Tải bản đầy đủ (.docx) (54 trang)

LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN TẬP HỢP CHI PHÍ VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM Ở DOANH NGHIỆP XÂY DỰNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (363.96 KB, 54 trang )

LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN TẬP HỢP CHI PHÍ VÀ
TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM Ở DOANH NGHIỆP XÂY
DỰNG.
I-ĐẶC ĐIỂM CỦA NGÀNH XÂY DỰNG VÀ SẢN PHẨM XÂY LẮP-
YÊU CẦU CÔNG TÁC QUẢN LÝ, KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH
GIÁ THÀNH SẢN PHẨM.
1/ Đặc điểm của ngành xây dựng và sản phẩm xây lắp.
Xây dựng cơ bản là một ngành sản xuất độc lập và duy nhất có chức năng
tạo ra và trang bị tài sản cố định cho tất cả các ngành kinh tế, tạo tiền đề cho sự
phát triển kinh tế của đất nước. Vì vậy, nó có vai trò đặc biệt quan trọng trong xã
hội, sản phẩm của ngành xây dựng không chỉ có ý nghĩa trong phạm vi một doanh
nghiệp mà còn có ý nghĩa với toàn bộ nền kinh tế. Sau những năm thực hiện
chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế mới, cũng như tất cả các ngành trong cả nước,
ngành xây dựng cơ bản ngày một thích nghi và phát triển. Với mục tiêu công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, ngành xây dựng cơ bản lại càng khẳng định được vị trí
của mình, được Đảng và Nhà nước quan tâm nhiều hơn. Vì vậy, phần lớn thu nhập
quốc dân nói chung và tích luỹ nói riêng cùng với vốn đầu tư tài trợ từ nước ngoài
được sử dụng trong lĩnh vực xây dựng cơ bản. Hàng năm ngành xây dựng cơ bản
thu hút gần 30% tổng số vốn đầu tư trong cả nước. Vấn đề đặt ra là làm sao quản
lý vốn có hiệu quả, khắc phục tình trạng thất thoát vốn, lãng phí trong thi công,
tiết kiệm chi phí, hạ giá thành, tăng tính cạnh tranh cho các doanh nghiệp.
So với những ngành sản xuất khác, ngành xây dựng cơ bản có những đặc
điểm kinh tế- kĩ thuật đặc trưng thể hiện rất rõ ở sản phẩm và quá trình sáng tạo ra
sản phẩm của ngành. Do vậy, công tác kế toán trong các doanh nghiệp xây dựng
cơ bản phải có nét đặc trưng riêng phù hợp để thực hiện tốt nhất chức năng của kế
toán là thông tin và phản ánh, đồng thời cũng phải phù hợp với những chuẩn mực
kế toán chung được thừa nhận.
Thông thường, sản phẩm xây dựng ở doanh nghiệp được thực hiện thông
qua hình thức nhận thầu hoặc theo đơn đặt hàng, sản phẩm xây lắp được tiêu thụ
theo giá dự toán hoặc giá thoả thuận với chủ đầu tư (giá đấu thầu), sản phẩm sản
xuất xong không phải đem đi tiêu thụ và khách hàng đã được xác định trước khi


thực hiện quá trình sản xuất sản phẩm. Vì vậy, các chi phí lưu thông trong các
doanh nghệp này là không có. Chi phí phát sinh chủ yếu trong quá trình cung ứng
và quá trình sản xuất. Trong quá trình sản xuất, doanh nghiệp sẽ không phải tiến
hành các hoạt động xúc tiến tiêu thụ nhưng mặt khác lại phải có quan hệ chặt chẽ
với khách hàng về việc bảo đảm quá trình sản xuất theo đúng tiến độ cũng như chất
lượng công trình và đó chính là việc xúc tiến tiêu thụ trong tương lai. Phù hợp với
đặc điểm này, kế toán chỉ tập trung theo dõi và tập hợp chi phí trong quá trình sản
xuất.
Sản phẩm xây lắp là những công trình xây dựng, vật kiến trúc... - nó mang
tính tổng hợp về nhiều mặt kinh tế, văn hoá, chính trị, xã hội... có quy mô lớn,
kết cấu phức tạp có tính đơn chiếc, thời gian sản xuất lâu dài. Đặc điểm này đòi
hỏi việc tổ chức quản lý và hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành phải xác
định cho mình một phương pháp và trình tự hạch toán thích hợp, linh hoạt, hiệu
quả đảm bảo phản ánh được đầy đủ và chính xác các chi phí phát sinh. Thông
thường, trước khi tiến hành xây lắp sản phẩm phải qua các khâu từ lập dự án rồi
đến dự toán công trình. Dự toán công trìnhlà tổng mức phí cần thiết cho việc xây
lắp công trình, được tính toán cụ thể ở giai đoạn thiết kế kĩ thuật. Tổng dự toán
công trình có liên quan đến khảo sát thiết kế, xây dựng, mua sắm thiết bị và các
chi phí khác bao gồm cả chi phí dự phòng và yếu tố trượt giá. Dự toán chi phí bao
gồm dự toán thiết kế và dự toán thi công được lập cho từng phần việc cụ thể, quá
trình sản xuất xây lắp phải so sánh với dự toán và lấy dự toán làm thước đo cả về
mặt giá trị lẫn mặt kĩ thuật.
Sản phẩm xây lắp cố định tại nơi sản xuất còn các điều kiện của sản xuất (xe
máy, thiết bị thi công, vật tư, người lao động...) phải di chuyển theo địa điểm của
công trình. Mặt khác, hoạt động xây dựng cơ bản chủ yếu được tiến hành ở ngoài
trời, thường chịu ảnh hưởng của điều kiện thiên nhiên và môi trường: mưa, nắng,
gió, bão,... dễ dẫn đến mất mát hư hỏng và không có tính ổn định. Vì vậy công tác
quản lý, sử dụng và hạch toán vật tư tài sản gặp nhièu khó khăn và phức tạp.
Thời gian sử dụng sản phẩm rất lâu dài, đòi hỏi việc tổ chức quản lý và hạch
toán sao cho chất lượng công trình được bảo đảm đúng dự toán thiết kế nghĩa là

phải bảo đảm phản ánh chính xác và đúng theo từng thời điểm phát sinh.
2/Yêu cầu của công tác quản lý và kế toán chi phí sản xuất, tính giá thành
sản phẩm xây lắp trong doanh nghiệp xây dựng.
Do vị trí quan trọng của ngành xây dựng cơ bản và đặc thù sản xuất của nó
mà việc quản lý về đầu tư và xây dựng là một quá trình khó khăn và phức tạp. Để
quản lý chặt chẽ và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư, Nhà nước đã ban
hành những quy chế quản lý phù hợp. Yêu cầu cơ bản của quản lý đầu tư và xây
dựng là:
1. Bảo đảm đúng mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế- xã hội trong từng
thời kỳ theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng công nghiệp háo-hiện đại hoá, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế,
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
2. Huy động và sử dụng có hiệu quả cao nhất các nguồn vốn đầu tư trong
nước cũng như của nước ngoài đầu tư tại Việt Nam, khai thác tốt tài nguyên và
tiềm năng người lao động, đất đai và mọi tiềm lực khác, đồng thời bảo vệ môi
trường sinh thái, chống hành vi tham ô, lãng phí trong hoạt động đầu tư và xây
dựng.
3. Xây dựng theo quy hoạch, kiến trúc và thiết kế kỹ thuật được duyệt, bảo
đảm bền vững, mỹ quan, thực hiện cạnh tranh trong xây dựngnhằm áp dụng công
nghệ xây dựng tiên tiến, bảo đảm chất lượng và thời hạn xây dựng với chi phí hợp
lý và thực hiện bảo hành công trình.
(Trích điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng ban hành kèm theo Nghị định số
42/CP ngày 16/7/1996 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung Nghị định 177/CP)
Trước đây xây dựng cơ bản là một lỗ hỏng lớn làm thất thoát nguồn vốn đàu
tưcủa Nhà nước. Để hạn chế sự thất thoát này, Nhà nước thực hiện quản lý giá
xây dựng thông qua các chế độ chính sách về giá, các nguyên tắc, phương pháp
lập dự toán... để xác định tổng mức vốn đầu tư, tổng dự toán công trình. Đặc biệt
tiết kiệm chi phí, hạ giá thành là là mối quan tâm hàng đầu, là nhiệm vụ hết sức
quan trọng.
Hiện nay, trong lĩnh vực xây dựng cơ bản chủ yếu áp dụng phương pháp

