Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Tiểu luận “Nghiên cứu máy móc và lao động trong quá trình sản xuất giá trị thặng dư”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (310.73 KB, 17 trang )







TIỂU LUẬN



Nghiên cứu máy móc và
lao động trong quá trình
sản xuất giá trị thặng dư








1
LỜI GIỚI THIỆU





V
iệc ứng dụng những thành tựu khoa học - công nghệ hiện đại đã thúc đẩy lực
lượng sản xuất ở những nước tư bản chủ nghĩa phát triển, nhờ đó không những


các tập đoàn tư bản độc quyền thu được lợi nhuận siêu ngạch cao mà đời sống
của những người lao động tại nghiệp cũng được cải thiện và hình thành tầ
ng lớp
trung lưu trong xã hội.
Trước thực tế đó, cộng thêm sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội tập trung
quan liêu ở Liên Xô và Đông Âu, nhiều người nghi ngờ tính đúng đắn của khoa
học kinh tế chính trị Mác- Lênin, đặc biệt là học thuyết giá trị thặng dư “hòn đá
tảng” trong các học thuyết kinh tế của Mác.
Những người phản bác học thuyết giá trị thặng d
ư tấn công vào “hòn đá tảng”
này bằng nhiều luận điểm khác nhau. Phê phán những luận điểm đó, chúng ta
tập trung vào việc nghiên cứu máy móc và lao động trong quá trình sản xuất
giá trị thặng dư để giải thích quan niệm trên.

2
I. MÁY MÓC VÀ LAO ĐỘNG

1) Máy móc đối với nền sản xuất tư bản chủ nghĩa:
Trên cơ sở kỹ thuật thủ công, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa không
thể được xác lập một cách hoàn chỉnh và phát triển vững chắc. Do đó trong quá
trình phát triển chủ nghĩa tư bản đã tạo cho nó một cơ sở kỹ thuật tương ứng là
máy móc, đư
a chủ nghĩa tư bản từ giai đoạn công trường thủ công lên giai đoạn
công nghiệp cơ khí. Máy móc xuất hiện vào thế kỷ 17 và ngày càng được hoàn
thiện. ở thời kỳ cách mạng công nghiệp, thông thường các máy móc đều gồm ba
bộ phận cơ bản. Máy móc không ngừng được cải tiến, phát triển, hình thức hoàn
thiện nhất của nó hiện nay là máy tự động người máy. Trong lịch sử phát triển
củ
a chủ nghĩa tư bản lúc đầu máy móc được sử dụng từng chiếc trong từng xí
nghiệp. Về sau nhờ chế tạo ra máy phát lực mạnh nên chỉ một máy động lực

cũng có thể làm cho nhiều máy công tác hoạt động.
Nhiều máy công tác hoạt động do máy lực trung tâm thông qua một hệ thống
chuyển lực thống nhất, gọi là hệ thống máy móc. Hệ thống máy móc có thể là sự
hiệp tức giả
n đơn của nhiều máy công tác cùng loại hoặc là sự hiệp tác của
nhiều máy công tác khác nhau nhưng liên kết với nhau.
Sự phát triển của máy móc thành hệ thống máy móc đề ra công xưởng. Công
xưởng là xí nghiệp đại công nghiệp sử dụng cả một hệ thống máy móc để sản
xuất . Máy móc được sử dụng phổ biến trong xã hội thông qua cuộc cách mạng
công nghiệp. Về thực chất, đó là cuộc cách mạng kỹ
thuật thay thế lao động thủ
công bằng lao động sử dụng máy móc, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật. Kỹ
thuật cho phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, bảo đảm sự toàn thắng của chủ
nghĩa tư bản với chế độ phong kiến, xác lập sự thống trị tuyệt đối của quan hệ
sản xuất t
ư bản chủ nghĩa trên toàn xã hội.

