Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Tải Top 7 mẫu phân tích bài thơ Tỏ lòng hay nhất - HoaTieu.vn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (423.86 KB, 9 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>1. Dàn ý phân tích bài thơ Tỏ lòng</b>


<b>I. Mở bài</b>


- Giới thiệu tác giả Phạm Ngũ Lão: Là người văn võ toàn tài, để lại cho đời hai tác
phẩm Thuật hồi (Tỏ lịng) và Vãn Thượng tướng quốc công Hưng Đạo Đại Vương.
- Giới thiệu bài thơ Tỏ lòng:


+ Ra đời sau những chiến thắng vẻ vang của quân và dân nhà Trần đánh đuổi quân
Nguyên Mơng xâm lược.


+ Bài thơ làm sống dậy khí thế của thời đại với niềm vui, niềm tự hào. Đồng thời
cũng thể hiện ý thức làm người và chí hướng lập cơng của nam nhi.


<b>II. Thân bài</b>


1. Hào khí Đơng A qua hình tượng trang nam nhi và sức mạnh quân đội nhà Trần.
a. Hình tượng trang nam nhi nhà Trần (câu 1)


- Tư thế “hồnh sóc”: Múa giáo


+ Bản dịch nghĩa dịch “cắp ngang ngọn giáo” diễn đạt sự vững trãi, kiên cường, uy
dũng, tư thế sẵn sàng chiến đấu của người lính.


+ Bản dịch thơ dịch thành “múa giáo”: Thiên về phô trương biểu diễn, không thể hiện
sức mạnh nội lực vì vậy khơng truyền tải được ý nghĩa hình ảnh thơ trong ngun tác.
- Khơng gian “giang sơn”: Khơng chỉ là sơng núi mà cịn chỉ non sông, đất nước, tổ
quốc.


→ Không gian vũ trụ rộng lớn để nam nhi nói chí tỏ lịng
- Thời gian “kháp kỉ thu”: mấy thu – mấy năm



→ Thời gian trải dài, thể hiện quá trình bền bỉ chiến đấu lâu dài.


⇒Chính thời gian, khơng gian đã nâng cao tầm vóc của người anh hùng vệ quốc, họ
trở nên lớn lao kì vĩ, sánh ngang tầm vũ trụ, trời đất, bất chấp sự tàn phá của thời gian
họ vẫn luôn bền bỉ cùng nhiệm vụ.


b. Sức mạnh của quân đội nhà Trần (Câu 2)


- “Tam quân”: Ba quân – tiền quân, trung quân, hậu quân. Hình ảnh chỉ quân đội nhà
Trần.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

+ Quân đội được so sánh với “tì hổ” – hổ báo: loài mãnh thú chốn rừng sâu qua đó cụ
thể hóa sức mạnh và sự dũng mãnh, khí thế hừng hực làm chủ của quân đội nhà Trần.
+ Tác giả làm rõ sức mạnh ấy bằng hình ảnh “khí thơn ngưu”: Là biểu tượng chỉ
người trẻ tuổi mà khí phách anh hùng.


→ Với các hình ảnh so sánh, phóng đại, tác giả đã thể hiện sự ngợi ca, tự hào về sức
mạnh, khí thế của quân đội nhà Trần đập tan âm mưu xâm lược của kẻ thù.


Tiểu kết:
- Nội dung:


+ Hai câu thơ đầu làm sống dậy thời đại nhà Trần với hào khí Đơng A vang núi dậy
sơng bằng hình ảnh của những người anh hùng vệ quốc tư thế hiên ngang, kiêu dũng
tầm vóc sánh ngang tầm vũ trụ cùng lực lượng quân đội hùng hậu khí thế ngút trời.
+ Ẩn sau đó là niềm tự hào của tác giả về sức mạnh và chiến cơng của dân tộc. Đó là
biểu hiện của lịng yêu nước


- Nghệ thuật:



+ Bút pháp gợi, không tả, kể chi tiết


+ Sử dụng các hình ảnh ước lệ: Kháp kỉ thu, tì hổ, khí thơn ngưu
+ Sử dụng các biện pháp so sánh, ước lệ độc đáo


2. Nỗi thẹn của Phạm Ngũ Lão


- Nợ công danh: Theo quan niệm nhà Nho, đây là món nợ lớn mà một trang nam nhi
khi sinh ra đã phải mang trong mình.