đấu thầu, giao nhận thầu xây dựng, trong đó phương pháp đấu thầu được Nhà
nước khuyến khích áp dụng. Vì vậy để trúng thầu, được nhận thi công một công
trình thì doanh nghiệp phải có một giá đấu thầu hợp lý dựa trên cơ sở các định
mức, các đơn giá xây dựng cơ bản do Nhà nước ban hành trên cơ sở giá cả thị
trường và khả năng của bản thân doanh nghiệp, mặt khác, lại phải đảm bảo kinh
doanh có lãi tức là doanh nghiệp luôn luôn phấn đấu tiết kiệm chi phí, hạ giá thành
sản phẩm. Để thực hiện được các yêu cầu trên, đơn vị phải biết sử dụng nhiều
biện pháp khác nhau. Đứng trên góc độ quản lý thì cần phải biết nguồn gốc hay
con đường hình thành nó để trên cơ sở đó, quản lý mới đề ra được biện pháp cần
thiết hạn chế, loại trừ ảnh hưởng của các nhân tố tiêu cực, khuyến khích phát huy
mức độ ảnh hưởng của các nhân tố tích cực, khai thác khả năng tiềm tàng trong
quản lý sử dụng các nguồn lực. Do đó, phải tăng cường công tác quản lý kinh tế
nói chung, quản lý chi phí, giá thành nói riêng, trong đó trọng tâm là công tác kế
toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm đảm bảo phát huy tối đa tác dụng
của công cụ kế toán đối với quản lý sản xuất.
Yêu cầu đặt ra cho công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm là:
 Phải phản ánh kịp thời, đầy đủ, chính xác toàn bộ chi phí thực tế phát
sinh trong quá trình sản xuất, thi công.
 Phân bổ hợp lý các chi phí sản xuất theo từng khoản mục vào các đối
tượng tập hợp chi phí. Căn cứ vào đặc điểm tổ chức sản xuất và quy trình công
nghệ mà áp dụng phương pháp tính giá thành thích hợp.
 Tính toán chính xác, phân bổ kịp thời giá thành xây lắp theo đối tượng
tính giá thành.
 Kiểm tra tình hình thực hiện các định mức về các chi phí về vật tư, nhân
công, sử dụng máy và các dự toán chi phí khác, phát hiện kịp thời các khoản khi
phí chênh lệch so với định mức, các khoản chi phí ngoài kho, các khoản thiệt hại
mất mát hư hỏng... để đề ra các biện pháp ngăn chặn kịp thời.
 Kiểm tra việc thực hiện giá thành của doanh nghiệp theo từng công trình,
hạng mục công trình, vạch ra các khả năng tiềm tàng và có biện pháp hạ giá thành

hợp lý và có hiệu quả.
 Xác định đúng đắn và bàn giao tính toán kịp thời khối lượng công tác xây
lắp hoàn thành, định kỳ kiểm tra và đánh giá khối lượng thi công dở dang theo
nguyên tắc quy định.
 Thông qua việc ghi chép, phản ánh tính toán để đánh giá đúng kết quả
hoạt động sản xuất kinh doanh của từng công trình, hạng mục công trình, từng bộ
phận, tổ đội thi công và toàn doanh nghiệp trong từng thời kỳ nhất định. Kịp thời
lập các báo cáo kế toán về chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp. Cung
cấp chính xác, đầy đủ thông tin về chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm phục vụ
cho quản lýcủa lãnh đạo doanh nghiệp, đồng thời kiểm tra dược việc thực hiện kế
hoạch hạ giá thành và nhiệm vụ hạ giá thành, vạch ra được những nguyên nhân
làm cho hoàn thành hoặc chưa hoàn thành kế hoạch, khai thác những khả năng
tiềm tàng và đề ra những phương hướng phấn đấu để không ngừng hạ gía thành
sản phẩm thực tế.
Để thực hiện được các yêu cầu trên, nhiệm vụ đặt ra cho công tác hạch toán
chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là:
 Xác định đúng đối tượng tập hợp chi phí sản xuất, chọn phương pháp tập
hợp và phân bổ chi phí thích hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh.
 Xác định đúng đối tượng tính giá thành và lựa chọn phương pháp tính giá
thành thích hợp. Tổ chức tốt việc tính giá thành sản phẩm.
 Xây dựng quy tắc tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm của doanh
nghiệp, quy định trình tự công việc phân bổ chi phí cho từng đối tượng, từng chi
tiết sản phẩm.
II-BẢN CHẤT VÀ NỘI DUNG KINH TẾ CỦA CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ GIÁ THÀNH
SẢN PHẨM TRONG DOANH NGHIỆP XÂY DỰNG.
1/ Khái niệm và phân loại chi phí sản xuất
1. 1. Khái niệm:
Sự phát sinhvà phát triển của xã hội loài người gắn liền vơí quá trình sản
xuất. Nền sản xuất xã hội của bất kỳ phương thức sản xuất nào cũng gắn liền với
sự vận động và tiêu hao các yếu tố cơ bản. Nói cách khác, thực chất của hoạt

động sản xuất kinh doanh các yếu tố sản xuất bỏ ra và sự biến đổi chúng có mục
đích thành sản phẩm cuối cùng. Một doanh nghiệp để tiến hành hoạt động sản xuất
kinh doanh bình thường thì không có gì thay thế là phải kết hợp hài hoà ba yếu tố
cơ bản:
-Tư liệu lao động: Như nhà xưởng, máy móc thiết bị và những tài sản cố
định khác.
-Đối tượng lao động:Như nguyên vật liệu, nhiên liệu,. . .
-Lao động của con người
Qúa trình sử dụng các yếu tố cơ bản trong quá trình sản xuất đồng thời cũng
là qúa trình doanh nghiệp phải chi ra những chi phí tương ứng. Tương ứng với việc
sử dụng tài sản cố định là chi phí về khấu hao tài sản cố định, với việc sử dụng
nguyên vật liệu, nhiên liệu... là chi phí nguyên vật liệu, với việc sử dụng là tiền
công, tiền trích bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế... Vì thế, sự hình thành nên chi
phí sản xuất để tạo ra giá trị sản phẩm là tất yếu khách quan không phụ thuộc vào ý
chí chủ quan của người sản xuất. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, mọi chi
phí trên đều biểu hiện bằng tiền, chi phí về tiền công là biểu hiện bằng tiền của
hao phí về lao động sống và chi phí về khấu hao tài sản cố định, chi phí về nguyên
vật liệu... là biểu hiện bằng tiền của hao phí về lao động vật hoá.
Chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phát sinh thường xuyên trong
suốt quá trình tồn tại và hoạt động của doanh nghiệp nhưng để phục vụ cho quản lý
và hạch toán kinh doanh, chi phí sản xuất phải được tính toán tập hợp theo từng
thời kỳ: hàng tháng, hàng quý, hàng năm phù hợp với kỳ báo cáo.
Cần chú ý phân biệt giữa chi phí và chi tiêu. Chi phí là biểu hiện bằng tiền
của toàn bộ hao phí về lao động sống và lao động vật hoá cần thiết cho quá trình
hoạt động sản xuất kinh doanh mà doanh nghiệp phải chi ra trong một kỳ kinh
doanh. Như vậy chỉ được tính chi phí của kỳ hạch toán những hao phí về tài sản và
lao động có liên quan đến khối lượng sản phẩm sản xuất ra trong kỳ chứ không
pghải mọi khoản chi ra trong kỳ hạch toán. Ngược lại chi tiêu là sự giảm đi đơn
thuần các loại vật tư, tài sản tiền vốn của doanh nghiệp, bất kể nó được dùng vào
mục đích gì. Tổng số chi tiêu trong kỳ của doanh nghiệp bao gồm chi tiêu cho quá

trình cung cấp(chi mua sắm vật tư hàng hoá), chi tiêu cho quá trình sản xuất kinh
doanh (chi cho quá trình sản xuất, chế tạo sản phẩm, công tác quản lý...) và chi
cho quá trình tiêu thụ (chi vận chuyển, bốc dỡ, quảng cáo... )
Chi phí và chi tiêu là hai khái niệm khác nhau nhưng có quan hệ mật thiết
với nhau. Chi tiêu là cơ sở phát sinh của chi phí, không có chi tiêu thì không có
chi phí. Tổng số chi phí trong kỳ của doanh nghiệp bao gồm toàn bộ giá trị tài sản
hao phí hoặc tiêu dùng hết cho quă trình sản xuất kinh doanh tính vào kỳ này. Chi
phí và chi tiêu không những khác nhau về lượmg mà còn khác nhau về thời gian.
Có những khoản chi tiêu kỳ nàynhưng chưa được tính vào chi phí(chi mua nguyên
vật liệu về nhập kho nhưng chưa sử dụng) và cũng có những khoản tính vào chi phí
kỳ này nhưng thực tế chưa chi tiêu(chi phí trích trước). Sở dĩ có sự khác biệt giữa
chi phí và chi tiêu trong các doanh nghiệp là do đặc điểm tính chất vận động và
phương thức chuyển dịch giá trị của từng loại tài sản vào quả trình sản xuất và yêu
cầu hạch toán chúng.
Có thể kết kuận rằng: Chi phí sản xuất kinh doanh là biểu hiện bằng tiền của
toàn bộ hao phí mà doanh nghiệp phải tiêu dùng trong một kỳ để thực hiện quá
trình sản xuất, tiêu thụ sản phẩm. Thực chất, chi phí là sự chuyển dịch vốn,
chuyển dịch giá trị của các yếu tố sản xuất vào các đối tượng tính giá(sản phẩm,
lao vụ, dịch vụ... )
Chi phí phát sinh để phục vụ nhiều chức năng trong doanh nghiệp, bao gồm
chức năng sản xuất, chức năng tiêu thụ, chức năbg quản lý doanh nghiệp. Chi phí
sản xuất là chi phí thực hiện chức năe\ng sản xuất, nó được tập hợp từ các khoản
chi phí phát sinh trong quá trình chế biến sản phẩm, khoản chi phí này được tính
vào giá thành sản xuất sản phẩm.
Như vậy, chi phí sản xuất trong ngành xây dựng cơ bản là biểu hiện bằng
tiền của toàn bộ hao phí về lao động sống, lao động vật hoá và các khoản hao
phí cần thiết khác mà doanh nghiệp bỏ ra để tiến hành hoạt động sản xuất thi
công trong một thời kỳ nhất định.
1. 2. Phân loại chi phí sản xuất.
Trong doanh nghiệp, chi phí sản xuất bao gồm nhiều loại, nhiều khoản

