Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

THỰC TRẠNG CÁN CÂN THANH TOÁN QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (206.35 KB, 30 trang )

THỰC TRẠNG CÁN CÂN THANH TOÁN QUỐC
TẾ CỦA VIỆT NAM.
Chương này sẽ đề cập đến thực trạng của vấn đề thiết lập, điều chỉnh cán cân
thanh toán và tình hình cán cân thanh toán của Việt Nam trong giai đoạn từ 1990
đến nay. Đồng thời phân tích mối quan hệ giữa chênh lệch tiết kiệm- đầu tư và
thiếu hụt cán cân vãng lai ở Việt Nam.
2.1 Vấn đề thiết lập cán cân thanh toán quốc tế ở Việt Nam
Việt Nam mới bắt đầu thiết lập cán cân thanh toán cách đây 10 năm, trong khi
các nước phát triển như Anh, Pháp và Mỹ,... đã thiết lập cán cân thanh toán từ sau
chiến tranh thế giới chiến tranh lần thứ II (cách đây hơn 50 năm). Nhìn chung, cán
cân thanh toán quốc tế của Việt Nam được thiết lập theo đúng hướng dẫn của IMF,
được nêu ra trong cuốn “sổ tay cán cân thanh toán” xuất bản lần thứ 4. Nhưng do
đặc điểm thực tế của nền kinh tế Việt Nam và tình hình thu thập số liệu gặp nhiều
khó khăn, nên việc thiết lập cán cân thanh toán của Việt Nam có một số điểm khác
với các nước.
2.1.1 Cơ sở pháp lý của việc thiết lập cán cân thanh toán quốc tế ở Việt Nam
Việc phân tích, thiết lập và điều chỉnh cán cân thanh toán quốc tế là việc làm
còn rất mới mẻ đối với Việt Nam. Vấn đề thiết lập cán cân thanh toán quốc tế của
Việt Nam chính thức đưa ra vào năm 1990 (từ khi có pháp lệnh của ngân hàng). Để
nâng cao chất lượng của bảng cán cân thanh toán, chính phủ đã ban hành nghị định
số 164/1999/NĐ-CP về quản lý cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam ngày
16/11/1999. Nghị định này quy định về việc lập, theo dõi và phân tích cán cân
thanh toán quốc tế của Việt Nam, nó chính là cơ sở pháp lý trong việc phối hợp
chặt chẽ giữa các bộ, ngành liên quan đến việc cung cấp số liệu. Theo nghị định
164, việc lập, theo dõi và phân tích cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam được
giao cho ngân hàng nhà nước Việt Nam chủ trù phối hợp cùng với bộ kế hoạch và
đầu tư, bộ tài chính, bộ thương mại, tổng cục thống kê, tổng cục hải quan.
Trên cơ sở nghị định 164/1999/NĐ-CP, ngân hàng nhà nước Việt Nam đã đưa ra
thông tư 05/20000TT-NHNN ngày 28/3/2000 hướng dẫn thi hành một số điểm về
lập cán cân thanh toán quốc tế. Đồng thời, ngân hàng nhà nước cũng ban hành các
mẫu biểu báo cáo cho các bộ, ngành có liên quan nhằm thu thập được các thông tin