+ Nó gồm 2 phương diện: Lập công (để lại chiến công, sự nghiệp), lập danh (để lại
danh thơm cho hậu thế). Kẻ làm trai phải làm xong hai nhiệm vụ này mới được coi là
hồn trả món nợ.


+ Liên hệ với Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan, Cao Bá Quát,
Nguyễn Công Trứ. Họ đều là những người trăn trở về món nợ cơng danh.


- Phạm Ngũ Lão quan niệm: Thân nam nhi mà không lập được công danh sự nghiệp
thì “luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”.


+ Thẹn: Tự cảm thấy mình chưa bằng người khác, cảm giác thua kém, xấu hổ


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

+ Phạm Ngũ Lão: Con người từ thuở hàn vi vì lo việc nước quên sự nguy hiểm của
mình, hết lịng phục vụ nhà Trần, được phong tới chức Điện Súy, tước Nội Hầu. Vậy
mà ông vẫn cảm thấy hổ thẹn.


→ Nỗi thẹn của Phạm Ngũ Lão hết sức cao cả của một nhân cách lớn. Thể hiện khát
khao, hồi bão hướng về phía trước để thực hiện lí tưởng.



→ Nỗi thẹn của Phạm Ngũ Lão đánh thức ý chí làm trai, chí hướng lập công cho các
trang nam tử đời Trần.


⇒ Bài học đối với thế hệ thanh niên ngày nay: Sống phải có ước mơ, hồi bão, biết
vượt qua khó khăn, thử thách để biến ước mơ thành hiện thực, có ý thức trách nhiệm
với cá nhân và cộng đồng.


Tiểu kết:


- Nội dung: Hai câu thơ thể hiện nỗi thẹn cao cả của một nhân cách lớn. Qua đó thể
hiện tinh thần yêu nước, khích lệ ý chí lập cơng lập danh của nam nhi đời Trần.


- Nghệ thuật: Sử dụng điển cố “thuyết Vũ Hầu”, bút pháp gợi kết hợp với bút pháp
biểu cảm.


<b>III. Kết bài</b>


- Khái quát nội dung và nghệ thuật của bài thơ


- Liên hệ với những bài thơ cùng chủ đề yêu nước như Tụng giá hoàn kinh sư (Trần
Quang Khải), Cảm hồi (Đặng Dung),...


<b>2. Phân tích bài thơ Tỏ lòng - Mẫu 1</b>


Phạm Ngũ Lão là một danh tướng đời Trần. Tuy xuất thân từ tầng lớp bình dân song
chí lớn tài cao nên ơng nhanh chóng trở thành tùy tướng số một bên cạnh Hưng Đạo
Vương Trần Quốc Tuấn. Trong cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên xâm
lược, Phạm Ngũ Lão cùng những tên tuổi lớn khác của triều đình đã lập nên nhiều
chiến cơng hiển hách, góp phần quan trọng tạo nên hào khí Đơng A của thời đại đó:
Ơng sáng tác khơng nhiều nhưng Thuật hoài là một bài thơ nổi tiếng, được lưu truyền


rộng rãi vì nó bày tỏ khát vọng mãnh liệt của tuổi trẻ trong xã hội phong kiến đương
thời: làm trai phải trả cho xong món nợ cơng danh, có nghĩa là phải thực hiện đến
cùng lí tưởng trung quân, ái quốc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Múa giáo non sông trải mấy thu
Ba qn khí mạnh nuốt trơi trâu
Cơng danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu.


Bài thơ được sáng tác trong bối cảnh đặc biệt có một không hai của lịch sử nước nhà.
Triều đại nhà Trần (1226 – 14001) là một triều đại lẫy lừng với bao nhiêu chiến công
vinh quang, mấy lần quét sạch quân xâm lược Mông - Nguyên hung tàn ra khỏi bờ cõi,
giữ vững sơn hà xã tắc, nêu cao truyền thống bất khuất của dân tộc Việt.