khác nhau cả về tính chất, nội dung, công dụng, vai trò, vị trí... Để thuận lợi cho
công tác quản lý và hạch toán, cần thiết phải tiến hành phân loại chi phí sản xuất.
Xuất phát từ các mục đích và yêu cầu khác nhau của quản lý, chi phí sản xuất
cũng được phân loại theo những tiêu thức khác nhau. Phân loại chi phí sản xuất là
việc sắp xếp chi phí vào từng loại, từng nhóm khác nhau sản xuất theo những đặc
trưng nhất định.
Xét về mặt lý luận cũng như trên thực tế, có rất nhiều cách phân loại chi phí
khác nhau như phân loại theo nội dung kinh tế, theo công dụng, theo vị trí, theo
quan hệ của chi phí với quá trình sản xuất, v. v... Mỗi cách phân loại đều đáp ứng
ít nhiều cho mục đích quản lý, hạch toán, kiểm tra, kiểm soát chi phí phát sinh...
ở các góc độ khác nhau. Vì thế, các cách phân loại đều tồn tại, bổ sung cho nhau
và giữ vai trò nhất định trong quản lý chi phí và tính giá thành sản phẩm. Xuất
phát từ đặc điểm của ngành xây lắp và yêu cầu quản lý của ngành xây dựng cơ bản,
việc phân loại chi phí sản xuất có những nét không giống với các ngành sản xuất
khác. Thông thường, chi phí sản xuất trong doanh nghiệp xây lắp được phân loại
theo các phương pháp sau:
 Xét trên góc độ kế toán tài chính: Có một số cách phân loại chủ yếu được
sử dụng phổ biến trong hạch toán chi phí và tính giá thành sản phẩm dưới đây:
a/Phân loại theo lĩnh vực hoạt động:
Căn cứ vào việc tham gia của chi phí vào hoạt động kinh doanh, toàn bộ chi
phí được chia làm 3 loại:
 Chi phí sản xuất kinh doanh: Bao gồm những chi phí liên quan đến hoạt
động sản xuất sản phẩm.
 Chi phí hoạt động tài chính: Bao gồm những chi phí liên quan đến những
hoạt động về vốn và đầu tư tài chính phục vụ cho việc sản xuất, chế tạo sản phẩm.
 Chi phí hoạt động bất thường: Bao gồm những chi phí ngoài dự kiến, có
thể do chủ quan hay khách quan mang lại có liên quan đến hoạt động sản xuất, chế
tạo sản phẩm.
Cách phân loại này giúp cho việc phân định chi phí được chính xác, phục
vụ cho việc tính giá thành cũng như phân tích các nhân tố có ảnh hưởng đến chi

phí, từ đó có biện pháp giải quyết thích hợp. Ngoài ra, nó còn giúp xác định chi
pghí và kết quả của từng hoạt động kinh doanh đúng đắn cũng như lập báo cáo tài
chính kịp thời.
b/Phân loại theo yếu tố chi phí:
Để phục vụ cho việc tập hợp, quản lý chi phí theo nội dung kinh tế ban đầu
đồng nhất của nó mà không kể đến công dụng cụ thể, địa điểm phát sinh thì chi
phí được phân loại theo yếu tố. Về thực chất, chỉ có hai yếu tố chi phí là chi phí
về lao động vật hoá và chi phí về lao động sống. Tuy nhiên, để cung cấp thông tin
về chi phí một cách cụ thể hơn nhằm phục vụ cho việc xây dựng và phân tích định
mức vốn lưu động, việc lập, kiểm tra và phân tích dự toán, các yếu tố chi phí trên
có thể được chi tiết hoá theo nội dung cụ thể của chúng. Tuỳ theo yêu cầu và trình
độ quản lý ở mỗi nước, mỗi thời kỳ mà mức độ chi tiết của các yếu tố có thể khác
nhau. Theo quy định hiện hành ở Việt Nam, toàn bộ chi phí được chia làm 7 yếu
tố sau:
 Yếu tố nguyên vật liệu: Bao gồm toàn bộ giá trị nguyên, vật liệu chính,
phụ, phụ tùng thay thế, công cụ, dụng cụ... sử dụng vào sản xuất (loại trừ giá trị
nguyên vật liệu dùng không hết nhập lại kho và phế liệu thu hồi ).
 Yếu tố nhiên liệu, động lực được sử dụng vào quá trình sản xuất sản
phẩm trong kỳ (trừ số sử dụng không hết nhập lại kho và phế liệu thu hồi ).
 Yếu tố tiền lương và các khoản phụ cấp lương: Phản ánh tổng số tiền
lương và phụ cấp mang tính chất lương phải trả cho công nhân, nhân viên quản lý
tổ đội thi công.
 Yếu tố khấu hao tài sản cố định: Phản ánh tổng số khấu hao tìa sản cố
định phải trích trong kỳ của tất cả các tiài sản cố định dùng cho sản xuất thi công
trong kỳ.
 Yếu tố chi phí dịch vụ mua ngoài: Phản ánh toàn bộ chi phí dịch vụ mua
ngoài dùng vào hoạt động sản xuất, thi công trong kỳ.
 Yếu tố chi phí khác bằng tiền: Phản ánh toàn bộ chi phí khác bằng tiền
chưa phản ánh vào các yếu tố chi phí trên dùng vào hoạt động sản xuất, thi công
trong kỳ.

c/Phân loại theo khoản mục chi phí trong giá thành sản phẩm:
Căn cứ vào ý nghĩa của chi phí trong giá thành sản phẩm và để thuận tiện
việc tính giá thành toàn bộ, chi phí được phân chia theo khoản mục. Cách phân
loại này dựa vào công dụng của chi phí và mức phân bổ chi phí cho từng đối
tượng. Cũng như cách phân loại theo yếu tố, số lượng các khoản mục tchi phí
trong giá thành sản phẩm tuỳ thuộc vào trình độ nhận thức, trình độ quản lý và
hạch toán ở mỗi nước, mỗi thời kỳ khác nhau.
Theo quy định hiện hành, chi phí sản xuất ở Việt Nam bao gồm 3 khoản mục
chi phí:
 Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Phản ánh toàn bộ chi phí về nguyên vật
liệuchính, phụ, nhiên liệu... tham gia trực tiếp vào sản xuất, thi công.
 Chi phí nhân công trực tiếp: Gồm tiền lương, phụ cấp lương của công
nhân, nhân viên quản lý xí nghiệp, đội thi công.
 Chi phí sử dụng máy thi công: Là những chi phí liên quan đến việc việc
sử dụng xe máy thi công phục vụ trực tiếp cho hoạt động xây lắp công trình theo
phương thức thi công hỗn hợp vừa thủ công vừa kết hợp bằng máy.
 Chi phí sản xuất chung: Là những chi phí phát sinh trong phạm vi xí
nghiệp, đội xây dựng, trừ chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí nhân công
trực tiếp.
Ngoài ra, khi tính chỉ tiêu giá thành toàn bộ ( giá thành đầy đủ) thì chỉ tiêu
giá thành còn bao gồm cả khoản mục chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh
nghiệp.
Ta thấy điều khác biệt cách phân loại theo khoản mục chi phí ở doanh
nghiệp xây dựng so với các ngành sản xuất khác là ở chỗ: Trong doanh nghệp xây
dựng, khoản mục chi phí nhân công trực tiếp không bao gồm yếu tố bảo hiểm xã
hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn nhưng ở các doanh nghiệp khác thì có.
d/Phân loại chi phí theo mối quan hệ với khối lượng sản phẩm, công
việc, lao vụ sản xuất trong kỳ:
Theo cách phân loại này, chi phí sản xuất được chia làm 2 loại:
 Chi phí khả biến ( biến phí ): Là loại chi phí có thay đổi về lượng tương

quan tỷ lệ thuận với sự thay đổi của khối lượng sản phâmr sản xuất trong kỳ.
Thuộc loại chi phí này là: chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí nhân công
trực tiếp.
 Chi phí cố định ( định phí ): Là chi phí không thay đổi về tổng số khi có
sự thay đổi trong mức độ hoạt động của sản xuất hoặc khối lượng công việc, lao
vụ sản xuất trong kỳ.
Phân loại chi phí thành chi phí khả biến và chi phí cố định có tác dụng quản
lý định mức và những khoản chi phí mà Nhả nước quản lý chặt chẽ. Đặc biệt nó
có vai trò rất quan trọng đối với quản trị kinh doanh, phân tích điểm hoà vốn phục
vụ cho việc ra quyết định quản lý, tận dụng tiềm năng phát triển sản xuất kinh
doanh.
 Trên góc độ kế toán quản trị: Những cách phân loại chi phí nêu trên đều
có tác dụng đối với việc ra quyết định của doanh nghiệp, tuy nhiên, để phục vụ tốt
hơn cho quá trình quản trị doanh nghiệp thì trong kế toán quản trị còn có những
cách phân loại sau:
a/Phân loại chi phí theo chức năng của chi phí:
Theo cách phân loại này, chi phí được chia làm 2 loại:
 Chi phí ban đầu: Là những khoản chi phí đầu tiên chủ yêú của sản phẩm,
gồm chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp.
 Chi phí chuyển đổi: Phản ánh mức chi phí cần thiết để chuyển đổi nguyên
vật liệu từ dạng thô sang dạng thành phẩm, nó bao gồm 2 khoản là chi phí nhân
công trực tiếp và chi phí sản xuất chung.
Cách phân loại này giúp doanh nghiệp xác định được cơ cấu chi phí của
mình và so sánh với mức chung của ngành, từ đó có sự phân tích, đánh giá để đưa
ra quyết định phù hợp.
b/Phân loại chi phí theo cách ứng xử của chi phí:
Cách ứng xử của chi phí có nghĩa là chi phí này thay đổi như thế nào đói với
các mức độ thay đổi của hoạt động sản xuất. Với cách phân loại này cho phép
người quản lý thấy trước được sự thay đổi của chi phí khi hoạt động sản xuất thay
đổi, do đó đáp ứng cho yêu cầu lập kế hoạch, kiểm soát và chủ động điều tiết chi