theo đúng yêu cầu của lập cán cân thanh toán.
A. Nguyên tắc lập cán cân thanh toán
Cán cân thanh toán được chia làm hai loại: cán cân thanh toán dự báo và cán
cân thanh toán thực tế.
Cán cân thanh toán dự báo được lập trên cơ sở các chỉ tiêu kinh tế dự báo trong
thời gian tới. Tình trạng của cán cân dự báo sẽ phản ánh sự thay đổi của tỷ giá hối
đoái, của tình hình ngoại hối và toàn bộ nền kinh tế của một nước trong tương lai
gần.
a. Cán cân thanh toán thực tế được lập trên cơ sở số liệu kinh tế tài chính thực tế
phát sinh giữa người cư trú và người không cư trú trong thời kỳ báo cáo. Cán
cân thanh toán thực tế phản ánh tình trạng dự trữ ngoại hối, ngoại thương và
toàn bộ nền kinh tế của một quốc gia tại một thời kỳ lập báo cáo. Các giao dịch
kinh tế giữa các tổ chức và cá nhân là người cư trú với các tổ chức và cá nhân là
người không cư trú được thu thập trên cơ sở mẫu biểu báo cáo định kỳ hoặc
trên cơ sở điều tra chọn mẫu do Ngân hàng Nhà nước phối hợp với Tổng cục
thống kê và các Bộ, ngành có liên quan.
b. Cán cân được lập theo đơn vị là đôla Mỹ (USD).
c. Các giao dịch kinh tế đươc tính theo giá thực tế đã được thoả thuận giữa người
cư trú và người không cư trú.
d. Giá trị các giao dịch phát sinh bằng đồng Việt Nam được quy đổi ra đôla Mỹ
theo tỷ giá hiện hành của Bộ tài chính về hướng dẫn quy đổi ngoại tệ ra đồng
Việt Nam sử dụng trong hạch toán kế toán của doanh nghiệp.
Giá trị kinh tế phát sinh bằng ngoại tệ không phải là Đôla Mỹ được quy đổi ra
đồng Việt Nam, sau đó quy đổi ra Đôla Mỹ theo thời giá hiện hành của bộ tài
chính về hướng dẫn quy đổi ngoại tệ ra đồng Việt Nam sử dụng trong hạch toán
kế toán của doanh nghiệp.
e. Các giao dịch kinh tế giữa người cư trú với người không cư trú được thống kê
tại thời điểm hạch toán vào sổ sách kế toán. Đối với hàng hoá của tổng cục hải
quan thống kê được thực hiện theo quy định hiện hành của tổng cục thống kê.
B. Cơ cấu cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam

a. Cán cân vãng lai: Tổng hợp toán bộ chi tiêu về giao dịch kinh tế giữa người
cư trú và người không cư trú về hàng hoá, dịch vụ, thu nhập của người lao động,
thu nhập từ đầu tư trực tiếp,thu nhập từ đầu tư vào giấy tờ có giá, lãi vay và lãi tiền
gửi nứơc ngoài, chuyển giao vãng lai một chiều và các giao dịch khác theo quy
định của pháp luật.
Cán cân vãng lai gồm 4 khoản mục: Cán cân thương mại, cán cân dịch vụ, cán
cân thu nhập, chuyển tiền đơn phương không bồi hoàn. Nội dung và phương pháp
tính toán của bốn khoản mục trên tương tự như của nước khác trên thế giới. Chỉ có
chú ý nhỏ là: giá trị các khoản nhập khẩu hàng hoả Việt Nam thường được thống
kê theo giá CIF tức là giá cả hàng hoá, chi phí bảo hiểm và chi phí vận chuyển. Vì
vậy, khi đưa số liệu vào cán cân thanh toán cần bóc tách chi phí bảo hiểm ra khỏi
tổng giá trị hàng nhập khẩu.
b. Cán cân vốn và tài chính: Tổng hợp toàn bộ chi tiêu về giao dịch kinh tế
giữa người cư trú và người không cư trú về chuyển vốn từ nước ngoài vào Việt
Nam và chuyển vốn từ Việt Nam ra nước ngoài trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp, đầu
tư vào giấy tờ có giá, vay và trả nợ nước ngoài, cho vay và thu hồi nợ nước ngoài,
chuyển giao vốn một chiều, các hình thức đầu tư khác và các giao dịch khác theo
quy định của pháp luật Việt Nam làm tăng hoặc làm giảm tài sản có hoặc tài sản
nợ của Việt Nam.
c. Cán cân tổng thể: Là tổng hợp của cán cân vãng lai và cán cân vốn và tài
chính.
d. Sai sót thống kê: Phản ánh phần chênh lệch so sai sót thống kê của tất cả các
khoản mục trong cán cân thanh toán Quốc tế.
e. Phần bù đắp: Các tài khoản do ngân hàng trung ương quản lý để điều hoà và
tài trợ do sự mất cân đối trong cán cân thanh toán.
Các tài sản này bao gồm dự trữ vàng, vị thế dự trữ tại IMF (đồng SDR) và các
thay đổi các khoản nợ quá hạn. Nguồn bù đắp có một phần quan trọng là những
biến động của dự trữ vàng và ngoại tệ. Ngân hàng Trung ương thường giữ một số
vàng và ngoại tệ để có thể can thiệp vào thị trường hối đoái nhằm ổn định tỷ giá
đồng tiền trong nước. Dự trữ vàng và ngoại tệ bị giảm đi hay tăng thêm bao nhiêu

