Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

NHỮNG BIỆN PHÁP NHẰM ĐIỀU CHỈNH CÁN CÂN THANH TOÁN QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.22 KB, 33 trang )

NHỮNG BIỆN PHÁP NHẰM ĐIỀU CHỈNH CÁN
CÂN THANH TOÁN QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
3.1 Phương hướng điều chỉnh cán cân thanh toán
Các mục tiêu cơ bản của các chính sách kinh tế của một quốc gia là duy trì
được cân đối bên trong và cân đối bên ngoài. Từ trước đến nay các quốc gia duy trì
cân bằng bên trong và coi đó là khởi nguồn để đưa ra các chính sách kinh tế.
Cân đối bên trong được hiểu là một nền kinh tế đầy đủ việc làm đồng thời
không có lạm phát hay thực tế hơn là một mức lạm phát hợp lý.
Một quốc gia được coi là cân bằng bên ngoài khi nó đảm bảo được cân bằng
cán cân thanh toán. Trong thực tế, các nhà xây dựng chính sách thường xem xét
cân bằng bên ngoài dưới hình thức cán cân bộ phận của cán cân thanh toán, như
cán cân vãng lai. Trong phạm vi này, một quốc gia đảm bảo cân bằng bên ngoài
khi cán cân vãng lai không thâm hụt lớn đến mức mà họ không có khả năng trả các
khoản nợ nước ngoài của họ trong tương lai.
Mặc dù các quốc gia thường duy trì cân bằng bên trong như một ưu tiên cao
nhất, nhưng đôi khi họ vẫn buộc phải thay đổi các ưu tiên khi đối mặt với những
mất cân bằng bên ngoài.
Do khu vực bên trong nền kinh tế gắn bó chặt chẽ với khu vực bên ngoài, nên
các quốc gia không thể lựa chọn các chính sách kinh tế chỉ vì mục tiêu cân đối bên
trong hay chỉ vì mục tiêu cân đối bên ngoài. Những tác động của chính sách kinh tế
được xem xét trong mối quan hệ giữa cân đối bên trong và cân đối bên ngoài của
một nền kinh tế. Chính vì vậy, nhiệm vụ của các biện pháp điều chỉnh cán cân
thanh toán còn phải đảm bảo mục tiêu cân đối bên trong.
Trong nên kinh tế Việt Nam hiện nay, mặc dù không rơi vào tình trạng khủng
hoảng tài chính như một số nước trong khu vực, nhưng nền kinh tế Việt Nam đang
rơi vào giai đoạn trì trệ, tốc độ tăng trưởng kinh tê giảm, đầu tư giảm, thất nghiệp
tăng cao, giá cả có xu hướng giảm...
Bên cạnh đó, cán cân thanh toán của Việt Nam luôn thâm hụt do tài khoản vãng
lai thâm hụt và tài khoản vốn và tài chính không đủ thặng dư để tài trợ cho thâm
hụt của tài khoản vãng lai. Việt Nam đã phải sử dụng những biện pháp tài trợ như