phí. Thật ra cách phân loại này chính là cách phân loại chi phí theo mối quan hệ
với khối lượng sản phẩm, công việc, lao vụ sản xuất trong kỳ. Tuy nhiên, để phục
vụ cho mục đích quản trị, nó có một số nét khác biệt, cụ thể, theo cách phân loại
này, chi phí được chia làm 3 loại:
 Biến phí ( chi phí khả biến ): Là những khoản chi phí có quan hệ tỷ lệ
thuận với biến động của mức độ hoạt động sản xuất, nó thường gồm những khoản
sau:
+Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp,
+Chi phí nhân công trực tiếp,
+Một bộ phận chi phí sản xút chung bao gồm chi phí nguyên vật liệu gián
tiếp, chi phí nhân công gián tiếp, chi phí động lực, công cụ, dụng cụ, nhiên
liệu...
 Định phí (chi phí cố định ): Là những khoản chi phí không thay đổi khi
mức độ hoạt động sản xuất thay đổi, tuy nhiên, đinh phí chỉ giữ nguyên trong
phạm vi phù hợp của mức độ hoạt động giữa mức độ hoạt động tối thiểu và mức độ
hoạt động tối đa mà doanh nghiệp dự định sản xuất.
 Chi phí hỗn hợp: Bao gồm cả yếu tố biến phí và định phí ở mức độ hoạt
động căn bản, chi phí hỗn hợp thể hiện đặc điểm của định phí. Qúa mức độ đó,
nó lại thể hiện đặc điểm cuả chi phí biến đổi. Chi phí hỗn hợp thường bao gồm các
khoản điện nước, điện thoại, sửa chữa, bảo dưỡng máy móc thiết bị... Do đó, chỉ
có chi phí sản xuất chung mới có đặc điểm của chi phí hỗn hợp.
Ngoài ra có các cách phân loại sau đây nhằm mục đích cho việc ra quyết
định kinh doanh:
-Chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp.
-Chi phí kiểm soát được và chi phí không kiểm soát được. : Llà những khoản
mục chi phí phản ánh phamj vi quyền hạn của người quản lý các cấp đối với những
loại chi phí đó. Người quản lý cấp cao có phạm vi quyền hạn rộng đối với chi phí
hơn là những người quản lý cấp dươí, nghĩa là họ có nhiều quyền kiểm soát và
quyết định chi phí hơn.
-Chi phi chênh lệch: là những loại chi phí có ở phương án này mà không có

hoặc chỉ có một phần ở phương án. Người ta xét chi phí này khi khi chọn phương
án hành động.
-Chi phí chìm: Là loại chi phí mà doanh nghiệp phải chịu và sẽ phải chịu dù
doanh nghiệp chọn phương án hành động nào. Chi phí chìm khômg bao giờ thích
hợp với việc ra quyết địnhvì chúng không có tính chênh lệch. Do đó, tất cả chi phí
đã đầu tư vào tài sản cố định dù theo giá trị ban đầu hay giá trị còn lại đều là chi
phí chìm.
2/Khái niệm giá thành và phân loại giá thành trong doanh nghiệp xây
dựng.
2. 1/Khái niệm:
Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các khoản hao phí về
lao động sống và lao động vật hoá liên quan đến khối lượng công tác, sản phẩm,
lao vụ đã hoàn thành.
Trong doanh nghiệp xây dựng, khối lượng công tác, sản phẩm, lao vụ đã
hoàn thành là các công trình, hạng mục công trình, khối lượng xây lắp đã hoàn
thành.
Như ta đã biết, quá trình sản xuất là một quá trình thống nhất bao gồm hai
mặt: Mặt hao phí sản xuất và mặt kết quả sản xuất và hai thước đo giá trị tương
ứng của chúng là chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm. Tất cả những khoản chi
phí phát sinh (phát sinh trong kỳ, kỳ trước chuyển sang) và tất cả các khoản chi
phí trích trước có liên quan đến khối lượng sản phẩm, lao vụ, dịch vụ đã hoàn
thành trong kỳ sẽ tạo nên chỉ tiêu giá thành sản phẩm.
Theo đúng ý nghĩa đó, giá thành sản phẩm là một phạm trù của sản xuất
hạng hoá, phản ánh lượng giá trị của những lao động sống và lao động vật hoá đã
thực sự chi ra cho sản xuất sản phẩm. Trong giá thành sản phẩm chỉ bao gồm
những chi phí tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình sản xuất cần phải
được bồi hoàn để tái sản xuất ở doanh nghiệp mà không bao gồm toàn bộ những
chi phí phát sinh trong kỳ kinh doanh của doanh nghiệp. Những chi phí đưa vào
giá thành phải phản ánh được giá trị thực của các tư liệu sản xuất tiêu dụng cho sản
xuất sản phẩm, lao vụ, dịch vụ và các khoản chi tiêu khác có liên quan tới việc bù

đắp giản đơn hao phí lao động sống tiêu hao cho quá trình sản xuất. Mọi cách tính
toán một cách chú quan, không phản ánh đúng các yếu tố giá trị trong giá thành
đều có thể dẫn đến việc phá vỡ các quan hệ hàng hoá- tiền tệ, không xác định
được hiệu quả kinh doanh và không thực hiện được tái sản xuất giản đơn và tái sản
xuất mở rộng.
Tuy nhiên, giá thành là đại lượng tính toán - là một chỉ tiêu biến tướng ý
định nên ở phương diện này, nó cũng có phần nào mang tính chủ quan (biểu hiện
mặt hạn chế của giá thành ). Đặc điểm chủ quan của giá thành được thể hiện ở hai
khía cạnh:
-Tính vào giá thành một số khoản mục chi phí mà thực chất là thu nhập
thuần tuý của xã hội như các khoản trích nộp thuế, nộp cấp trên...
-Một số khoản mục chi phí gián tiếp được phân bổ vào giá thành của từng
loại sản phẩm hay từng sản phẩm theo các tiêu thức phù hợp.
Như vậy, chỉ tiêu giá thành trong một chừng mực nào đó vừa mang tính
khách quan vừa mang tính chủ quan, vì vậy nó cần được xem xét trên nhiều mặt
khác nhau nhằm có thể sử dụng chỉ tiêu này một cách có hiệu quả nhất.
2. 2/Phân loại giá thành:
Để đáp ứng các yêu cầu của quản lý, hạch toán và kế hoạch hoá giá thành
cũng như yêu cầu xây dựng giá cả hàng hoá, giá thành được xem xét dưới nhiều
góc độ khác nhau:
 Trên góc độ kinh tế chính trị: Có hai khái niệm giá thành là giá thành xã
hội và giá thành cá biệt.
 Giáthành xã hội là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ lượng hao phí lao động
cần thiết để sản xuất ra sản phẩm trong điều kiện trung bình của nền sản xuất xã
hội.
 Gía thành cá biệt là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ lượng hoa phí lao
động cần thiết để sản xuất ra sản phẩm trong một điều kiện cụ thể của một cơ sở
sản xuất nào đó.
Cách phân loại này có tác dụng trong việc quản lý vĩ mô, nó cho phép đánh
giá việc sử dụng tài nguyên của một quốc gia, một xã hội có hiệu quả như thế nào,

năng suất sản xuất đến đâu.
 Trên góc độ kế toán tài chính: Trong doanh nghiệp xây dựng có các cách
phân loại chủ yếu sau:
a/Phân loại giá thành theo thời điểm tính và nguồn số liệu để tính giá
thành:
Theo cách phân loại này, giá thành được chia thành giá thành dự toán, giá
thành kế hoạch và giá thành thực tế.
 Giá thành dự toán: Là tổng số chi phí dự toán để hoàn thành khối lượng
xây lắp công trình, được xác định theo định mức và khung giá quy định áp dụng
cho từng vùng lãnh thổ. Giá thành dự toán nhỏ hơn giá trị dự toán ở phần lợi
nhuận định mức.
Giá thành dự toán của công trình, hạng mục công trình là chi phí cho công
tác xây dựng, lắp đặt các cấu kiện, các máy móc thiết bị bao gồm các chi phí trực
tiếp, chi phí chung và lợi nhuận định mức.
Lãi định mức là chỉ tiêu Nhà nước quy định để tích luỹ cho xã hội giá trị do
ngành xây dựng cơ bản sáng tạo ra.
 Giá thành kế hoạch: Là loại giá thành được xác định trước khi bước vào
sản xuất được xây dựng từ những điều kiện cụ thể về biện pháp thi công, các định
mức đơn giá áp dụng trong đơn vị. Việc tính toán giá thành kế hoạch do bộ phận
kế hoạch của doanh nghiệp thực hiện và được tiến hành trước khi bắt đàu quá trình
sản xuất, chế tạo sản phẩm. Gía thành kế hoạch là mục tiêu phấn đấu của doanh
nghiệp, là căn cứ để so sánh, phân tích, đánh giá tình hình thực hiện hạ giá thành
ở doanh nghiệp.
Khi tính giá thành kế hoạch, việc quan trọng nhất là xác định đúng số tiết
kiệm so với giá thành dự toán nhờ thực hiện các biện pháp kỹ thuật. Bằng cách
tính toán có căn cứ các biện pháp kỹ thuật, có thể tổng hợp các hiệu quả kinh tế do
các biện pháp mang lại.
 Giá thành thực tế: Là chỉ tiêu được xác định sau khi kết thúc quá trình sản
xuất sản phẩm dựa trên cơ sở các chi phí phát sinh trong quá trình sản xuất sản
phẩm.