có nghĩa là cán cân thanh toán dư thừa hay thiếu hụt bấy nhiêu. Trong trường hợp
này, vàng đóng vai trò tiền tệ thế giới.
C. Trách nhiệm của các bộ, ngành trong việc thiết lập, theo dõi và phân
tích cán cân thanh toán
Tuy IMF không nói rõ cơ quan nào của chính phủ sẽ lập cán cân thanh toán của
một nước, nhưng ở hầu hết các nước trên thế giới, chức năng này do cơ quan quản
lý tiền tệ (ngân hàng trung ương) đảm nhận vì nó là cơ quan quản lý các ngân hàng
thương mại, đóng vai trò quan trọng trong việc thực thi chính sách ngoại hối, nên
có thể tiếp cận tốt nhất các nguồn số liệu liên quan đến cán cân thanh toán. Nhưng
để thành công trong việc lập cán cân thanh toán đòi hỏi phải có sự phối hợp nhiều
bộ, ngành thì mới đưa ra một bản cán cân thanh toán một cách tổng hợp đầy đủ và
chính xác.
Ở Việt Nam cũng vậy, ngân hàng nhà nước là người lập cán cân thanh
toán. Điều này đã được ghi rõ trong Pháp lệnh Ngân hàng và Nghị định
164/2000/NĐ-CP.
Ngoài ra, trong nghị định 164 đã quy định rất rõ trách nhiệm của các bộ ngành
trong việc cung cấp các thông tin về các giao dịch kinh tế giữa người cư trú và
người không cư trú và những số liệu có liên quan cho ngân hàng nhà nước.
Trách nhiệm của các bộ ngành có liên quan đã được ngân hàng nhà nước cụ thể
hoá thông qua trách nhiệm cung cấp thông tin, số liệu theo các mẫu biểu quy định
trong thông tư hướng dẫn 05/2000/TT-NHNN.
2.1.2 Tình hình thu thập số liệu cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam
Từ năm 1990, theo pháp lệnh ngân hàng, ngân hàng nhà nước Việt Nam
(NHNN) chính thức được phân công lập và theo dõi tình hình thực cán cân thanh
toán quốc tế của Việt Nam. Để thực hiện tốt nhiệm vụ đó, NHNN đã đưa ra một hệ
thống mẫu biểu để các tổ chức tín dụng báo cáo về các giao dịch đối của các khách
hàng mở các tài khoản tại hệ thống ngân hàng, như báo cáo về thanh toán xuất
nhập khẩu hàng hoá, thanh toán phi mậu dịch và chuyển tiền, báo cáo tình hình vay
và trả nợ nước ngoài,... Qua các mẫu biểu báo cáo này, NHNN yêu cầu các tổ chức
tín dụng đước phép kinh doanh ngoại hối trên toàn quốc báo cáo định kỳ hàng

tháng và hàng quý cho NHNN qua mạng vi tính của hệ thống ngân hàng (nếu tổ
chức tín dụng nào chưa nối mạng qua hệ thống thì có thể thực hiện báo cáo bằng
văn bản).
Bên cạnh các số liệu thu thập từ hệ thống báo cáo trên, NHNN còn thu thập các
số liệu liên quan đến cán cân thanh toán từ các bộ, ngành khác như bộ tài chính, bộ
thương mại, tổng cục hải quan, tổng cục thống kê, bộ kế hoạch và đầu tư.
Từ năm 1993 đến nay nhờ những cố gắng của NHNN trong việc cải tiến
phương pháp thu thập số liệu và do có sự phối hợp tốt với các bộ, ngành, cùng với
sự biến đổi về chất trong nguồn số liệu thu thập, nên bảng cán cân thanh toán quốc
tế của Việt Nam ngày càng được nâng cao về mặt chất lượng. Hiện nay, NHNN lập
cán cân thanh toán của Việt Nâm theo quý, năm dựa trên cách phân loại và các
nguồn thông tin số liệu đáng tin cậy sau .
A Thu thập cán cân vãng lai
• Xuất khẩu hàng hoá: NHNN sử dụng số liệu do tổng cục hải quan cung cấp,
đây là số liệu ban đầu để lập cán cân thương mại. Nguồn số liệu này thu thập
qua các cửa khẩu của Việt Nam, phản ánh đầy đủ các luồng hàng hoá ra (xuất
khẩu), vào (nhập khẩu) Việt Nam. Hàng tháng, dưới sự chủ trì của bộ kế hoạch
và đầu tư, với sự tham gai của tổng cục thống kê, tổng cục hải quan, bộ thương
mại và NHNN đã tiến hành họp giao ban định kỳ để thống nhất số liệu xuất
nhập khẩu hàng hoá trong kỳ ước lượng số liệu cho kỳ tới để báo cáo chính
phủ.
• Số liệu thu chi dịch vụ: Đây là mảng số liệu khá phức tạp và khó có thể thu
thập được một cách chi tiết theo yêu cầu của các hạng mục tiêu chuẩn như quy
định của IMF. Hiện nay, NHNN đã thu thập số liệu của tất cả các ngành kinh
doanh dịch vụ: du lịch, bảo hiểm, vận tải, bưu điện, hàng không, hàng hải,...
qua hệ thống do NHTM được phép kinh doanh đối ngoại. Nguồn số liệu này có
thể tin cậy được nếu chúng ta xây dựng được một hệ thống mẫu biểu tốt, vì tất
cả các hoạt động giao dịch về dịch vụ giữa người cư trú và người không cư trú
về nguyên tắc đều phải thanh toán qua hệ thống ngân. Hiện nay, NHNN đang
trong quá trình hoàn thiện hệ thống mẫu biểu.