3
Phải chăng máy móc tạo ra giá trị thặng dư?. C.Mác đã chỉ ra rằng. giá trị của
hàng hoá trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa bao gồm giá trị của những tư liệu
sản xuất đã được tiêu dùng chuyển sang sản phẩm mới c và lượng giá trị mới do
lao động sống thêm vào trong đó để bù lại tư bản khả biến đã được dùng để mua
sức lao động (ngang v
ới giá trị sức lao động và m là giá trị thặng dư dôi ra
ngoài giá trị sức lao động). Như vậy, nguồn gốc của giá trị thặng dư chỉ là lao
động sống.
Những người phản bác học thuyết giá trị thặng dư cho rằng điều đó chỉ đúng
trong thời C.Mác còn sống khi lao động thủ công chiếm ưu thế, còn ngày nay
trong thời đại cách mạng khoa học công nghệ, máy móc là nguồn gố
c chủ yếu

của giá trị thặng dư
Sở dĩ có nhận thức sai lầm ấy là do chưa phân biệt được vai trò của máy móc
với tư cách là nhân tố của quá trình lao động và vai trò của máy móc với tư cách
là nhân tố của quá trình làm tăng gía trị.
Hàng hoá là một vật phẩm có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con người và đi
vào quá trình tiêu dùng thông qua mua- bán. Vì vậy, không phải bất cứ một vật
phẩm nào cũng là hàng hoá. Hàng hoá có hai thu
ộc tính là giá trị sử dụng và giá
trị trao đổi.
a. Giá trị sử dụng của hàng hoá
: là công dụng của vật phẩm có thể thoả mãn nhu
cầu nào đó của con người (như gạo để ăn, vải để mặc, xe đạp để đi). Giá trị sử
dụng của hàng hoá do thuộc tính tự nhiên của hàng hoá quy định. Vì vậy, nó là
một phạm trù vĩnh viễn. Giá trị sử dụng của hàng hoá có đặc điểm là giá trị sử
dụng không phải cho con người sản xuất trực ti
ếp mà là cho người khác, cho xã
hội. Giá trị sử dụng đến tay người khác, người tiêu dùng phải thông qua mua
bán. Trong kinh tế hàng hoá, giá trị sử dụng là vật mang giá trị trao đổi.
b. Giá trị hàng hoá:
muốn hiểu giá trị ta phải đi từ giá trị trao đổi. Giá trị trao đổi
biểu hiện là quan hệ tỷ lệ về số lượng trao đổi lẫn nhau giữa các giá trị sử dụng
khác nhau. Hai hàng hoá có giá trị sử dụng khác nhau có thể trao đổi được với
4
nhau theo một tỷ lệ nhất định vì chúng đều là sản phẩm của lao động, có cơ sở
chung là sự hao phí sức lao động của con người. Lao động xã hội của người sản
xuất hàng hoá kết tinh trong hàng hoá là giá trị của hàng hoá. Như vậy, giá trị là
cơ sở của giá trị trao đổi, còn giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện của giá trị.
Giá trị của hàng hoá biểu hiện mối quan hệ sản xu
ất giữa những người sản
xuất hàng hoá và là một phạm trù lịch sử, chỉ tồn tại trong kinh tế hàng hoá.