Giá thành thực tế mang tính chất xã hội, nhờ việc so sánh giá thành thực tế
với giá thành dự toán cho phép ta đánh giá trình độ quản lý của doanh nghiệp xây
lắp đó trong mối quan hệ với doanh nghiệp khác. Việc so sánh giá thành thực tế với
giá thành kế hoạch cho phép đánh giá sự tiến bộ hay yếu kém của doanh nghiệp
xây lắp trong điều kiện cụ thể về cơ sở vật chất, trình độ tổ chức quản lý của bản
thân nó.
Giá trị dự toán - giá th nh dà ự toán = lãi định mức
Giá th nh kà ế hoạch - giá th nh dà ự toán = mức hạ giá th nh dà ự
toán
Đối với các đơn vị không có giá thành dự toán thì theo cách phân loại này,
người ta có thêm loại giá thành định mức (giống như các doanh nghiệp sản xuất
công nghiệp).
 Giá thành định mức: Cũng như giá thành dự toán hay giá thành kế hoạch,
nóđược xác định trước khi bắt đầu sản xuất sản phẩm dựa trên những định mức
tiên tiến và không biến đổi trong suốt cả kỳ kế hoạch, giá thành lại được xây dựng
trên cơ sở các định mức chi phí hiện hành tại từng thời điểm nhất định trong kỳ kế
hoạch ( thường là ngày đầu tháng ) nên giá thành định mức luôn phù hợp với sự
thay đổi của các định mức chi phí đạt được trong quá trình sản xuất sản phẩm.
b/Phân loại giá thành theo phạm vi phát sinh:
Theo cách phân loại này, giá thành được chia thành 2 loại:
 Gía thành sản xuất (còn gọi là giá thành công xưởng): Là chỉ tiêu phản
ánh tất cả những chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất, chế tạo sản phẩm
trong phạm vi phân xưởng sản xuất (chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân
công trực tiếp và chi phí sản xuất chung). Bởi vậy giá thành sản xuất còn có tên
gọi là giá thành phân xưởng.
 Giá thành tiêu thụ (giá thành toàn bộ): Là chỉ tiêu phản ánh toàn bộ các
khoản chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất, tiêu thụ sản phẩm(chi phí sản
xuất, chi phí bán hàng và chi phí quản lý). Do vậy, giá thành tiêu thụ còn được
gọi là giá thành toàn bộ hay giá thành đầy đủ.
c/Phân loại giá thành theo theo phạm vị tính giá thành:

Do quá trình thi công và sản xuất sản phẩm xây lắp kéo dài, khối lượng xây
lắp lớn nên để tiện theo dõi những chi phí phát sinh, người ta phân chia giá thành
sản phẩm xây lắp thành gái thành hoàn chỉnh và giá thành không hoàn chỉnh.
 Giá thành hoàn chỉnh: Phản ánh toàn bộ chi phí liên quan công trình,
hạng mục công trình hoàn thành hay chính là chi phí chi ra để tiến hành thi công
một công trình, hạng mục công trình kể từ khi khởi công đến khi kết thúc hoàn
thành bàn giao cho bên A (bên chủ đầu tư).
 Giá thành không hoàn chỉnh (giá thành công tác xây lắp thực tế): Phản ánh
giá thành một khối lượng công tác xây lắp đạt tới một điểm dừng kỹ thuật nhất
định, nó cho phép kiểm kê kịp thời chi phí phát sinh để kịp thời điều chỉnh cho
Z to n bà ộ của Z sản xuất chi phí quản chi phí tiêu
sp tiêu thụ
=

sản phẩm
+
lý DN
+
thụ sp
thích hợp ở những giai đoạn sau, phát hiện những nguyên nhân làm thay đổi chi
phí.
d/ Ngoài ra, trong xây dựng cơ bản còn sử dụng hai chỉ tiêu giá thành
sau:
 Giá thành đấu thầu xây lắp: là một loại giá thành dự toán xây lắp do chủ
đầu tư đưa ra để các doanh nghiệp căn cứ vào đó mà tính giá thành của mình (còn
gọi là giá thành dự thầu công tác xây lắp). Nếu thấy giá thành của mình thấp hơn
giá thành đấu thầu thì sẽ tăng giá đấu thầu công tác xây lắp công trình.
Giá đấu thầu công tác xây lắp do chủ đầu tư đưa ra, về nguyên tắc chỉ bằng
hoặc nhỏ hơn giá thành dự toán, có như vậy chủ đầu tư mới tiết kiệm được vốn
đầu tư, tăng hiệu quả sử dụng đồng vốn.

 Giá hợp đồng công tác xây lắp: Là loại giá thành dự toán xây lắp ghi trong
hợp đồng được ký kết giữa chủ đầu tư và đơn vị xây lắp sau khi đã thoả thuận giao
nhận thầu. Đó cũng chính là giá thành giá thành của doanh nghiệp thắng cuộc
trong đấu thầu và được chủ đầu tư thoả thuận ký hợp đồng giao thầu. Về nguyên
tắc, giá thành hợp đồng chỉ được nhỏ hơn hoặc bằng giá đấu thầu công tác xây lắp.
Việc áp dụng hai loại giá thành xây lắp trên là yếu tố quan trọng của việc
hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế trong xây dựng. Nó sử dụng được quan hệ tiền -
hàng, tạo ra sự mềm dẻo nhất định trong quan hệ giữa chủ đầu tư và doanh nghiệp
xây lắp, tạo quyền chủ động trong việc định giá sản phẩm của mình cũng như
trong hoạt động kinh doanh, thích hợp với cơ chế thị trường.
Ngoài ra trên góc độ kế toán quản trị, người ta còn phân loại giá thành ra
làm 2 loại là giá thành đầy đủ và giá thành cần thiết.
 Giá thành đầy đủ:
 Gía thành cần thiết:
3. Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm.
Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là hai khái niệm có quan hệ mật thiết
với nhau cả về mặt chất cũng như mặt lượng. Về mặt chất, chúng đều phản ánh chi
phí lao động trên hai mặt của một quá trình thống nhất: quá trình sản xuất. Về mặt
lượng, giá thành là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các khoản chi phí mà doanh
nghiệp bỏ ra bất kể ở kỳ nào nhưng có liên quan đến khối lượng công việc, sản
phẩm, dịch vụ, lao vụ đã hoàn thành trong kỳ.
Có thể phản ánh mối quan hệ về lượng đó như sau:

Qua sơ đồ ta thấy: AC

CDBDAB −+=
tức là:
Tổng giá thành sản chi phí sxdd chi phí sxps chi phí sxdd
phẩm hoàn thành
=

đầu kỳ
+
trong kỳ
-
cuối kỳ
Khi giá trị sản phẩm dở dang (chi phí sản xuất dở dang) đầu kỳ và cuối kỳ
bằng nhau hoặc khi không có sản phẩm dở dang thì tổng giá thành sản phẩm
bằng tổng chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ.
Như vậy ta thấy, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau, điều đó làm cho công tác hạch toán chúng cũng có mối quan
hệ chặt chẽ. Xuất phát từ mối quan hệ về chất của hai khái niệm chi phí sản
xuất và giá thành sản phẩm mà giữa hai quá trình hạch toán chi phí sản xuất và
tính giá thành sản phẩm có mội quan hệ là hai quá trình hạch toán kế tiếp nhau
của quá trình hạch toán sản xuất. Trước hết là chúng có mối quan hệ chặt chẽ
giữa đối tượng tập hợp chi phí và đối tượng tính giá thành, chúng đều phụ thuộc
vào loại hình sản phẩm, quy trình công nghệ... Thứ hai là việc tính đúng, tính
đủ chi phí sản xuất có vai trò quan trọng trong việc tính đúng giá thành sản
phẩm. Tuy nhiên, việc hạch toán chi phí sản xuất chưa phải là mục tiêu của
phương pháp tính giá thành sản phẩm mà nó chỉ mới là cơ sở, là phương tiện
của giá thành. Hạch toán chi phí sản xuất dù đầy đủ và chi tiết đến đâu cũng chỉ
phản ánh được một phần của quan hệ này, mặt chi ra của sản xuất, vì vậy,
ngoài hạch toán chi phí sản xuất, tính gía thành sản phẩm còn vận dụng các
biện pháp kỹ thuật nhằm nêu ra chính xác nhất quan hệ giữa chi phí và kết quả
sản xuất của từng hoạt động sản xuất kinh doanh cụ thể.
4/Đối tượng và phương pháp hạch toán chi phí sản xuất, tính giá thành
sản phẩm.
Chi phí sản xuất dở chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ
dang đầu kỳ
B D
A TỔNG GIÁ THÀNH SẢN PHẨM C Chi phí sản xuất