• Số liệu chuyển tiền: NHNN sử dụng các nguồn số liệu sâu để tính toán phân
tích chuyển tiền:
-Chuyển tiền tư nhân: gồm chuyển tiền kiều hối thu thập qua hệ thống ngân
hàng và ước tính thêm phần ngoại tệ chuyển giao vào hoặc ra ngoài hệ ngân
hàng trên cơ sở thông tin về số ngoại tệ tiền do các NHTM chuyển ra nước có
khai báo tại các cửa khâu hải quan.
-Chuyển tiền nhà nước: số liệu về viện trợ không hoàn lại được thu thập từ ban
quản lý và tiếp nhận viện trợ thuộc bộ tài chính.
• Thu thập đầu tư: Do hiện nay, Việt Nam chưa có đầu tư ra nước ngoài dước
hình thức góp vốn cổ phần hay cho nước ngoài vay, nên phần thu của các hạng
mục này chủ yếu là thu từ lãi tiền gửi ngân hàng gửi tại các ngân hàng ở nước
ngoài. Phần chi thể hiện các khoản trả lãi tiền vay của các khoản vay nợ nước
ngoài ở cả hai khu vực (chính phủ và doanh nghiệp) và phần lợi nhuận mà các
nhà đầu tư trực tiếp nươc ngoài chuyển tiền về nước.
B. Thu thập số liệu về cán cân vốn và tài chính
• Đầu tư trức tiếp nước ngoài: Bộ kế hoạch và đầu tư định kỳ cung cấp cho
NHNN các số liệu về đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
• Vay trả nợ nước ngoài: theo nghị định số 58/CP ngày 30/8/1993 của Chính
phủ ban hành về “ những quy định của chính phủ và các bộ ngành về vau trả nợ
nước ngoài” (cũ) và nay là nghị định số 90/1998/NĐ-CP ngày 07/11/1998 ban
hành quy chế quản lý vau và trả nợ nước ngoài, bộ tài chính có trách nhiệm
quản lý toàn bộ các khoản vay, trả nợ của các doanh nghiệp. Hiện nay, NHNN
đã thu thập tương đối đầy đủ hai nguồn số liệu này để đưa vào hạng mục vay,
trả nợ nước ngoài (chia theo thời: ngắn hạn, trung và dài hạn).
C. Thu thập số liệu tài sản dự trữ
Số liệu về tài sản dự trữ ngoại tệ được lấy từ bảng cân đối tiền tệ toàn ngành do
NHNN lập, trên cơ sở bảng tổng kết tài sản của các tổ chức tín dụng.
2.1.3 Những khó khăn khi thiết lập cán cân thanh toán của Việt Nam
Cũng như các nước, Việt Nam khi lập một cán cân thanh toán phát sinh các vấn
đề khó khăn về xác định cư trú, xác định giá trị của các giao dịch quốc tế, đặc biệt