Phạm Ngũ Lão sinh ra và lớn lên trong thời đại ấy nên ông sớm thấm nhuần lòng yêu
nước, tinh thần tự hào, tự tơn dân tộc và nhất là lí tưởng sống của đạo Nho là trung
quân, ái quốc. Ông ý thức rất rõ ràng về trách nhiệm công dân trước vận mệnh của đất
nước: Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách.


Bài thơ Thuật hồi (Tỏ lịng) được làm bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn tứ tuyệt luật
Đường, niêm luật chặt chẽ, ý tứ hàm súc, hình tượng kì vĩ, âm điệu hào hùng, sảng
khoái. Hai câu thơ đầu khắc họa vẻ đẹp gân guốc, lẫm liệt, tràn đầy sức sống của
những trang nam nhi - chiến binh quả cảm đang xả thân vì nước, qua đó thể hiện hào
khí Đơng A ngút trời của quân đội nhà Trần thời ấy.


Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu (Dịch nghĩa: cầm ngang ngọn giáo gìn giữ non sơng
đã mấy thu); dịch thơ: Múa giáo non sông trải mấy thu. So với nguyên văn chữ Hán
thì câu thơ dịch chưa lột tả được hết chất oai phong, kiêu hùng trong tư thế của người
lính đang chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Hồnh sóc là cầm ngang ngọn giáo, luôn ở tư thế
tấn công dũng mãnh, áp đảo quân thù. Tư thế của những người chính nghĩa lồng lộng


in hình trong khơng gian rộng lớn là giang sơn đất nước trong suốt, một thời gian dài
(giang sơn kháp kỉ thu). Có thể nói đây là hình tượng chủ đạo, tượng trưng cho dân
tộc Việt quật cường, không một kẻ thù nào khuất phục được. Từ hình tượng ấy, ánh
hào quang của chủ nghĩa yêu nước ngời tỏa sáng.


Câu thơ thứ hai: Tam quân tì hổ khí thơn Ngưu. (Dịch nghĩa: khí thế của ba quân
mạnh như hổ báo, át cả sao Ngưu trên trời). Dịch thơ: Ba quân hùng khí át sao Ngưu,
đặc tả khí thế chiến đấu và chiến thắng khơng gì ngăn cản nổi của quân dân ta. Tam
quân tì hổ là một ẩn dụ so sánh nghệ thuật nêu bật sức mạnh vơ địch của qn ta. Khí
thơn Ngưu là cách nói thậm xưng để tạo nên một hình tượng thơ kì vĩ mang tầm vũ
trụ.


Hai câu tứ tuyệt chỉ mười bốn chữ ngắn gọn, cô đúc nhưng đã tạc vào thời gian một
bức tượng đài tuyệt đẹp về người lính quả cảm trong đạo quân Sát Thát nổi tiếng đời
Trần.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

"Nam nhi vị liễu cơng danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu
(Cơng danh nam tử cịn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu).


Vũ Hầu tức Khổng Minh, một quân sư tài ba của Lưu Bị thời Tam Quốc. Nhờ mưu trí
cao, Khổng Minh đã lập được công lớn, nhiều phen làm cho đôi phương khốn đốn; vì
thế ơng rất được Lưu Bị tin u.


Lấy gương sáng trong lịch sử cổ kim soi mình vào đó mà so sánh, phấn đấu vươn lên
cho bằng người, đó là lòng tự ái, lòng tự trọng đáng quý cần phải có ở một đấng nam
nhi. Là một tùy tướng thân cận của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, Phạm
Ngũ Lão luôn sát cánh bên cạnh chủ tướng, chấp nhận xông pha nơi làn tên mũi đạn,
làm gương cho ba quân tướng sĩ, dồn hết tài năng, tâm huyết để tìm ra cách đánh thần


kì nhất nhằm quét sạch quân xâm lược ra khỏi bờ cõi. Suy nghĩ của Phạm Ngũ Lão rất
cụ thể và thiết thực; một ngày còn bóng qn thù là nợ cơng danh của tuổi trẻ với
giang sơn xã tắc vẫn còn vương, chưa trả hết. Mà như vậy là phận sự với vua, với
nước chưa trịn, khát vọng cơng danh chưa thỏa. Cách nghĩ, cách sống của Phạm Ngũ
Lão rất tích cực, tiến bộ. ơng muốn sống xứng đáng với thời đại anh hùng.