hoãn nợ, thay đổi nợ quá hạn. Điều đó chứng tỏ khả năng thanh toán của Việt Nam
là mức thấp và mức thâm hụt cán cân vãng lai của Việt Nam đã đến giới hạn của
khả năng chịu đựng.
Nhiệm vụ của chính sách kinh tế hiện nay là phải thiết lập được cân đối bên
trong. Để đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế và giải quyết việc làm, Việt Nam
cần phải tăng tổng cầu bằng cách tăng chi tiêu và đầu tư, ngoài các nguồn vốn
trong nước cần phải thu hút các luồng vốn bên ngoài.
Khi luồng vốn ngoài vào nhiều sẽ có tác dụng cải thiện tài khoản vốn làm cân
bằng cán cân thanh toán giúp Việt Nam không phải sử dụng đến biện pháp hoãn
nợ. Tuy nhiên, khi tổng cầu tăng và luồng vốn nước ngoài vào nhiều sẽ thúc đẩy
nhập khẩu máy móc và làm tăng thâm hụt cán cân vãng lai của Việt Nam. Vấn đề
đặt ra ở đây là Việt Nam phải duy trì được thiếu hụt tài khoản vãng lai ở mức có
thể chịu đựng được để không dẫn đến một cuộc khủng hoảng tài bên ngoài như
một số nước trong khu vực đã gánh chịu trong thời gian vừa qua.
Như vậy, định hướng điều chỉnh cán cân thanh toán của Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay là:
* Thứ nhất là phải cải thiện được tài khoản vốn bằng cách thu hút các luồng vốn
đầu tư nước ngoài để cân bằng cán cân tổng thể và phục vụ cho phát triển kinh tế.
* Thứ hai là trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam không thể đảm bảo cân bằng
cán cân vãng lai và phải chấp nhận sự thiếu hụt cán cân vãng lai. Nhưng vấn đề là
phải duy trì khả năng thanh toán của quốc gia đó. Nếu một quốc gia có khả năng
tạo ra những thặn dư cán cân vãng lai thích đáng trong tương lai đủ để trả các
khoản nợhiện hành, thì nó đảm bảo tiêu chuẩn khả năng thanh toán. Và sự đảo
ngược tài khoản vãng lai từ thiếu hụt sang thặng dư không yêu cầu sự thay đổi
mạnh trong chính sách (như một sự thắt chặt đội ngột) kèm theo một số khó khăn
vĩ mô dưới hình thức những giảm mạnh trong các hoạt động kinh tế và tiêu dùng,
thì sự thiếu hụt tài khoản vãng lai trong hiện tại được coi là có khả năng chịu đựng.
Kinh nghiệm quốc tế được rút ra từ các cuộc khủng hoảng đầu những năm 1980
và trong những năm 1990 đã chỉ ra rằng: "khả năng mất cân đối tài khoản vãng lai
dẫn đến cuộc khủng hoảng bên ngoài phụ thuộc phần lớn vào đặc điểm kinh tế vĩ

mô của nền kinh tế nói chung là, mức tiết kiệm và đầu tư, mức độ mở cửa, mức độ
linh hoạt của tỷ giá, và sự lành mạnh của hệ thống tài chính".
Tóm lại, mục tiêu cần đạt đến là duy trì cán cân thanh toán lành mạnh tạo điều
kiện cho nền kinh tế hội nhập có hiệu quả vào nền kinh tế thế giới và khu vực.
Điều này cần đòi hỏi phải thực hiện một loạt các giải pháp dài hạn liên quan đến
toàn bộ hệ thống quản lí và điều hành kinh tế vĩ mô .
3.2 Những biện pháp nhằm điều chỉnh cán cân thanh toán Quốc tế của Việt
Nam
Trong hoàn cảnh kinh tế hiện nay, để cải thiện được cán cân thanh toán và duy
trì được khả năng chịu đựng của tài khoản vãng lai đồng thời vẫn đảm bảo tốc độ
tăng trưởng kinh tế và giải quyết việc làm, một mặt chính phủ nên sử dụng các
biện pháp kiểm soát trực tiếp như hạn chế nhập khẩu, khuyến khích xuất khẩu, thu
hút chuyển tiền của người Việt Nam định cư ở nước ngoài, thu hútcác luồng vốn
FDI và ODA..., mặt khác cần sử dụng các biện pháp vĩ mô như điều chỉnh tỷ giá,
tăng tiết kiệm tư nhân, các chính sách tiền tệ và tài khoá.
Các biện pháp trên khi được phối hợp sử dụng không những đảm bảo cân đối
bên ngoài mà còn đảm bảo cả cân đối bên trong của nền kinh tế trong giai đoạn
hiện nay.
3.2.1 Những biện pháp khuyến khích xuất khẩu
Xuất khẩu giữ vai trò quan trọng trong việc cải thiện sự mất cân đối của cán cân
thanh toán quốc tế. Hơn nữa việc đẩy mạnh xuất khẩu còn làm tăng khả năng chịu
đựng của cán cân vãng lai. Trong giai đoạn hiện nay nhà nước đã đưa ra định
hướng: “Đẩy mạnh xuất khẩu, coi xuất khẩu là hướng ưu tiên và là trọng điểm của
kinh tế đối ngoại, tạo thêm các mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Nâng cao khả năng
cạnh tranh của hàng xuất khẩu trên thị trường. Giảm tỷ trọng sản phẩm thô và sơ
chế, tăng tỷ trọng sản phẩm chế biến sâu và tinh trong hàng xuất khẩu. Tăng nhanh
xuất khẩu dịch vụ. Nâng cao tỷ trọng phần giá trị gia tăng trong giá trị hàng xuất
khẩu ”.
Mặc dù nguyên nhân trực tiếp tạo nên thâm hụt cán cân thương mại như hiện
nay là do tốc độ nhập khẩu tăng nhanh. Tuy vậy, giải pháp cơ bản và có ý nghĩa