các giao dịch mà không thông qua thị trường, xác định thời điểm khi nào thực hiện
các bút toán cần thiết trong cán cân thanh toán.
Ngoài ra, Việt Nam còn gặp một số khó khăn do nền kinh tế đang chuyển đổi từ
nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường. Do các số liệu thu
thập trong thời kỳ kế hoạch hoá không phù hợp với mục đích của lập cán cân thanh
toán nên trong giai đoạn chuyển đổi các nguồn số liệu phải theo tiêu chuẩn quốc tế
như thống kê thương maị quốc tế (ITS), hệ thống báo cáo giao dịch quốc tế, bản
điều tra doanh nghiệp, thu thập từ các hộ gia đình. Trên thực tế hiện nay Việt Nam
chưa có đủ các số liệu thống kê để phục vụ cho lập cán cân thanh toán. Việt Nam
đã ra nghị định 164/1999 về quản lý cán cân thanh toán, đây sẽ là một cơ sở để
Việt Nam tiến tới xây dựng được một cán cân thanh toán có chất lượng tốt.
A. Xác định cư trú
Về mặt lý thuyết, cán cân thanh toán được định nghĩa như là một bản ghi chép
có hệ thống tất cả giao dịch giữa người cư trú của nước lập báo cáo và những
người nước ngoài. Trên thực tế vẫn có những bất đồng về việc phân biệt người cư
trú và người không cư trú.
B. Thu thập số liệu
Về nguyên tắc, cán cân thanh toán đòi hỏi phải ghi tất cả các giao dịch kinh tế
quốc tế. Trong thực tế, nhiều giao dịch quốc tế rất khó xác định thông qua bất kỳ
phương pháp thu thập số liệu nào. Do đó chúng ta không được báo cáo.
Ví dụ, hãy xem xét hướng thương mại hàng hoá, khoản này thường dựa trên các
khai báo hải quan. Thông thường có nhiều lý do tại sao những khai báo đó không
bao trùm tất cả các giao dịch về thương mại hàng hoá. Thứ nhất, khi buôn bán qua
biên giới không đảm bảo đối phó được với khối lượng thương mại bất chính (như
trường hợp xuất khẩu qua biên giới), một giao dịch quan trọng đã bị bỏ sót trong
thống kê. Thêm nữa, những khoản mục nào đó coi như hàng hoá (như hàng hoá gửi
bưu điện, tàu thủy và máy bay; cá và các sản phẩm kiếm được ở biển khác đồng
thời bán trực tiếp ở các cảng nước ngoài) thường sót trong các khai báo hải quan.
Đối với hầu hết các khoản mục dịch vụ không có những báo cáo toàn diện về
các giao dịch cá nhân như đối với xuất khẩu và nhập khẩu hàng hoá hữu hình. Do

đó, số liệu về các dịch vụ thường được rút ra bằng cách ước lượng hơn là liệt kê.
Đó là nguyên nhân chính dẫn đến việc xác định các số liệu dịch vụ không hoàn
hảo. Ví dụ, những ước lượng về chi tiêu du lịch dựa vào số lượng người du lịch và
một mẫu khai báo tự nguyện về dự định, thời gian ở lại, và các chi tiêu. Do tính đa
dạng của các khoản dịch vụ khác (như tiền hoa hồng và tiền bản quyền tác giả) nên
có ít hay không có số liệu.
Đối với Việt Nam, các số liệu về điều tra doanh nghiệp có nhiều khiếm khuyết,
đặc biệt các số liệu về các xí nghiệp ngoài quốc doanh và doanh nghiệp tư nhân
thiếu một cách trầm trọng. Nguồn số liệu từ hệ thống ngân hàng cũng có nhiều
khiếm khuyết. Mặc dù số liệu từ hệ thống ngân hàng có hoàn chỉnh hơn là từ các
điều tra doanh nghiệp, nhưng các số liệu này không được báo cáo đầy đủ cho ngân
hàng trung ương một cách hệ thống.
C. Xác định giá trị.
Trên thực tế, các nhà thống kê cán cân thanh toán cố gắng đo lường giá trị các
khoản chuyển giao từ quốc gia này sang quốc gia khác. Trong phạm vi các giao
dịch thị trường thông thường đòi hỏi, giá trị giao dịch được thể hiện tốt nhất bởi
giá trị thực tế đã trả (hay đã chấp nhận), cùng với chi phí vận tải và các chi phí
liên quan khác. Tuy nhiên, trong thực tế các giá trị thực phải trả là không bao giờ
có sẵn một cách dễ dàng.
Việt Nam thường xuất khẩu theo giá FOB và nhập khẩu theo giá CIF, trong khi
đó yêu cầu của lập cán cân thanh toán là phải tách các chi phí dịch vụ ra khỏi giá
hàng. Đây là điều không dễ cho nên Việt Nam trong thực tế vẫn ghi nhập khẩu
trong cán cân thương mại theo giá CIF và điều này trái với quy định. Trên thực tế,
Việt Nam thường sử dụng phương thức đổi hàng trong thương mại cho nên xác
định giá tthường không chính xác.
Thậm chí các khó khăn xác định giá trị sẽ tăng hơn nữa do không có các giao
dịch thị thường, như trong trưởng hợp gửi hàng giữa các công ty hội viên hay các
chi nhánh, của cải của hội nhập cư, quà tặng, giao dịch đổi hàng, và... Những giao
dịch như vậy thường được ghi bằng các giá trị tự định.
2.2. Thực trạng của cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam hiện nay.