Hai câu thơ sau âm hưởng khác hẳn hai câu thơ trước. Cảm xúc hào sảng ban đầu dần
chuyển sang trữ tình, sâu lắng, như lời mình nói với mình cho nền âm hưởng trở nên
thâm trầm, da diết.


Phạm Ngũ Lão là một võ tướng tài ba nhưng lại có một trái tim nhạy cảm của một thi
nhân. Thuật hoài là bài thơ trữ tình bày tỏ được hùng tâm tráng trí và hoài bão lớn lao
của tuổi trẻ đương thời. Bài thơ có tác dụng giáo dục rất sâu sắc về nhân sinh quan và
lối sống tích cực đối với thanh niên mọi thời đại Thuật hoài đã làm vinh danh vị
tướng trẻ văn võ song toàn Phạm Ngũ Lão.


<b>3. Phân tích bài thơ Tỏ lịng - Mẫu 2</b>


Từ ngàn xưa, nhân dân ta đã có truyền thống yêu nước nồng nàn, luôn sẵn sàng đứng
lên bảo vệ đất nước mỗi khi đất nước cần. Lòng yêu nước được thể hiện qua nhiều
lĩnh vực nhưng có lẽ nổi bật nhất vẫn là ở lĩnh vực văn học. Trong các bài thơ của ơng,
có một tác phẩm rất đặc biệt “Tỏ lịng” đây chính là tác phẩm đã làm tốt lên rất rõ về
vẻ đẹp, khí thế của con người nhà Trần. Phạm Ngũ Lão là danh tướng thời Trần, có
cơng rất lớn trong cơng cuộc chống Ngun - Mơng. “Tỏ lịng” được ông sáng tác khi
cuộc chiến lần thứ hai Nguyên - Mông đang đến rất gần, nhằm khơi dậy sức mạnh
tồn dân. Lúc đó, tác giả cùng một số vị tướng khác được cử lên biên ải Bắc trấn giữ
nước.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

“Hồnh sóc giang sơn khắp kỉ thu
Tam qn tỳ hổ khí thơn ngưu“



Câu thơ đầu khắc họa một hình ảnh người anh hùng đang trong tư thế hiên ngang,
vững chãi, “Hồnh sóc” là việc cầm ngang ngọn giáo, với sứ mệnh trấn giữ giang sơn,
giữ yên bờ cõi rịng rã đã mấy năm rồi mà khơng biết mệt mỏi. Con người đó được
đặt trong một khơng gian kì vĩ: núi sông, đất nước khiến con người trở nên vĩ đại sánh
ngang với tầm vóc vũ trụ. Hình ảnh cịn mang ý nghĩa biểu tượng cho tinh thần xơng
pha sẵn sàng chiến đấu, một tư thế hiên ngang làm chủ chiến trường. Tiếc thay, khi ta
chuyển dịch thành “múa giáo” thì phần nào đã làm hai chữ “hồnh sóc” giảm đi tính
biểu tượng và tư thế oai phong lẫm liệt của hình tượng vĩ đại này. Ngày xưa, qn
lính chia làm ba tiểu đội: tiền quân, trung quân và hậu qn. Tuy nhiên, khi nói đến
“ba qn” thì sức mạnh của cả quân đội nhà Trần, sức mạnh của tồn dân tộc đang
sục sơi biết bao. Câu thơ thứ hai sử dụng thủ pháp so sánh để làm toát lên khí thế,
“Tam quân tỳ hổ” chính là ví sức mạnh của tam quân giống như hổ như báo, nó vững
mạnh và oai hùng. Nhờ đó, tác giả đã bày tỏ niềm tự hào về sự trưởng thành, và lớn
mạnh của bậc qn đội. Khơng chỉ thế, câu thơ cịn sử dụng thủ pháp phóng đại “Khí
thơn ngưu” - khí thế quân đội mạnh mẽ lấn át cả Sao Ngưu hay là khí thế hào hùng
nuốt trơi trâu. Như vậy, hai câu thơ đầu khắc họa vẻ đẹp người anh hùng hòa trong vẻ
đẹp của thời đại hào hùng tạo nên những con người anh hùng. Câu thơ gây ấn tượng
mạnh bởi sự kết hợp giữa hình ảnh khách quan với cảm nhận chủ quan giữa hiện thực
và lãng mạn. Qua đó, tác giả bộc lộ niềm tự hào về sức mạnh của nhà Trần nói riêng
cũng như là của tồn dân tộc nói chung.