lâu dài nhằm giảm mức thâm hụt cán cân thương mại là đẩy mạnh xuất khẩu. Năm
1999, 2000 kim ngạch xuất khẩu tăng khoảng 25% trong khi năm 1998 chỉ tăng
2%. Đó là mức tăng trưởng cao, song vẫn thấp hơn mức tăng nhập khẩu. Để đẩy
mạnh xuất khẩu cần thực hiện các biện pháp cơ bản sau :
A. Thực hiện chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu
Để áp dụng thành công chiến lược này ngoài việc phát huy có hiểu quả những
lợi thế so sánh của mình. Việt Nam phải tranh thủ tận dụng tối đa các nguồn lực từ
bên ngoài như vốn, công nghệ hiện đại, trình độ quản lý sản xuất tiên tiến...
Việt Nam cần phải xác định được một cơ cấu hàng xuất khẩu phát triển theo
hướng gia tăng tỷ trọng sản phẩm chế biến và nguyên liệu chứa nhiều hàm lượng
kỹ thuật. Điều này có nghĩa là hướng các nỗ lực vào phát triển các ngành chế biến
và các lĩnh vực công nghệ hiện đại nhất như: công nghệ phần mềm, lập ngân hàng
dữ liệu, lắp giáp điện tử...
Tuy nhiên kinh nghiệm của các nước hướng về xuất khẩu thành công cho thấy,
bên cạnh lợi thế tĩnh (những ưu thế hiện có của nền kinh tế) cần phải tạo ra lợi thế
động, nghĩa là những ưu thế có được trong tương lai. Chính chỗ này cần có sự can
thiệp của chính phủ. Nói cách khác, một trong những vai trò quan trọng nhất của
chính phủ trong việc thực hiện chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu là
chủ động tạo ra lợi thế động thông qua việc xác định các ngành công nghiệp mũi
nhọn, ưu tiên đầu tư cho cở sở hạ tầng và các điều kiện thúc đẩy tăng trưởng xuất
khẩu trong tương lai. Căn cứ vào xu hướng vận động của thị trường thế giới thì các
mặt hàng có hàm lượng vốn và trí tụê cao là những mặt hàng có khả năng cạnh
tranh và mang lại lợi nhuật cao nhất. Tuy vậy, Việt Nam chỉ nên hoà nhập vào
những ngành này ở chức năng trung gian làm đại lý dịch vụ cho những nước khác.
Nghĩa là Việt Nam trước mắt chỉ nên phát triển công nghiệp lắp giáp, sửa chữa,
dịch vụ tiêu thụ là chính, không nên đầu tư quá nhiều vào công nghiệp chế tạo vì
nó đòi hỏi vốn lớn và dễ bị lạc hậu. Ngoài ra chúng ta cần chú trọng vào các thị
trường dịch vụ như ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, du lịch, quảng cáo,... vì những
ngành này hỗ trợ đắc lực cho các ngành sản xuất và bản thân nó cũng mang lại thu
nhập cao cho nền kinh tế quốc dân.