DỊCH VỤ HOÀN THÀNH dở dang cuối kỳ
4. 1. Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành
sản phẩm.
Để hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm được chính xác,
kịp thời đòi hỏi công việc đầu tiên mà nhà quản lý phải làm là xác định đối tượng
hạch toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành sản phẩm. Vấn đề này có
tầm quan trọng đặc biệt cả trong lý luận cũng như thực tiễn và là nội dung cơ bản
nhất của hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
Tổ chức hạch toán quá trình sản xuất bao gồm hai giai đoạn kế tiếp nhau và
có quan hệ mật thiết với nhau. Đó là giai đoạn hạch toán chi tiết chi phí sản xuất
phát sinh theo từng sản phẩm, nhóm sản phẩm, đơn đặt hàng, giai đoạn công
nghệ, phân xưởng... và giai đoạn tính giá thành sản phẩm, chi tiết sản phẩm, sản
phẩm theo đơn đặt hàng đã hoàn thành theo đơn vị tính giá thành quy định. Việc
phân chia này xuất phát từ yêu cầu quản lý kiểm tra và phân tích chi phí, yêu cầu
hạch toán kinh doanh nội bộ, theo đặc điểm quy trình công nghệ của từng doanh
nghiệp và yêu cầu tính giá thành sản phẩm theo đơn vị tính giá thành quy định. Có
thể nói, việc phân chia quá trình hạch toán thành hai giai đoạn là do sự khác nhau
cơ bản về giới hạn tập hợp chi phí trong hạch toán chi phí sản xuất - tức là đối
tượng hạch toán chi phí sản xuất - và sản phẩm hoàn thành cần phải tính giá thành
một đơn vị - tức là đối tượng tính giá thành.
Như vậy, xác định đối tượng hạch toán chi phí sản xuất chính là việc xác
định giới hạn tập hợp chi phí mà thực chất là xác định nơi phát sinh chi phí và nơi
chịu chi phí. Còn xác định đối tượng tính giá thành chính là việc xác định sản
phẩm, bán thành phẩm, công việc, lao vụ nhất định đòi hỏi phải tính giá thành
một đơn vị. Đối tượng đó có thể là sản phẩm cuối cùng của quá trình sản xuất hay
đang trên dây chuyền sản xuất tuỳ theo yêu cầu của hạch toán kinh tế nội bộ và
tiêu thụ sản phẩm.
Để phân biệt được đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá
thành sản phẩm ngay cả khi chúng đồng nhất là một cần dựa vào các cơ sở sau đây:
a/Đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất: Sản xuất giản đơn hay phức

tạp.
Với sản xuất giản đơn, (doanh nghiệp chỉ sản xuất một số ít mặt hàng với
khối lượng lớn, chu kỳ sản xuất ngắn khép kín, liên tục, không có điểm dừng, sản
phẩm dở dang không có hoặc chỉ có không đáng kể) thì đối tượng hạch toán chi
phí sản xuất có thể là sản phẩm hay toàn bộ quá trình sản xuất (nếu sản xuất một
loại sản phẩm) hoặc có thể là nhóm sản phẩm (nếu sản xuất nhiều thứ sản phẩm
cùng tiến hành trong cùng một quá trình lao động). Đối tượng tính giá thành ở đây
là sản phẩm cuối cùng.
Với sản xuất phức tạp (quy trình sản xuất qua nhiều bước khác nhau, có
điểm dừng kỹ thuật, chu kỳ sản xuất kéo dài) thì đối tượng hạch toán chi phí sản
xuất có thể là bộ phận, chi tiết sản phẩm, các giai đoạn chế biến, phân xưởng sản
xuất hoặc nhóm chi tiết, bộ phận sản phẩm... Còn đối tượng tính giá thành là
thành phẩm ở bước chế tạo cuối cùng hoặc bán thành phẩm ở từng bước chế tạo.
b/Loại hình sản xuất: Đơn chiếc, sản xuất hàng loạt nhỏ hay sản xuất hàng
loạt với khối lượng lớn.
Đối với sản xuất đơn chiếc (sản phẩm có quy mô và giá trị lớn, các sản
phẩm không hoàn toàn giống nhau) và sản xuất hàng loạt nhỏ thì đối tượng hạch
toán chi phí là các đơn đặt hàng riêng biệt, còn đối tượng tính giá thành là sản
phẩm của từng đơn.
Đối với sản xuất hàng loạt với khối lượng lớn, phụ thuộc vào quy trình công
nghệ sản xuất (đơn giản hay phức tạp) mà đối tượng hạch toán chi phí sản xuất có
thể là sản phẩm, nhóm sản phẩm, chi tiết, nhóm chi tiết, giai đoạn công nghệ...
Còn đối tượng tính giá thành có thể là sản phẩm cuối cùng hay bán thành phẩm
như đã nêu trên.
c/Yêu cầu và trình độ quản lý, tổ chức sản xuất kinh doanh: Dựa trên cơ
sở trình độ, yêu cầu và tổ chức quản lý để xác định đối tượng hạch toán chi phí
sản xuất và đối tượng tính giá thành. Với trình độ cao, có thể chi tiết đối tượng
hạch toán chi phí sản xuát và tính giá thành sản phẩm ở các góc độ khác nhau:
ngược lại, nếu trình độ thấp thì đối tượng đó có thể bị hạn chế và thu hẹp lại.
Đối với doanh nghiệp xây dựng, đặc điểm quy trình công nghệ là phức

tạp có khi là phức tạp kiểu song song, có khi là phức tạp kiểu liên tục và đối với
sản xuất phụ (sản xuất bê tông tươi, bê tông cốt thép, cột trụ,. . . ), sản phẩm
mang tính đơn chiếc, cũng có khi là hàng loạt nhỏ (sản xuất phụ) do đó đối
tượng tập hợp chi phí và đối tượng tính gía thành rất đa dạng, phức tạp, có khi,
đối tượng tập hợp chi phí là các công trình, các hạng mục công trình, các phân
xưởng, các tổ đội; còn đối tượng tính giá thành là các công trình, hạng mục
công trình, sản phẩm, nhóm sản phẩm.
Việc xác định rõ mối quan hệ và sự khác nhau giữa đối tượng hạch toán
chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành là vấn đề có ý nghĩa lớn, mang tính
định hướng cho cho tổ chức hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm. Đồng thời thể hiện được mục đích và phạm vi tiến hành hai giai đoạn của
công tác kế toán nêu trên.
4. 2. Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
Do có sự khác nhau cơ bản giữa đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và đối
tượng tính giá thành mà có sự phân biệt giữa hương pháp hạch toán chi phí sản
xuất và phương pháp tính giá thành sản phẩm. Phương pháp hạch toán chi phí sản
xuất.
a/Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất: Là một hệ thống các phương
pháp được sử dụng để tập hợp và phân loại các chi phí sản xuất trong phạm vi giới
hạn của đối tượng hạch toán chi phí. Mỗi phương pháp hạch toán chi phí tương
ứng cới một loại đối tượng hạch toán chi phí nên tên gọi của phương pháp biểu
hiện đối tượng mà nó cần tập hợp và phân loại chi phí. Trong doanh nghiệp xây
dựng, có những phương pháp tập hợp chi phí phổ biến sau:
 Phương pháp tập hợp chi phí sản xuất theo công trình hay hạng mục
công trình (theo nhóm sản phẩm):Nếu là hạng mục công trình hay nhóm hạng
mục công trình thì hàng tháng chi phí sản xuất phát sinh liên quan đến hạng mục
cong trình nào hay nhóm hạng mục công trình nào thì tập hợp cho hạng mục công
trình đó. Các khoản chi phí dược phân chia theo khoản mục giá thành. Giá thành
thực tế của đối tượng đó chính là tổng số chi phí được tập hợp cho từng đối tượng,
kể từ khi khởi công đến khi hoàn thành.