“Nam nhi vị liễu cơng danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu“


Qua hai câu thơ trên, lí tưởng của người anh hùng đang được thể hiện rõ qua hai cặp
từ “nam nhi và công danh”. Nhắc đến chí là nhắc đến chí làm trai, lập công là để lại
công danh, sự nghiệp để lại danh tiếng cho mn đời, cơng danh được coi là món nợ
phải trả của kẻ làm trai. Một danh tướng có nỗi trăn trở, canh cánh trong lòng là chưa
trả xong nợ công danh mặc dù con người ấy đã lập lên bao nhiêu chiến cơng rồi. Đó


chính là khát vọng, lí tưởng lớn lao muốn được phị vua giúp nước, trong khơng khí
sục sơi của thời đại bấy giờ, chí làm trai có tác dụng cỗ vũ cho con người sẵn sàng
chiến đấu giành lại hịa bình cho đất nước.


Ở câu cuối của bài thơ, nói lên cái tâm của người anh hùng, điều đáng q bên cạnh
Trí là cịn có cái tâm. “Thẹn với Vũ Hầu” – Vũ Hầu chính là Gia Cát Lượng, một tài
năng, một nhân cách, một người có tâm, tác giả thẹn vì chưa có tài mưu lược như Gia
Cát Lượng chăng? Mặc dù tác giả là người lập nhiều công cho đất nước nhưng vẫn
thấy thẹn. Qua nỗi thẹn ấy, người đọc nhận ra thái độ khiêm nhường, một ý nguyện
cháy bỏng được giết giặc, lập cơng đóng góp cho sự nghiệp chung.


Qua bài thơ, hiện lên hình ảnh của đấng nam nhi thời đại Bình Ngun, với khát vọng
có thể phá được cường địch để báo đáp hồng ân, để non sơng được vững vàng. Vẻ
đẹp của người anh hùng lồng trong vẻ đẹp của thời đại làm nên hào khí của thời đại
nhà Trần, hào khí Đơng A. Bài thơ cũng là nỗi lịng riêng của Phạm Ngũ Lão về khát
vọng lí tưởng, về nhân cách của con người phải được giữ gìn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Đã từng một thời, văn học Việt Nam được biết tới như những con thuyền chở đầy ý
chí và khát vọng cao đẹp của người đương thời, đó là những áng thi ca trung đại đầy
hào sảng, hùng tráng. Bởi vậy chăng mà cứ mỗi lần từng tiếng thơ “Thuật hồi” (Tỏ
lịng - Phạm Ngũ Lão) vang lên, hiện lên trước mắt ta ln là hình ảnh người tráng sĩ
thời đại Lý – Trần với hùng tâm tráng chí sơi nổi, như những bức tượng đài đẹp nhất
đại diện cho cả một thời đại đầy rực rỡ của phong kiến Việt Nam: thời đại Đông A.
Là một vị tướng tài ba từng gắn bó sâu sắc với triều đại nhà Trần, Phạm Ngũ Lão hiểu
rõ hơn ai hết tấm lịng thiết tha với non sơng và khao khát giữ vững độc lập chủ quyền
nước nhà của tướng quân và nhân dân. Trong hoàn cảnh cả dân tộc đang dốc sức thực
hiện kháng chiến chống Mông – Nguyên lần hai, cần có một liều thuốc tinh thần tiếp
thêm sức mạnh để quân dân từng ngày cố gắng hơn nữa trong sự nghiệp bảo vệ đất
nước; “Thuật hoài” ra đời cũng vì lẽ đó. Đặt trong một hồn cảnh đặc biệt, được viết
dưới ngịi bút của con người có tầm vóc lớn lao, bài thơ dù chỉ là một trong hai tác


phẩm của Phạm Ngũ Lão còn lưu lại, song cũng đủ để ghi danh tác giả cho tới tận
muôn đời.