B. Huy động và tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế tham gia vào
hoạt động xuất khẩu
Trước đây, chỉ có những doanh nghiệp nhà nước mới được quyền hoạt động
xuất khẩu trực tiếp. Cho đến nay, nhà nước đã tạo điều kiện thuận lợi hơn cho lĩnh
vực tư nhân vì đây là lĩnh vực rất nhiều tiềm năng (cụ thể: tỷ trọng xuất khẩu của
khu vực tư nhân năm 1997 tăng 4% đến năm 1999 tăng 14%). Điều này thể hiện:
đối với những mặt hàng tác động đến môi trường sinh thái, hệ sinh thái do Nhà
nước công bố danh mục, doanh nghiệp muốn xuất khẩu phải có giấy phép xuất
khẩu. Phần lớn các mặt hàng còn lại của doanh nghiệp đã đăng kí kinh doanh mặc
nhiên được phép xuất khẩu và chỉ làm thủ tục hải quan. Các doanh nghiệp thuộc
mọi thành phần kinh tế có tư cách pháp nhân hợp lệ đều được tham gia xuất khẩu
trực tiếp mà không phân biệt loại hình doanh nghiệp. Tuy nhiên, nhà nước phải có
sự điều chỉnh đồng bộ, thực hiện thể chế hoá quan điểm phát triển kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần của Đảng, tạo điều kiện hình thành các doanh nghiệp có khả
năng cạnh tranh mạnh trên thị trường quốc tế. Đây cũng là đòi hỏi của việc quản lí
nghiệp vụ kinh doanh, những vấn đề còn lại của cơ chế kinh tế cũ.
C. Thực hiện các biện pháp nhằm xây dựng phát triển thị trường xuất
khẩu cho hàng hoá Việt Nam .
Một chiến lược hướng về xuất khẩu bao giờ cững phải đảm bảo bằng khả năng
thâm nhập và chiếm lĩnh thị trường. Dưới góc độ quản lý vĩ mô việc mở rộng quan
hệ nước ngoài được thực hiện bằng các biện pháp sau:
- Đàm phán, ký kết các hợp đồng thương mại với các nước bạn hàng, đặc biệt là
các nước phát triển có dung luợng thị trường lớn nhằm tăng khối lượng và giá trị
hàng xuất khẩu của Việt Nam (bao gồm đàm phán hạn ngạch xuất khẩu đối với các
mặt hàng có hạn ngạch, ký các hiệp định chính phủ về mua bán hàng hoá giữa các
nước...). Tiến hành khẩn trương việc đàm phán gia nhập tổ chức thương mại thế
giới trên cơ sở bảo đảm lợi ích tối đa của đất nước .
- Thiết lập hệ thống thu nhập và xử lý thông tin thương mại, nâng cao khả năng
dự báo và định hướng thị trường đảm bảo cung cấp kịp thời và chính xác các thông
tin giúp các doanh nghiệp có căn cứ để buôn bán và đầu tư.

- Thành lập trung tâm xúc tiến thương mại với nhiệm vụ nghiên cứu thị trường,
cung cấp thông tin và tổ chức hoạt động xúc tiến thương mại, đào tạo các nghiệp
vụ mua bán hàng hoá quốc tế.
- Sớm ban hành quy chế về việc doanh nghiệp Việt Nam, lập chi nhánh thương
mại ở nước ngoài, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận
trực tiếp nhu cầu thị trường ngoại và thâm nhập sâu vào các thị trường đó.
D. Giải pháp về đổi mới, hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý hoạt động
xuất khẩu.
Xuất khẩu là một khâu quan trọng trong quan hệ kinh tế đối ngoại. Do đó, việc
hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý hoạt động xuất khẩu là cần thiết và cần
được thực hiện theo các hướng sau :
- Miễn giảm thuế xuất khẩu.
Tiếp tục điều chỉnh một các cơ bản chính sách thuế theo hướng miễn giảm đối
với các sản phẩm xuất khẩu và chỉ đánh thuế đối với những sản phẩm không
khuyến khích xuất khẩu hoặc đánh phụ thu khi có lợi nhuận cao .
Ví dụ :
+ Khi giá cà phê xuất khẩu xuống dưới 1.000USD/1tấn thì nhà nước miễn thuế
+ Khi giá cà phê xuất khẩu 3.000USD/1tấn trở lên, thuế phụ thu tăng từ 5% đến
7%
- Đối với những mặt hàng có hạn ngạch, cam kết số lượng với nước ngoài bằng
các hiệp định như xuất khẩu gạo, hàng dệt may, nhà nước nên tổ chức đấu giá các
hạn ngạch nhằm tránh tình trạng những doanh nghiệp có tiềm năng xuất khẩu thì
không có hoặc có ít hạn ngạch trong khi những doanh nghiệp không có khả năng
thì lại nhận được nhiều hạn ngạch. Nhà nước nên cho phép chuyển nhượng hạn
ngạch để đảm bảo kế hoạch xuất khẩu.
- Huỷ bỏ chế độ chuyên ngành:
Mỗi doanh nghiệp được quyền xuất nhập khẩu đều có quyền kinh doanh các
mặt hàng xuất khẩu (trừ những mặt hàng cấm nhập, cấm xuất).
Những kiến nghị trên tựu trung lại nhằm chuyển hẳn quản lý hành chính sang
quản lý nhà nước bằng công cụ kinh tế và pháp luật. Ngoài ra, để đẩy mạnh xuất