Trong giai đoạn từ 1990 đến nay, cán cân vãng lai của Việt Nam luôn thiếu hụt
và cán cân vốn và tài chính không đủ để bù đắp cho thiếu hụt cán cân vãng lai và
kết quả là Việt Nam đã phải sư dụng đến các biện pháp tài trợ như xin hoàn nợ và
giảm nợ, điều này đã làm giảm uy tín của Việt Nam trên thị thường tài chính quốc
tế.
Để tìm hiểu nguyên nhân tình trạng thâm hụt cán cân thanh toán ta cần đi sâu
xem xét từng khoản mục trong cán cân thanh toán với những số liệu cụ thể. Từ đó
có các biện pháp điều chỉnh thích hợp đảm bảo sự phát triển cân đối cả bên trong
lẫn bên ngoài của nền kinh tế.
Bảng 1: Cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam 1993-2000
Đơn vị:Triệu USD
1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000
I-Cán cân vãng lai
1. Cán cân thương mại
-Xuất khẩu
-Nhập khẩu
2. Cán cân dịch vụ
-Các khoản thu
-Các khoản chi
3. Thu nhập đầu tư (ròng)
-Các khoản thu
-Các khoản chi
Trong đó:
-Lãi đến hạn trả
-Thực trả
4. Chuyển giao một chiều
-Khu vực tư nhân
-Khu vực chính phủ
II-Cán cân vốn và tài chính
-1302

-1117
2985
4162
78
772
694
-467
30
491
237
53
264
71
194
456
-1911
-1865
4054
5919
19
1516
1497
-367
27
394
237
53
302
170
132

1476
-2641
-3155
5198
8353
159
2409
2250
-272
96
368
225
183
627
474
153
2326
-2426
-3143
7337
10480
-61
2709
2700
-442
140
562
373
257
1200

1050
150
2079
-1659
-1315
9145
10460
-623
2530
3153
-606
136
742
427
348
885
710
715
1662
-1062
-981
9365
10346
-539
2604
3143
-664
133
797
439

246
1122
950
172
216
-1977
-1500
10000
11500
-705
2781
3486
-1020
133
1153
451
250
1248
950
298
1953
-1577
-892
14308
15200
-641
2895
3536
-1127
128

1201
463
271
1083
948
135
809
1.Đầu tư trực tiếp nước ngoài
2.Đầu tư vào giấy tờ có giá
3.Tín dụng trung và dài hạn
-Giải ngân
-Nợ gốc đến hạn trả
+Thực trả
4.Vay ngắn hạn
III- Lỗi và sai sót
IV-Cán cân tổng thể
V-Nguồn bù đắp
1.Thay đổi tài sản ngoại tệ ròng
-Thay đổi dự trữ(-tăng, +giảm)
-Sử dụng vốn của quỹ tiền tệ
+Vay
+Trả
2. Thay đổi nợ quá hạn
3.Các nguồn tài trợ
936
697
-597
54
651
166

117
-210
-1056
1056
438
-156
-39
1056
0
883
477
1627
1033
-276
272
547
166
124
-111
-546
546
-19
-282
175
-117
0
0
-194
2276
1287

-253
443
696
310
311
292
-23
23
-405
-464
92
-357
0
0
-497
1813
891
98
772
674
249
224
67
-280
280
-261
1056
178
-289
0

0
- 439
2074
1002
357
1007
632
394
-612
-3
1
-1
-318
-11
-54
-409
54
0
-264
800
240
432
1121
690
349
-644
372
-519
519
-14

-50
-78
-555
78
413
64
630
1200
1155
1360
570
352
689
-45
-68
68
-52
-24
-66
-670
83
0
92
600
1217
1238
1317
944
371
255