 Phương pháp tập hợp chi phí sản xuất theo đơn đặt hàng (theo sản
phẩm): Chi phí sản xuất phát sinh sẽ được tập hợp và phân loại theo các đơn đặt
hàng riêng biệt. Khi đơn đặt hàng hoàn thành thì tổng số chi phí phát sinh kể từ
khi khởi công đến khi hoàn thành chính là giá thành thực tế của đơn đặt hàng đó.
 Phương pháp tập hợp chi phí sản xuất theo đơn vị thi công (theo nhóm
hoặc khu vực thi công): Chi phí phát sinh được tập hợp theo từng đơn vị thi công.
Trong từng đơn vị đó, chi phí lại dược tập hợp theo từng đối tượng chịu phí như
công trình, hạng mục công trình,. . . Cuối tháng, tổng hợp chi phí sản xuất phát
sinh ở từng đơn vị thi công được so sánh với dự toán cấp phát để xác định hạch
toán kế toán nội bộ. Khi công trình, hạng mục công trình hoàn thành thì phải tính
giá riêng bằng các phương pháp tính giá thành thích hợp.
b/Phương pháp tính giá thành sản phẩm: Là một phương pháp hoặc hệ thống
các phương pháp được sử dụng để tính giá thành của đơn vị sản phẩm, nó mang
tính thuần tuý kỹ thuật tính toán chi phí cho từng đối tượng tính giá thành. Về cơ
bản, phương pháp tính giá thành bao gồm phương pháp trực tiếp, phương pháp
tổng cộng chi phí, phương pháp tỷ lệ, v. v... Việc tính gái thành sản phẩm trong
từng doanh nghiệp, cụ thể tuỳ thuộc vào đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và
đối tượng tính giá thành mà có thể áp dụng một trong các biện pháp nói trên hoặc
áp dụng kết hợp một số các biện pháp với nhau:
 Phương pháp trực tiếp (còn gọi là phương pháp giản đơn): Phương pháp
này được áp dụng trong các doanh nghiệp thuộc loại hình sản xuất giản đơn. Giá
thành sản phẩm theo phương pháp này được tính bằng cách trực tiếp lấy tổng số
chi phí sản xuất cộng (+) hoặc trừ (--) số chênh lệch giữa giá trị sản phẩm dở dang
cuối kỳ so với đầu kỳ chia (:) cho số lượng sản phẩm hoàn thành.
 Phương pháp tổng cộng chi phí: Áp dụng đối với các doanh nghiệp mà
quá trình sản xuất sản phẩm được thực hiện ở nhiều bộ phận sản xuất, nhiều giai
đoạn công nghệ, đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là các bộ phận, chi tiết sản
phẩm hoặc giai đoạn công nghệ hay bộ phận sản xuất. Giá thành sản phẩm được
xác định bằng cách cộng chi phí sản xuất của các bộ phận, chi tiết sản phẩm hay
tổng chi phí sản xuất của các giai đoạn, bộ phận sản phẩm tạo nên thành phẩm.

Gía thành thành phẩm = Z1 + Z2 +. . . + Zn
Phương pháp tổng cộng chi phí được sử dụng phổ biến trong các doanh
nghiệp khai thác, dệt, nhuộm, cơ khí chế tạo,. . .
 Phương pháp hệ số: Phương pháp hệ số được sử dụng trong các doanh
nghiệp mà trong cùng một quá trình sản xuất cùng sử dụng một thứ nguyên liệu và
một lượng lao động nhưng thu được đồng thời nhiều sản phẩm khác nhau và chi
phí không tập hợp riêng cho từng loại sản phẩm được mà phải tập hợp chung cho
cỏ quá trình sản xuất. Theo phương pháp này, trước hết, kế toán căn cứ vào hệ số
quy đổi dể quy các loại sản phẩm về sản phẩm gốc, từ đó, dựa vào tổng chi phí
liên quan đến giá thành các loại sản phẩm đã tập hợp để tính ra giá thành sản phẩm
gốc và giá thành từng loại sản phẩm.
Gía thành Tổng giá thành sản xuất của các loại sản phẩm
đơn vị =
sản phẩm gốc tổng số sản phẩm gốc quy đổi
giá thành đơn vị giá thành đơn vị Hệ số quy đổi
sản phẩm từng loại
=
sản phẩm gốc
X
sản phẩm từng loại
Trong đó:
Sản lượng sản số lượng sản hệ số quy đổi
phẩm quy đổi
= ể
phẩm loại i
X
sản phẩm loại i
Tổng giá thành giá trị SP tổng chi phí giá trị SP
sản xuất của các  dở dang + sản xuất phát - dở dang
loại sản phẩm đầu kỳ sinh trong kỳ cuối kỳ

 Phương pháp tỷ lệ: Trong các doanh nghiệp sản xuất nhiều loại sản phẩm
có quy cách, phẩm chất khác nhau như may mặc, dệt kim, đóng giày, cơ khí chế
tạo (dụng cụ, phụ tùng), v. v... để giảm bớt khối lượng hạch toán, kế toàn thường
tiến hành tập hợp chi phí sản xuất theo nhóm sản phẩm cùng loại. Căn cứ vào tỷ lệ
chi phí giữa chi phí sản xuất thực tế với chi phí chi phí sản xuất kế hoach (hoặc
định mức), kế toán sẽ tính ra giá thành đơn vị và tổng giá thành sản phẩm từng
loại.
Giá thành giá thành kế hoạch tỷ lệ giữa chi phí thực
thực tế đơn vị = hoặc định mức đơn vị x tế so với chi phí kế
SP từng loại thực tế sản phẩm từng loại hoạch hoặc định mức
 Phương pháp loại trừ giá trị sản phẩm phụ: Đối với các doanh
nghiệp mà trong cùng một quá trình sản xuất, bên cạnh các sản phẩm chính thu
được còn có sản phẩm phụ (các doanh nghiệp chế biến đường rượu, bia, mỳ ăn
liền... ), để tính giá thành sản phẩm, kế toán phải loại trừ giá trị sản phẩm phụ
khỏi tổng chi phí sản xuất sản phẩm. Gía trị sản phẩm phụ có thể được xác định
theo nhiều phương pháp khác nhau như giá có thể sử dụng, giá trị ước tính, gí kế
hoạch, giá nguyên liệu ban đầu...
tổng giá trị tổng chi phí giá trị giá trị
giá thành = SP chính = sản xuất PS - SP phụ - SP chính
SP chính DD đầu kỳ trong kỳ thu hồi DD cuối kỳ
 Phương pháp tính giá thành theo định mức: Là phương pháp dựa
trên cơ sở hệ thống định mức tiêu hao lao động, vật tư hiện hành và dự toán về chi
phí sản xuất chung, kế toán sẽ xác định giá thành định mức của từng loại sản
phẩm. Đồng thời hạch toán riêng các thay đổi, các chênh lệch so với định mức
phát sinh trong quá trình sản xuất sản phẩm và phân tích toàn bộ chi phí phát sinh
thành ba loại: theo định mức, chênh lệch do thay đổi định mức và chênh lệch so
với định mức. Từ đó tiến hành xác định giá thành thực tế của sản phẩm bằng cách:
giá thành giá thành chênh lệch chênh lệch
thực tế = định mức
±

do thay đổi
±
so với
sản phẩm sản phẩm định mức định mức
Việc tính toán giá thành định mức được tiến hành trên cơ sở các định mức
tiên tiến hiện hành ngày đầu kỳ (thường là ngày đầu tháng). Tuỳ theo tính chất
quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm và đặc điểm sản phẩm mà áp dụng
phương pháp tính giá thành sản phẩm khác nhau (theo sản phẩm hoàn thành,
theo chi tiết, bộ phận sản phẩm rồi tổng hợp lại... ). Việc thay đổi định mức là
việc tăng hay giảm các định mức chi phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm do
kết quả của việc áp dụng các định mức mới kinh tế và tiết kiệm hơn để thay thế
các định mức cũ đã lỗi thời. Việc thay đổi định mức được tiến hành vào ngày
đầu tháng để tiện lợi cho việc thực hiện các định mức cũng như kiểm tra việc thi
hành các định mức. Trường hợp việc thay đổi định mức diễn ra vào ngày giữa
tháng thì đầu tháng sau mới phát sinh ngoài phạm vi định mức và dự toán quy
định được gọi là chênh lệch so với định mức hay thát ly định mức được hạch
toán trên cơ sở các chứng từ báo động mang tính hiệu riêng hoặc theo phương
pháp kiểm kê hay phương pháp pha cắt vật liệu.
Chứng tử báo động là các chứng từ phản ánh xuất bổ sung vật liệu hay
thay thế vật liệu dẫn đến chênh lệch so với định mức. Còn phương pháp pha cắt
vật liệu là phương pháp so sánh giữa số vật liệu thực tế chi ra với số chi phí vật
liệu định mức. Theo phương pháp kiểm kê, số chênh lệch vật liệu được xác
định giống như phương pháp pha cắt nhưng chỉ áp dụng đối với những vật liệu
quý hiếm, đắt tiền. Đối với chi phí tiền công, khoản chênh lệch cũng được xác
định giống như chi phí vật liệu. Đối với các chi phí sản xuất chung, do bao hàm
nhiều nội dung nên để đơn giản, cuối tháng chi cần so sánh tổng số chi phí thực
tế so với định mức, trường hợp cần thiết mới đi vào từng nội dung cụ thể.
Phương pháp tính giá thành theo định mức đảm bảo việc tính giá thành
dược nhanh chóng, kịp thời, chính xác và giúp phát hiện những nguyên nhân
làm tăng giá thành từ đó có biện pháp khắc phục kịp thời. Tuy nhiên, khi áp