khẩu, nhà nước và các doanh nghiệp cần phải chú trọng đến nâng cao chất lượng
và hình thức sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam, quan tâm đến đào tạo cán bộ
chuyên ngành cũng như ổn định môi trường pháp lý và cải cách thủ tục hành chính.
3.2.2 Những biện pháp nhằm điều tiết nhập khẩu
Hiện nay, nền kinh tế thế giới đang chịu sự tác động của quá trình toàn cầu hoá,
khu vực hoá. Đất nước ta đang trong quá trình hội nhập vào xu thế phát triển chung
này nên việc hạn chế nhập khẩu chỉ là một giải pháp ngắn hạn, mang tính tình thế
và khó thực hiện, đặc biệt là trong bối cảnh Việt Nam sắp tham gia vào khu vực
mậu dịch tự do AFTA vào năm 2003. Hơn nữa, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đang được tiến hành ở nước ta khiến nhu cầu nhập khẩu máy móc thiết bị
tiên tiến hiện đại, nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất tăng lên. Trong điều kiện
hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, nhập siêu là một tất yếu. Vì vậy, tất cả các biện
pháp nhập khẩu là nhằm đạt được một cán cân thanh toán lành mạnh hơn, hạn chế
nhập khẩu những hàng hoá không cần thiết hoặc có ảnh hưởng xấu đến thị trường
nội địa .
A. Điều chỉnh cơ cấu nhập khẩu
Cơ cấu nhập khẩu là tỷ lệ tương quan giữa các nhóm hàng trong toàn bộ kim
ngạch nhập khẩu. Cơ cấu hàng nhập khẩu của nước ta gồm hai nhóm lớn: nhóm
hàng tư liệu sản xuất và nhóm hàng tư liệu tiêu dùng. Việc đưa ra những quyết
định nhập khẩu những mặt hàng cần thiết, phù hợp nhằm tiết kiệm ngoại tệ đồng
thời có thể bảo hộ, tạo điều kiện cho nền sản xuất nội địa trong từng giai đoạn phát
triển cụ thể là điều vô cùng quan trọng. Trong giai đoạn hiện nay, việc điều chỉnh
cơ cấu nhập khẩu cần được tiếp tục thực hiện triệt để theo hướng sau:
- Giảm đến mức tối đa nhập khẩu hàng tiêu dùng, đặcbiệt là hàng trong nước
có thể sản xuất đựơc như may mặc, đồ uống, hoa quả... Biện pháp này không có
tác dụng kiểm soát tốc độ nhập khẩu mà còn nhằm hỗ trợ các các doanh nghiệp
trong nước. Danh mực các mặt hàng này được điều chỉnh tuỳ thuộc vào khả năng
sản xuất trong nước cũng như năng lực cạnh tranh của hàng nội địa. Biện pháp này
cũng được thực hiện sao cho không ảnh hưởng đến các cam kết về mở cửa thị
trường trong các hiệp định thương mại Việt Nam đã ký kết với người nước ngoài.