Hai câu thơ đầu là những nét phác họa đầu tiên về chân dung người tráng sĩ Đơng A:
Hồng sóc giang sơn kháp kỉ thu


Tam qn tì hổ khí thơn ngưu
(Múa giáo non sơng trải mấy thu
Ba qn khí mạnh nuốt trôi trâu)


Bằng lối vào đề trực tiếp, trong câu thơ đầu tiên, tác giả đã dựng lên hình ảnh người
tráng sĩ thời Trần mang vẻ đẹp của con người thời đại: cầm ngang ngọn giáo trấn giữ
non sông. Chỉ qua một hành động “hồnh sóc”, người tráng sĩ hiện lên với tư thế đầy
oai hùng và kiên cường, ngay thẳng, vững vàng. Sừng sững như một bức tượng đài
đầy hiên ngang giữa không gian rộng lớn của “giang sơn” và dịng thời gian dài trơi
chảy “kháp kỉ thu”, người ấy mang vẻ đẹp của những đấng anh hùng từng trải, với
kinh nghiệm già dặn đã được tôi luyện mỗi ngày. Vận mệnh và sự bình yên của đất
nước đang được đặt trên đầu ngọn giáo kia, đó là trọng trách lớn lao đặt lên vai người
tráng sĩ, nhưng cũng chính ngọn giáo ấy là điểm tựa vững vàng che chắn cho cả dân
tộc tồn tại. Câu thơ tỉnh lược chủ ngữ ngắn gọn mang ngụ ý của tác giả: đó khơng chỉ
là một hình ảnh duy nhất của một con người duy nhất, mà là tầm vóc hào sảng của
biết bao con người thời đại, là khơng khí sôi sục của đất trời Đông A.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

dân tộc, và vẻ đẹp dân tộc càng tôn vinh thêm vẻ đẹp hùng sảng của những tráng sĩ
thời Trần. Hai câu thơ đầu tiên vang lên, Phạm Ngũ Lão không chỉ cho ta chiêm
ngưỡng vẻ đẹp của một vị anh hùng thời đại, mà là vẻ đẹp muôn thuở của một dân tộc
anh hùng.


Từ tư thế hiên ngang dũng mãnh, nhà thơ giúp người đọc đi sâu hơn để khám phá tâm
thế vững vàng với hùng tâm tráng chí bên trong những tráng sĩ:



Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu


Với người quân tử trong xã hội phong kiến đương thời, chí làm trai là phẩm chất
không thể thiếu. Ta từng nhớ đã đọc những câu thơ nhắc đến món nợ cơng danh của
các đấng nam nhi:


Chí làm trai dặm nghìn da ngựa
Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao
(Đoàn Thị Điểm)


Hay:


Nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo
(Nguyễn Công Trứ)


Đối với những người tráng sĩ “bình Ngun” thuở ấy, trong hồn cảnh đất nước đang
bị lăm le xâm chiếm bởi giặc ngoại bang, “nợ công danh” mà họ phải trả, đó là làm
sao để bảo vệ trọn vẹn đất nước, để có thể đem lại n ấm cho mn dân. Nói khác đi,
hùng tâm tráng chí trong lịng người tráng sĩ chính là niềm u nước thiết tha sâu
nặng, là tiếng nói khát khao đánh giặc cứu lấy non sông. Điều đặc biệt là trong từng
câu chữ của “Tỏ lòng”, tinh thần bất khuất ấy không được nêu lên một cách giáo điều,
khô cứng, mà nó như được tỏa ra từ chính trái tim, thốt lên từ tâm can của một con
người với khát vọng đang sôi cháy, rực lửa.