Lượng giá trị của hàng hoá được xác định như thế nào? Nếu giá trị hàng hoá là
lao động xã hội kết tinh trong hàng hoá thì lượng giá trị của hàng hoá là số
lượng lao động xã hội hao phí để sản xuất hàng hoá (gồm lao động sống và lao
động vật hoá thể hiện ở tư liệu sản xuất)
Vì lao
động sản xuất hàng hoá có tính hai mặt : lao động cụ thể là lao động có
ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề nghiệp chuyên môn nhất định.
Mỗi lao động cụ thể có một mục đích riêng, phương pháp hoạt động riêng, công
cụ lao động riêng, đối tượng lao động và kết quả lao động riêng. Thí dụ: lao
động của người thợ xây, thợ mộc, thợ may là những lao động cụ thể. K
ết quả
của lao động cụ thể là tạo ra một công dụng nhất định, tức là tạo ra giá trị sử
dụng của hàng hoá.
Lao động trừu tượng: là lao động xã hội của người sản xuất hàng hoá không kể
đến hình thức cụ thể của nó. Các loại lao động cụ thể có điểm chung giống nhau
là sự tiêu hao cơ bắp, thần kinh sau một quá trình lao động. Đó chính là lao động
trừu t
ượng, nó tạo ra giá trị của hàng hoá.
Tất nhiên, không phải có hai thứ lao động kết tinh trong hàng hoá mà chỉ là lao
động của người sản xuất hàng hoá có tính chất hai mặt mà thôi.
Trong nền sản xuất hàng hoá giản đơn, tính chất hai mặt của lao động sản xuất
hàng hoá là sự biểu hiện của mâu thuẫn giữa lao động tư nhân và lao động xã
hội của những người sản xuất hàng hoá. Đó chính là mâu thuẫn cơ bản của sả
n
xuất hàng hoá giản đơn. Mâu thuẫn cơ bản của sản xuất hàng hoá giản đơn còn
5
biểu hiện ở lao động cụ thể với lao động trừu tượng, ở giá trị sử dụng với giá trị
hàng hoá.
Bất cứ quá trình lao động nào cũng là sự kết hợp ba nhân tố chủ yếu: lao động
có mục đích của con người, đối tượng lao động, tư liệu lao động (quan trọng hơn

cả là công cụ lao động, nhất là công cụ cơ khí hay máy móc). Sử dụng máy móc
càng hiệ
n đại thì sức sản xuất của lao động càng cao, càng làm ra nhiều giá trị sử
dụng (nhiều của cải) trong một đơn vị thời gian.
Nhưng khi xét quá trình tạo ra và làm tăng giá trị thì những hàng hoá tham gia
vào đây không còn được xét với tư cách là những nhân tố vật thế nữa, mà chỉ
được coi là những lượng lao động đã vật hoá nhất định. Và dù máy móc (kể cả
rôbớt) quan trọng đến múc nào cũng không thể tự nó chuy
ển giá trị vào sản
phẩm chứ đừng nói đến việc tạo thêm giá trị.
Chính lao động sống đã “cải tử hoàn sinh” cho các tư liệu sản xuất, trong đó
có mày móc, chuyển giá trị của chúng sang sản phẩm mới theo mức độ đã tiêu
dùng trong quá trình lao động sản xuất. Nhưng một tư liệu sản xuất không bao
giờ chuyển vào sản phẩm một giá trị nhiều hơn giá trị mà nó đã b
ị tiêu hao trong
quá trình sản xuất.
C.Mác ví máy móc, thiết bị trong quá trình làm tăng giá trị giống như bình cổ
cong trong quá trình hoá học. Không có bình cổ cong thì không thể diễn ra các
phản ứng hoá học, nhưng bản thân bình cổ cong chỉ là điều kiện cho phản ứng
hoá học diễn ra, chứ không trực tiếp tham gia vào phản ứng ấy. Cũng như vậy,
thiết bị, máy móc chỉ tạo đIều kiện cho việc làm tăng giá trị hàng hoá chứ
bản
thân nó không trực tiếp tham gia vào việc tăng giá trị.
ở đây, một vấn đế được đặt ra là, tại sao thông thường những người sử dụng
máy móc thiết bị tiên tiến lại thu được lợi nhuận siêu ngạch? Đó là do công
nghệ tiên tiến làm tăng sức sản xuất của lao động, hạ giá trị cá biệt của hàng hoá
xuống thấp hơn giá trị thị trường (giá trị xã hộ
i), nhưng trên thị trường, thông
qua cạnh tranh lại bán theo giá trị thị trường, nên thu được lợi nhuận siêu ngạch.

×