- Tạm ngừng nhập khẩu máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu cho các ngành đã
phát triển khá phồn thịnh ở trong nước như các ngành bia, rượu, đồ uống, nước giải
khá... những ngành thuộc dạng ưu tiên, sử dụng các nguồn lực trong nước .
Việc điều chỉnh cơ cấu nhập khẩu trong điều kiện nước ta hiện nay có ý nghĩa
vô cùng quan trọng trong việc cải thiện cán cân thương mại nói riêng và cán cân
thanh toán nói chung .
B. Kiểm soát việc nhập khẩu của các doanh nghiệp.
Trong những năm qua, việc nhập khẩu của các doanh nghiệp không được quản
lý chặt chẽ, gây hiện tượng nhập khẩu tràn lan, tác động xấu tới cán cân thương
mại. Do vậy, nhà nước cần phải kiểm soát nhập khẩu của các doanh nghiệp theo
hướng sau:
- Hạn chế tối đa việc cho phép nhập khẩu hàng tiêu dùng theo phương thức vay
trả chậm; đồng thời kiểm tra giám sát chặt chẽ các đại lý bán hàng cho người nước
ngoài. Cần ràng buộc nhập khẩu với nghĩa vụ xuất khẩu .
- Kiểm tra chặt chẽ việc nhập khẩu theo các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài
và các dự án ODA. Đối với các dự án FDI việc kiểm tra nhằm tránh tình trạng
nhập khẩu gian lận (chẳng hạn không đúng mặt hàng, chủng loại ghi trong hợp
đồng, hoặc nhập khẩu thiết bị máy móc kém phẩm chất...). Với các dự án ODA
giải pháp này nhằm cho các nguồn vốn vay có thể tái tạo nguồn ngoại tệ đảm bảo
khả năng thanh toán trong tương lai. Những dự án ODA thường tập trung vào lĩnh
vực cơ sở hạ tầng nên không trực tiếp tạo ra nguồn hàng xuất khẩu và vì vậy không
thể có những ràng buộc như đối với các dự án FDI. Tuy nhiên cần có những giải
pháp quản lý chặt chẽ để thu hồi được vốn cũng như hướng vào việc đầu tư cho
những hạng mục có tác động đến hiệu quả chung của nền kinh tế .
C. Áp dụng các phương pháp đánh thuế và hạn ngạch nhập khẩu.
Đây là một biện được áp dụng rất phổ biến và rất có hiểu quả đối với Việt Nam.
Ngày nay, trong tiến trình hội nhập với nền kinh tế thế giới, chuẩn bị gia nhập
AFTA... biện pháp này không còn phát huy hiệu lực trong việc hạn chế nhập khẩu.
Tuy nhiên, đối với những mặt hàng cần được bảo hộ, nhà nước cần quy định thêm
một loạt các khoản thu bổ sung có chức năng như một biện pháp phụ nhằm hạn chế