70
768
-768
-1284
-130
-32
637
113
0
548
Nguồn: Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Trang worldbank.com.vn; Tạp chí
ngân hàng số 10/2000, Tạp chí thị trường tài chính tiền tệ số 12/2001; Trang Vitranet.com.vn
2.2.1. Cán cân tài khoản vãng lai.
Trong giai đoạn 1990-1999, do cải cách kinh tế các giao dịch kinh tế đối ngoại
của Việt Nam đã thay đổi một cách nhanh chóng. Thiếu hụt cán cân vãng lai giảm
mạnh từ năm 1990 và 1992 vì các nguồn tài trợ truyền thống từ Liên Xô cũ cạn
kiệt trong khi nguồn tài trợ mới chưa có. Từ năm 1993, Việt Nam có những nguồn
tài trợ từ các quốc gia khác để hỗ trợ cho thiếu hụt cán cân vãng lai. Từ năm đó đến
năm 1996 thâm hụt cán cân vãng lai tăng lên. Trong những năm 1997-1998, thiếu
hụt cán cân vãng lai liên tục giảm do hạn chế nhập khẩu và ảnh hưởng khủng
hoảng châu, đối với Việt Nam. Nhưng từ năm 1999 đến năm 2000 con số này tăng
lên từ 1% đến 5,3%.
Bảng 2: thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai của Việt Nam 1990-2000
Đơn vị: %GDP
Năm 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000
Mức thâm
hụt
theo % GDP
-0,04 -0,0 0,0 -10,9 8,9 -9,3 -10,4 -6,8 -4,4 -1 -5,3
Nguồn : Niêm giám thống kê 1998-Nhà xuất bản thống kê Hà Nội, 1999 và thời báo kinh tế Sài

Gòn số 2/2000, tạp chí tài chính số 3/2000
Bảng 2 cho thấy rằng theo % GDP, thiếu hụt cán cân vãng lai của Việt Nam
trong giai đoạn 1990-1992 là rất nhỏ và gần bằng năm 1992. Thiếu hụt cán cân
vãng lai tăng vọt lên 10,9% trong năm 1993 và giảm xuống 8-10% GDP đến năm
1996. Thêm vào đó, cuộc khủng hoảng khu vực làm giảm luồng đầu tư trực tiếp
FDI, giảm cả số lượng dự án mới và những chi tiêu của dự án đã được cấp giấy
phép hoạt động. Do đó, các chi tiêu của FDI vào nhập khẩu máy móc thiết bị cũng
giảm. Nguyên nhân chủ yếu của giảm thiếu hụt tài khoản vãng lai là do giảm trong
nhập khẩu chứ không phải tăng xuất khẩu. Năm 1999 đến năm 2000, thâm hụt cán
cán vãng lai tăng từ 1 đến 5,3% do nhập khẩu tiếp tục tăng.
A. Cán cân thương mại
Sau 10 năm đổi mới, chính sách ngoại thương đã không ngừng được đổi mới và
hoàn thiện theo hướng tự do hơn thương mại (trước hết là đối với mặt hàng xuất
khẩu nhằm khuyến khích và đẩy mạnh xuất khẩu lấy ngoại tệ để nhập khẩu phục
vụ cho quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước). Tổng kim ngạch xuất
khẩu tăng trung bình 37,5% mỗi năm trong khi tăng trưởng nhập khẩu trung bình
là 15.8% do giảm trong nhập khẩu những hàng hoá quan trọng như ximăng, phân
bón từ Liên Xô cũ.
Bảng 3: Tình hình xuất nhập khẩu và nhập siêu của Việt Nam từ 1991 đến 7
tháng đầu năm 2001
Đơn vị : triệu USD
Năm Xuất
khẩu
(triệu
USD)
Tăng,
giảm
(%)
Nhập
khẩu

(triệu
USD)
Tăng,
giảm
(%)
Nhập
siêu
(Triệu
USD)
Tỷ lệ
nhập
siêu
(%)
Thâm hụt
thương
mại trên
GDP
1990 2404,0 23,5 2752,4 7,3 348,4 14,5 -0,60
1991 2078,1 -13,2 2338,1 -15,1 251,0 12,0 -0,70
1992 2580,7 23,7 2540,7 8,7 -40,0 - -0,60
1993 2985,2 15,7 3924,0 54,4 938,8 31,4 -0,90

×