Để rồi, nợ công danh chưa trả hết, và người đời lại “luống thẹn” khi nghe chuyện Vũ
Hầu xưa: “Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu”. Câu thơ gợi lại một câu chuyện cổ về
bậc anh tài Gia Cát Lượng từng giúp hình thành thế chân vạc Tam Quốc, giúp Thục –
Ngô chống Tào… Người tướng sĩ thấy hổ thẹn bởi cơng lao của mình vẫn chưa đáng


bao nhiêu so với Tơn Tử, song đó lại là cái thẹn cao cả, là cái thẹn lớn lao, đáng trân
trọng của một bậc đại trượng phu. Ngũ Lão từng là một trong những vị tướng tài ba
nhất của nhà Trần, làm tới chức Điện súy thượng tướng quân, vậy cịn điều gì khiến
người cịng hổ thẹn? Rằng, đó không chỉ là nỗi thẹn, mà là niềm khao khát vươn tới
những đỉnh cao, vươn tới những tầm vóc rộng lớn hơn nữa. Có những cái thẹn khiến
người ta trở nên bé nhỏ, có những cái thẹn khiến cho người ta khinh, nhưng cũng có
những cái thẹn cho người ta thấy được cả một tầm vóc lớn lao và ý chí mãnh liệt; cái
thẹn của người tráng sĩ thời Trần là cái thẹn như thế.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

thơ bày tỏ nỗi lòng của người viết. Với “Tỏ lòng”, đây là lời tâm sự bày tỏ tâm tư, ý
chí của Phạm Ngũ Lão, cũng là của những tráng sĩ thời Trần mà tâm can đều dành
trọn cho dân tộc. Bài thơ được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt, chỉ với một số lượng
ngơn từ ít ỏi, song lại đạt được tới sự hàm súc cao độ khi đã dựng lên được những bức
chân dung con người và hào khí Đơng A với vẻ đẹp hào sảng, khí thế, dũng mãnh.
Cùng với “Hịch tướng sĩ” – Trần Quốc Tuấn, “Bạch Đằng giang phú” - Trương Hán
Siêu,… “Thuật hoài” mãi là khúc tráng ca hào hùng ngợi ca vẻ đẹp con người và thời
đại, và sẽ tồn tại mãi cùng với dòng trơi chảy của thời gian…


<b>5. Phân tích bài thơ Tỏ lòng - Mẫu 4</b>


Phạm Ngũ Lão là một người tài giỏi, có lịng u nước nồng nàn, bản lĩnh phi thường,
ông là một tướng tài đồng thời cũng là người có tâm hồn văn chương. Tác phẩm tiêu
biểu nhất của ông là bài thơ Tỏ lòng. Văn bản thể hiện những tâm tư, nỗi niềm của vị
tướng tài, đồng thời tái hiện chân thực hào khí Đơng A sơi sục, hào hùng của thời đại.
Hồnh sóc giang sơn kháp kỉ thu


Tam qn tì hổ khí thơn ngưu


Hai câu thơ đầu đã vẽ nên hình ảnh người tráng sĩ đời Trần với tư thế hiên ngang,
dũng mãnh “cầm ngang ngọn giáo”, cho thấy tư thế hiên ngang, chủ động khác với


câu thơ dịch là “múa giáo” mang tính chất phơ trương, biểu diễn, không thể hiện được
tư thế anh hùng, hiên ngang của người tướng sĩ. Đồng thời không gian nhân vật trữ
tình đứng cũng vơ cùng bao la, rộng lớn: giang sơn. Tưởng rằng đứng trong không
gian ấy con người sẽ trở nên bé nhỏ, chìm khuất trong khơng gian vũ trụ bao la,
nhưng ngược lại, con người hiện lên trong tư thế làm chủ, mang tầm vóc lớn lao ôm
trọn cả non sông đất nước. Tư thế ấy còn cho thấy tinh thần sẵn sàng chiến đấu, sẵn
sàng xả thân để bảo vệ biên cương, lãnh thổ toàn vẹn. Không chỉ vậy, thời gian được
nhắc đến ở đây đã trải mấy thu, đó là khoảng thời gian dài, điều ấy cịn khẳng định ý
chí, quyết tâm bền bỉ của nhân vật trữ tình. Câu thơ thứ nhất vừa cho ta thấy tầm vóc
hiên ngang, vừa cho thấy lịng u nước nồng nàn của nhân vật trữ tình.


</div>

<!--links-->
Phân tích bài thơ tỏ lòng của phạm ngũ lão
  • 3
  • 953
  • 9
  • ×