nhập khẩu mà vẫn không trái với những cam kết giảm thuế suất theo hiệp định
thương mại mà nước ta đã ký kết.
3.2.3 Biện pháp thu hút chuyển tiền nước ngoài.
Qua bảng chuyển giao vãng lai của Việt Nam giai đoạn 1990-1999 ta thấy vai
trò quan trọng của lượng kiều hối, đặc biệt ở khu vực tư nhân, trong việc bù dắp
thâm hụt cán cân thanh toán. Việc thu hút kiếu hồi từ những người Việt Nam sống
ở nước ngoài là một yêu cầu cụ thể và cần được thực hiện bằng cách :
- Nhà nước cần có chính sách về tỷ giá giúp đỡ thân nhân của họ trong việc đầu
tư sản xuất kinh doanh để hướng việc chuyển kiều hồi về nước bằng con đường
chính thức cũng như loại bỏ những thủ tục phiền hà trong việc chuyển và tiếp nhận
kiếu hồi .
- Hướng việc chuyển kiếu hồi vào đầu tư tăng trưởng bằng các chính sách ưu
đãi đầu tư. Khuyến khích tiết kiệm tiêu dùng, gửi tiền tiết kiệm mua cổ phiếu, kỳ
phiếu, thành lập doanh nghiệp góp vốn liên doanh với các đơn vị trong nước .
- Nâng cao mức chịu thuế lên, đồng thời với việc cho miễn thuế đối với kiều hối
chuyển chính thức qua các tổ chức được nhà nước qui định, vì kiều bào gửi về cho
thân nhân trong nước thường là những người nghèo còn những người giàu được
nhập tiền qua con đường hợp tác đầu tư .
- Cần có những chính sách phù hợp, đơn giản hoá thủ tục hành chính, tạo điều
kiện thuận lợi nhất để có thể thu hết nguồn chất xám quý báu của Việt kiều ở nước
ngoài có cơ hội đóng góp, xây dựng đất nước như thủ tục vi sa, tạo điều kiện đi lại
thuận lợi, tạo sự hợp tác và đặc biệt là thể hiện sự tin cậy của họ .
3.2.4 Những biện pháp thu hút vốn nước ngoài.
Việc thu hút các luồng vốn đầu tư nước ngoài vào sẽ có tác dụng làm tăng sản
lượng và việc làm, nhưng cũng sẽ làm tăng thiếu hụt cán cân vãng lai do tăng nhập
khẩu và tăng các khoản trả lợi nhuận và lãi vay cho nước ngoài.
Do đó vấn đề quan trọng ở đây là phải nâng cao được hiệu quả sử dụng vốn đầu
tư. Cụ thể là đầu tư phải hướng tới mục tiêu nâng cao được năng lực sản xuất, nâng
cao được khả năng cạnh tranh của hàng hoá và đặc biệt phải đẩy mạnh được xuất
khẩu.Trong chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài cần thay đổi từ xu hướng

thay thế hàng nhập khẩu sang định hướng ưu tiên sản xuất hàng xuất khẩu để khai
thác hết các lợi thế so sánh của Việt Nam và đẩy mạnh được sản xuất.
A. Những biện pháp thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (cũng như viện trợ nước ngoài) về cơ bản được coi
là một cách lấp đi những thiếu hụt giữa nguồn tiết kiệm, ngoại hối, thu nhập của
chính phủ, kỹ năng quản lý sẵn có trong nước và mức độ mong muốn về nguồn lực
cần thiết này để đạt được mục tiêu phát triển và tăng trưởng.
Để phân tích vai trò cảu đầu tư nước ngoài (cả FDI và ODA) trong việc lấp lỗ
hổng giữa đầu tư và tiết kiệm, chúng ta có thể sử dụng mô hình của Harrod-Domar
cho rằng quan hệ thuận giữa tốc độ tăng trưởng tiền tiết kiệm (s) và tăng trưởng
sản lượng (g) qua phương trình g=s/k, trong đó k là tỷ lệ giữa vốn và sản lượng
quốc dân. Nếu tốc độ tăng trưởng sản lượng quốc dân mong muốn (g) được đặt ở
mức 7% và tỷ lệ vốn/sản lượng là 3, thì tỷ lệ tiết kiệm cần có là 21%. Nếu chỉ có
thể huy động tiền tiết kiệm trong nước được chẳng hạn là 16%, thì một khoảng
thiếu hụt tiết kiệm bằng 5%. Để đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế như mục tiêu
đã đề ra thì quốc gia này cần phải thu hút nguồn lực tài chính nước ngoài. Như vậy,
một đóng góp quan trọng của đầu tư nước ngoài đối với phát triển quốc gia (về mặt
tốc độ tăng trưởng GDP) là vai trò của nó trong việc bù đắp khoảng thiếu hụt
nguồn lực giữa đầu tư đạt mục tiêu và tiền tiết kiệm huy động trong nước.
Đóng góp thứ hai của vốn đầu tư nước ngoài là sự đóng góp của nó vào việc bù
đắp sự thiếu hụt giữa nhu cầu ngoại hối cần có và các khoảnthu từ xuất khẩu cộng
với khoản viện trợ nước ngoài thực có. Đây là cái được gọi là thiếu hụt mậu dịch
hay ngoại hối. Dòng vào của đầu tư trực tiếp nước ngoài không những có thể xóa
bỏ một phần hay toàn bộ thiếu hụt theo thời gian nếu đâù tư trực tiếp nước ngoài
tạo ra nguồn thu nhập ngoại tệ thực. Nhưng đáng tiếc, trong trường hợp đầu tư
trựctiếp nước ngoài nhằm sản xuất thay thế hàng nhập khẩu, tác động toàn bộ của
việc cho phép thành lập các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đằng sau bức
tường thuế quan và hạn ngạch bảo hộ thường làm tồi tệ hơn cả số dư tài khoản
vãng lai lẫn tài khoản vốn. Những thiếu hụt đó thường gây ra bởi cả việc nhập
khẩu thiết bị sản xuất và sản phẩm trung gian và việc chuyển ngoại tệ ra nước

