hộ khác ngay từ mỗi
đầu vụ, tránh tình trạng bỏ ruộng không có người canh tác. Chú ý ưu tiên những
gia đình chính sách, hộ nông dân nghèo, những gia đình nhiều lao động và thực
hiện các quyền lợi cũng như nghĩa vụ như những diện tích ruộng nhận khoán trước
Còn một điều nữa mà tác hại của nó người nôn dân không thấy được ngay khi
họ làm. Đó là hiện nay do việc quản lý lỏng lẻo của các cấp chính quyền nên đã có
một số hộ nông dân tiến hành lấy những lớp đất bề mặt của ruộng cấy về đóng
gạch. Tình trạng này diễn ra ở hầu hết các thôn và tất cả các xã khiến những người

hiểu biết không khỏi đau lòng. Lớp đất tơi xốp bên trên đã bị lấy đi, buộc họ phải
canh tác trên tầng đất thiếu màu mỡ tiếp theo khiến hiệu quả canh tác giảm sút, tạo
thành những thửa, những ô ruộng cao thấp khác nhau trông rất không đẹp mắt và
gây khó khăn cho công tác thuỷ lợi , cũng như các công việc khác. Vì vậy UBND
các xã cần có biện pháp ngăn chặn tình trạng này trong thời gian sắp tới như cưỡng
chế, phạt, giải thích...
2- Giải pháp về tín dụng cho hộ nông dân.
Cùng với đất đai, vốn sản xuất của các hộ nông dân là tư liệu sản xuất chủ yếu
và đặc biệt quan trọng. Vốn không những góp phần quyết định việc đầu tư như thế
nào, đầu tư vào đâu của các hộ nông dân mà nó còn quyết định đầu tư với quy mô
ra sao? ý thức được tầm quan trọng đó, trong nhứng năm vừa qua việc cung cấp
vốn sản xuất cho các hộ nông dân đã được chú ý, quan tâm và còn là biện pháp chủ
yếu để phát triển kinh tế hộ nông dân ở Thanh Miện. Tuy nhiên hệ thống cung cấp
vốn vay cho các hộ nông dân ở huyện Thanh Miện cho đến nay vẫn còn nhiều khó
khăn và tồn tại. Theo em trong thời gian tới nên chú ý đến một số giải pháp sau
đây, nhằm hạn chế những khó khăn và tồn tại vấp phải.
2.1-Công tác huy động vốn.
Công tác huy động vốn hiện nay đang là sự quan tâm hàng đầu của các tổ
chức tín dụng chính thức ở huyện Thanh Miện. ở hầu hết các đơn vị này vấn đề ở
chỗ với lãi xuất hiện nay không phải là không có người vay mà là không có đủ
vốn cho vay, và chúng ta có đủ cơ sở để nói rằng nếu các tổ chức tín dụng ở Thanh
Miện hiện nay có nguồn vốn dồi dào đủ cung cấp cho các nhu cầu cần thiết của các
hộ nông dân trong toàn huyện thì thủ tục vay và cho vay sẽ trở nên thực sự dễ dàng
và gọn nhẹ. Chính vì vai trò của nguồn vốn trong các tổ chức tín dụng quan trọng
như vậy nên nó luôn là vấn đề cần được quan tâm giải quyết hàng đầu.
Chúng ta lưu ý rằng,Thanh Miện là một huyện thuộc vùng trung tâm của đồng
bằng Sông Hồng với nông nghiệp là nghề chính và luôn chiếm một tỷ trọng lớn
trong tổng sản phẩm nội huyện, tỷ lệ các hộ nông dân chiếm đa phần trong
huyện.Do đó món tiền mà các hộ để dành tương đối nhỏ lại phân tán. Vì vậy đã
gây ra những khó khăn rất lớn cho công tác huy động vốn của các ngân hàng ở

đây. Hiện nay lãi suất áp dụng cho tiền gửi ở ngân hàng nông nghiệp và PTNT
huyện Thanh Miện là quá thấp, ở mức 0,3% đến 0,5%/tháng. Thủ tục lại chưa thực
sự thông thoáng và thái độ của nhân viên chưa thật hoà nhã đối với những món gửi
nhỏ. Chúng ta thử hỏi món gửi của nhân dân nhỏ + lãi suất tiền gửi thấp + thủ tục
gưỉ chưa thật làm vừa lòng + Tốn một ít thời gian khi đi gửi + Nỗi lo tính cho
những khoản chi tiêu đột xuất sắp tới + tâm lý sợ thua thiệt + tâm lý chưa quen gửi
ngân hàng liệu có thúc dục được những người dân đem tiền của họ đi gửi ngân
hàng .Em nghĩ là rất khó, vì vậy muốn giải quyết được những vấn đề này, mỗi
ngân hàng cần làm theo cách riêng của mình.
-Đối với ngân hàng nông nghiệp và PTNT huyện Thanh Miện.
Thực hiện cải cách trong công tác huy động nguồn vốn, trong những năm vừa
qua ngân hàng nông nghiệp và PTNT huyện Thanh Miện đã có thay đổi tích cực
đáng kể như mở thêm các chi nhánh của mình tại các cụm xã trong toàn huyện, cải
tiến một phần thủ tục tiền gửi. Do đó trong năm 2000 vừa qua đã huy động được
18,7 tỷ tiền vốn mà chủ yếu từ nguồn gửi tiết kiệm của dân cư (12,7 tỷ). Tuy nhiên
do là ngân hàng có vai trò chủ yếu trong công tác huy động vốn ở Thanh Miện vì
vậy trong thời gian sắp tới cần chú ý một số giải pháp sau:
+Tiếp tục củng cố mạng lưới chi nhánh tại các cụm xã, tăng cường hoạt động
của các chi nhánh này, cải tiến lề lối làm việc của nhân viên giúp cho việc gửi tiền
của các hộ nhân dân được thuận tiện. Có sự hướng dẫn, giúp đỡ về thủ tục gửi, tủ
tục rút tiền và thủ tục lấy tiền lãi cho các hộ nông dân.
+Thông qua các chi nhánh của mình cùng các tổ chức,đoàn thể ở nông thôn
có kế hoạch phổ biến, tuyên truyền, giải thích những lợi ích thiết thực mà các hộ
nông dân sẽ được hưởng khi đem tiền của mình gửi ở ngân hàng.Thông báo những
tinh giảm về thủ tục mà ngân hàng đã áp dụng tới những hộ nông dân để họ hiểu
rằng họ sẽ được đón tiếp và tạo điều kiện thuận lợi nhất cho công việc gửi , rút tiền
và lấy tiền lãi của mình.
+Nếu có thể áp dụng đối với những nơi xa hội sở chính hoặc các chi nhánh
của ngân hàng, các cán bộ ngân hàng có kế hoạch về tận từng thôn thực hiện công
tác huy động vốn của mình theo định kỳ và có thông báo trước. Hoặc các chi

nhánh thông qua các chi bộ Đảng, hội nông dân thiết lập một mạng lưới chân dết
tại các cụm, cụm dân cư nhằm thu thập những thông tin về tiền gửi. Quy định đến
một mức gửi nào đó tại một điểm các cán bộ chi nhánh sẽ xuống làm thủ tục ngay
sau khi nhận được thông tin đã đủ mức quy định. Cũng có thể quy định với một
mức tiền gửi đủ lớn nào đó các cán bộ ngân hàng sẽ xuống tận hộ để làm thủ tục
gửi cho hộ nông dân.

×