dụng phương pháp này, đòi hỏi doanh nghiệp có hệ thống về định mức chi phí
đồng thời công tác tổ chức hạch toán chi phí xác định được số phát sinh phù
hợp so với định mức, số thoát ly định mức.
 Phương pháp liên hợp: Là phương pháp áp dụng cho những doanh nghiệp
có tổ chức sản xuất, tính chất quy trình công nghệ và tính chất sản phẩm làm ra
đòi hỏi việc tính giá thành phải kết hợp nhiều phương pháp khác nhau như các
doanh nghiệp sản xuất, dệt kim, đóng giầy, may mặc, xây dựng,. . . Trên thực tế,
kế toán có thể kết hợp phương pháp trực tiếp với tổng công chi phí, tổng cộng chi
phí với tỷ lệ, hệ số với loại trừ giá trị sản phẩm phụ, v. v...
Doanh nghiệp xây dựng là doanh nghiệp sản xuất mà đặc điểm của nó có khi
là sản xuất giản đơn (công trình quy mô nhỏ, đơn giản, không phân chia thành các
hạng mục công trình) thì phương pháp tính giá thành là phương pháp trực tiếp, có
khi sản phẩm mang tính phức tạp, quy mô lớn, nhiều hạng mục công trình thì lúc
này phương pháp tính giá thành là phương pháp tổng cộng chi phí, còn khi công
trình bao gồm nhiều công trình nhỏ thì áp dụng phương pháp tính giá thành kết hợp
giữa hai phương pháp trên và phương pháp hệ số hoặc tỷ lệ...
c/Kỳ tính giá thành:
Cùng với việc xác định đối tượng tính gía thành, chúng ta cũng phải xác
định kỳ tính giá thành sản phẩm. Xác định kỳ tính giá thành thích hợp sẽ giúp cho
việc tổ chức công tác tính giá thành sản phẩm được hợp lý, khoa học, đảm bảo
cung cấp số liệu về giá thành thực tế của sản phẩm kịp thời, phát huy được đầy đủ
chức năng giám đốc tình hình thực hiện kế hoạch giá thành sản phẩm của kế toán.
Kỳ tính giá thành là thời kỳ bộ phận kế toán giá thành phải tập hợp số liệu để
tính giá thành thực tế cho các đối tượng tính giá.
Để xác định kỳ tính giá thành cho thích hợp, kế toán phải căn cứ vào đặc
điểm tổ chức sản xuất sản phẩm và chu kỳ sản xuất sản phẩm. Trường hợp sản
xuất với khối lượng lớn, chu kỳ sản xuất ngắn và sản xuất liên tục, kỳ tính giá
thành thích hợp là theo kỳ báo cáo. Trường hợp sản xuất sản phẩm mang tính đơn
chiếc hoặc hàng loạt theo đơn đặt hàng, chu kỳ sản xuất dài, sản phẩm hoặc hàng
loạt sản phẩm chỉ hoàn thành khi kết thúc chu kỳ sản xuất thì kỳ tính giá thanhf

thích hợp là kỳ sản xuât, có nghĩa là tính giá thành sản phẩm khi sản phẩm hoặc
đơn đặt hàng đã hoàn thành.
Căn cứ vào đặc điểm riêng của ngành xây dựng cơ bản thì kỳ tính giá thành
thường là:
 Đối với những sản phẩm được sản xuất liên tục, cung cấp cho những đối
tượng khác nhau, chu kỳ sản xuất ngắn và sản xuất liên tục như sản xuất gạch,
ngói,. . . thì kỳ tính giá thành là kỳ báo cáo hoặc hàng tháng.
 Đối với những sản phẩm sản xuất theo đơn đặt hàng có thời gian sản xuất
thi công dài, công việc được coi là hoàn thành khi khi kết thúc mọi công việc
trong đơn đặt hàng, thì khi hoàn thành toàn bộ mới tính giá thành thực tế đơn đặt
hàng đó.
 Với những công trình, hạng mục công trình thì kỳ tính giá thành là thời
gian mà sản phẩm xây lắp được coi là hoàn thành và được nghiệm thu bàn giao,
thanh toán chi bên A.
 Với những công trình lớn hơn, thời gian thi công dài hơn, chỉ khi nào có
một bộ phận công trình hoàn thành, có giá trị sử dụng được nghiệm thu bàn giao
thì lúc đó doanh nghiệp tính giá thành của bộ phận đó.
 Đối với những công trình xây dựng, lắp đặt máy móc thiết bị có thời gian
thi công nhiều năm mà không tách ra được từng bộ phận, công trình nhỏ đưa vào
sử dụng thì từng phần việc xây lắp lớn đạt đến điểm dừng kỹ thuật hợp lý, theo
thiết kế ghi trong hợp đồng giao thầu thi công sẽ được bàn giao thanh toán và
doanh nghiệp xây lắp tính giá thành thực tế cho khối lượng xây lắp bàn giao.
III-NỘI DUNG CÔNG TÁC HẠCH TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT
TRONG DOANH NGHIỆP XÂY DỰNG.
1. Trình tự hạch toán chi phí sản xuất:
Việc tập hợp chi phí sản xuất sản phẩm xây lắp phải được tiến hành theo
một trình tự hợp lý, khoa học thì mới có thể tính giá thành sản phẩm một cách
chính xác, kịp thời được.
Trình tự hạch toán chi phí sản xuất là thứ tự các bước công việc cần tiến
hành nhằm tập hợp chi phí sản xuất để phục vụ cho việc tính giá thành công

trình được kịp thời theo tính chất và đặc điểm của từng ngành.
Đối với ngành xây dựng cơ bản, việc tập hợp chi phí sản xuất được tiến
hành qua các bước sau:
 Bước một: Tập hợp cơ bản có liên quan trực tiếp cho từng công trình,
hạng mục công trình.
 Bước hai: Tính toán và phân bổ lao vụ của các ngành sản xuất kinh
doanh phụ có liên quan trực tiếp cho tường công trình, hạng mục công trình trên
cơ sở khối lượng lao vụ phục vụ và đơn giá lao vụ.
 Bước ba: Tập hợp và phân bổ chi phí sản xuất chung cho các công trình
có liên quan theo các tiêu thức phù hợp.
 Bước bốn: Xác định chi phí dở dang cuối kỳ, từ đó tính giá thành sản
phẩm hoàn thành.
Để hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm, nhìn chung, kế
toán có thể áp dụng phương pháp kê khai thường xuyên hoặc phương pháp
kiểm kê định kỳ. Việc sử dụng phương pháp nào là tuỳ thuộc vào đặc điểm kinh
doanh của từng doanh nghiệp, vào yêu cầu cuả công tác quản lý và vào trình độ
cán bộ kế toán cũng như quy định của chế độ kế toán hiện hành.
2. Hạch toán chi phí sản xuất theo phương pháp kê khai thường xuyên.
Phương pháp kê khai thường xuyên là phương pháp theo dõi và phản ánh
tính hình hiện có, biến động tăng, giảm hàng tồn kho một cách thường xuyên,
liên tục trên các tài khoản phản ánh các loại hàng tồn kho. Phương pháp này
được sử dụng phổ iến ở nước ta hiện nay vì những tiện ích của nó. Tuy nhiên,
với những doanh nghiệp có nhiều chủng loại vật tư, hàng hoá có giá trị thấp,
thường xuyên xuất, nhập mà áp dụng phương pháp này sẽ tốn rất nhiều công
sức. Dẫu vậy, phương pháp này có độ chính xác cao và cung cấp thông tin vè
hàng tồn kho một cách kịp thời, cập nhật. Theo phương pháp này, bất kỳ ở thời
điểm nào, kế toán cũng có thể xác định được lượng nhập, xuất, tồn kho của
từng loại hàng tồn kho.
2. 1. Hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp:
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp bao gồm giá trị nguyên, vật liệu chính,

vật liệu phụ, nhiên liệu, các cấu kiện, các bộ phận rời lẻ,. . . được xuất dùng
có liên quan trực tiếp đến việc xây dựng hay lắp đặt các công trình (trừ các vật
liệu dùng cho máy thi công). Vật liệu sử dụng cho công trình, hạng mục công
trình nào thì tính rtrực tiếp cho công trình đó. Trường hợp vật liệu xuất dùng có
liên quan đến nhiều đối tượng tập hợp chi phí, không thể tổ chức hạch toán
riêng đư[cj thì phải áp dụng phương pháp phân bổ gián tiếp để phân bổ cho các
đối tượng. Tiêu thức phân bổ thường là định mức tiêu hao, theo khối lượng
thực hiện...
Chi phí vật liệu phân bổ tổng tiêu thức phân bổ Tỷ lệ
Cho từng đối tượng(sp) = cho từng đối tượng (SP)
X
phân bổ
Trong đó:
Tỷ lệ (hệ số) Tổng chi phí vật liệu cần phân bổ
phân bổ
=
Tổng tiêu thức phân bổ của tất cả các đối tượng
a/Tài khoản sử dụng: để phản ánh các chi phí nguyên vật liệu phát sinh,
người ta dụng tài khoản 621-“Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp”. Tài khoản 621
được mở chi tiết đến từng công trình xây dựng, lắp đặt (công trình, hạng mục
công trình, các giai đoạn công việc, khối lượng xây lắp có dự toán riêng). Các
thiết bị đưa vào lắp đặt do chủ đầu tư không phản ánh vào tài khoản này mà
phản ánh vào tài khoản 002-tài sản giữ hộ. Tài khoản 621 có kết cấu phản ánh
tương tự các doanh nghiệp sản xuất, cụ thể:
 Bên nợ: -giá trị nguyên, vật liệu xuất dùng trực tiếp cho chế tạo sản
phẩm.
 Bên có: - giá trị vật liệu xuất dùng không hết.
- kết chuyển chi phí vật liệu trực tiếp.
Tài khoản 621 cuối kỳ không có số dư.
b/Nội dung hạch toán:

×