ngoài dưới hình thức chuyển lợi nhuận, phí quản lý, thanh toán tiền bản quyền
sáng chế và tiền gốc và lãi đối với các khoản vay tư nhân.
Khoản thiếu hụt thứ ba được bù đắp bởi đầu tư nước ngoài là khoảng trống giữa
thu nhập từ thuế theo dự định và số thuế thu được trong nước. Bằng việc đánh thuế
đối với các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, chính phủ có nhiều khả năng hơn
trong việc huy động nguồn tài chính cho các dự án phát triển.
Thứ tư là khoảng trống trong quản lý, cách làm ăn, công nghệ và kỹ năng mà
các công ty có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động trong nước có thể bù đắp một
phần hay toàn bộ. Các công ty có vốn đầu tư nước ngoài không những cung cấp
nguồn lực tài chính và các nhà máy mới cho nước sở tại, mà còn cung cấp các
nguồn lực cần thiết bao gồm cả kinh nghiệm quản lý, khả năng kinh doanh và kỹ
năng công nghệ, có thể chuyển giao cho các đối tác trong nước thông qua các
chương trình đào tạo.
Kể từ năm 1997, luồng vốn FDI vào Việt Nam đã giảm đáng kể do nhiều
nguyên nhân : Đặc biệt là do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu
Á, mức độ cạnh tranh căng thẳng giữa những nước trong khu vực trong việc tìm
kiếm đầu tư nước ngoài và những bất cập trong môi trường đầu tư ở Việt Nam.
Bảng 1 : Cam kết FDI và giải ngân thực tế ở Việt Nam, 1991-2000
Triệu USD
1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000
Tổng số cam kết
Giải ngân
1275
9
2207
50
2589
240
3746
516

6607
1318
8640
778
4649
1146
3897
875
1567
641
1600
600
Nguồn: vneconomy.com.vn
Sau đây là những giải pháp nhằm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài :
1.Cải thiện môi trường đầu tư
Việc cải thiện môi trường đầu tư đang đặt ra cho nhà nước nhiều vấn đề cần
nghiên cứu, để chúng ta tranh thủ nhiều vốn đầu tư hơn, nâng cao hơn nữa chất
lượng và hiệu quả đầu tư.
Trước hết, để cải thiện môi trường đầu tư, cần phải ổn định các nhân tố kinh tế
vĩ mô nhằm tạo nền tảng thuận lợi cho đầu tư. Đó là tăng trưởng kinh tế cao và bền
vững. Điều này đạt được khi :
+ Khống chế lạm phát ở mức độ lành mạnh. Lý luận và thực tiễn cho thấy duy
trì lạm phát ở mức một con số sẽ có tác dụng lành mạnh hoá các hoạt động kinh tế
kể cả thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài. Hiện nay, nước ta đang phải đối
mặt với nguy cơ thiểu phát - một tình trạng làm trì trệ nền kinh tế. Để đạt được
mục tiêu trên, nhà nước cần quản lý tốt các khoản thu chi ngân sách tiền tệ nhằm
mục tiêu ổn định vĩ mô và hướng tới tăng trưởng, phát huy vai trò điều hoà cung
cầu, bình ổn giá cả của các quỹ dự trữ...
+ Xây dựng một cơ cấu hạ tầng tốt. Cơ sở hạ tầng là yếu tố vĩ mô vô cùng quan
trọng tạo nên môi trường đầu tư. Nó có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động đầu tư nói

riêng và kinh tế nói chung. Hiện trạng cơ sở hạ tầng của nước ta rất yếu. Đã đến

×