Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Sự trình hiện nhân vật nữ trong cánh đồng bất tận từ truyện ngắn đến điện ảnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.84 MB, 107 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA NGỮ VĂN

ĐẶNG LAN ANH

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP

SỰ TRÌNH HIỆN NHÂN VẬT NỮ
TRONG CÁNH ĐỒNG BẤT TẬN
TỪ TRUYỆN NGẮN ĐẾN ĐIỆN ẢNH
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

TP. Hồ Chí Minh, năm 2020


2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA NGỮ VĂN

SỰ TRÌNH HIỆN NHÂN VẬT NỮ
TRONG CÁNH ĐỒNG BẤT TẬN
TỪ TRUYỆN NGẮN ĐẾN ĐIỆN ẢNH

Người thực hiện: Đặng Lan Anh
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Minh


TP. Hồ Chí Minh, năm 2020


3

LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô và cán bộ của trường Đại học Sư phạm
Thành phố Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện cho tơi trong suốt q trình học.
Tơi xin chân thành cảm ơn các cán bộ của Thư viện trường Đại học Sư phạm Thành
phố Hồ Chí Minh đã hỗ trợ tơi tận tình trong việc tìm kiếm tư liệu nghiên cứu để
hồn thành tốt luận văn tốt nghiệp.
Tôi cũng vô cùng cảm ơn sự quan tâm và ủng hộ của gia đình và bạn bè. Đó chính
là nguồn động viên tinh thần rất lớn để tơi theo đuổi và hồn thành luận văn này.
Đặc biệt tôi vô cùng tri ân sự hướng dẫn tận tình và theo dõi sát sao đầy tinh thần
trách nhiệm của tiến sĩ Nguyễn Thị Minh trong suốt q trình thực hiện luận văn
này.
Cuối cùng tơi muốn gửi lời cảm ơn chân thành đến toàn bộ quý thầy cô của khoa
Ngữ văn trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, những người đã có vai
trị rất lớn trong suốt q trình tơi theo học tại trường.
Tơi xin chân thành cảm ơn.


4

Mục lục
MỞ ĐẦU .................................................................................................................5
Chương 1: Khái niệm sự trình hiện của Stuart Hall và phương pháp phân tích sự
trình hiện trong các loại văn bản ...............................................................................22
1.1. Khái niệm sự trình hiện ..................................................................................22
1.1.1. Cơng cụ phân tích sự trình hiện................................................................22

1.1.2. Q trình tạo nên sự trình hiện .................................................................30
1.2. Sự dịch chuyển kí hiệu từ văn bản ngơn từ đến điện ảnh ...............................38
1.2.1. Cơ sở diễn giải hệ thống kí hiệu trong tác phẩm điện ảnh cải biên .........38
1.2.2. Những khái niệm cần lưu ý trong diễn giải kí hiệu tác phẩm điện ảnh ...40
Chương 2: Sự trình hiện nhân vật nữ trong truyện ngắn “Cánh đồng bất tận”........42
2.1. Nụ cười và nước mắt trong cuộc đời nhân vật Sương ....................................43
2.1.1. Nụ cười của Sương ...................................................................................43
2.1.2. Nước mắt của Sương ................................................................................60
2.2. Sự trình hiện nụ cười và nước mắt trong cuộc đời nhân vật Nương ..............63
2.2.1. Nụ cười của Nương ..................................................................................63
2.2.2 Nước mắt của Nương ................................................................................68
Chương 3: Sự trình hiện nhân vật nữ trong phim điện ảnh “Cánh đồng bất tận” .....72
3.1 Nhân vật Sương trong không gian chiếc ghe và cánh đồng ............................72
3.1.1 Nhân vật Sương trong không gian chiếc ghe ............................................73
3.1.2 Nhân vật Sương trong không gian cánh đồng ..........................................85
3.2 Nhân vật Nương trong không gian chiếc ghe và cánh đồng............................89
3.2.1 Nhân vật Nương trong không gian chiếc ghe............................................90
3.2.2 Nhân vật Nương trong không gian cánh đồng ..........................................94
KẾT LUẬN .............................................................................................................101
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


5

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong nghiên cứu văn hóa, sự trình hiện là yếu tố quan trọng để hiểu về đời sống
tinh thần của một cá nhân và tập thể. Chúng ta tư duy, nghi vấn và khám phá thế
giới bằng kinh nghiệm được tích lũy trong quá trình tiếp xúc với các loại văn bản.

Ta dần chấp nhận sự trình hiện như một phần tất yếu của nhận thức mà thiếu tính
đối thoại về nó. Bất cứ một sự trình hiện nào, dù là khách quan nhất: bản tin thời sự,
kí sự, phim tài liệu… vẫn có sự sắp đặt của người khác. Hình ảnh được trình hiện
khơng bao giờ là hiện thực tuyệt đối. Vì thế, nghiên cứu về sự trình hiện khơng đơn
thuần chỉ là miêu tả, dựng lại cấu trúc của đối tượng mà cịn phát hiện ý nghĩa văn
hóa, mang lại diễn giải mới về đối tượng.
Đồng bằng Tây Nam Bộ có nhiều tác giả trẻ. Văn học gắn bó mật thiết với thiên
nhiên và con người. Nhắc đến Tây Nam Bộ, ta thường hình dung ngay đến những
con người chân chất, mộc mạc, yêu nước: người chiến sĩ trong “Những đứa con
trong gia đình” của Nguyễn Thi, người thanh niên trẻ theo tiếng gọi cách mạng
trong “Đất rừng phương Nam” của Đoàn Giỏi. Đến thời kì hiện đại, Nguyễn Ngọc
Tư là cây bút phác họa lên một góc nhìn khác trong cuộc sống đời thường ở miền
Tây Nam Bộ. Chân dung những người phụ nữ trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư
mang lại những diễn giải mới về con người.
Trong các bài phê bình và nghiên cứu về nhân vật nữ trong “Cánh đồng bất tận”,
người phụ nữ thường được nhận định sống trong bi kịch vì nỗi cơ đơn, tình u đơn
phương, chấp nhận nỗi đau như một thói quen. Nhưng liệu họ có thực sự đau khổ vì
chính tình u thương của mình hay khơng, hay cịn vì một điều gì khác? Tập
truyện ngắn “Cánh đồng bất tận” được nhận giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam
2006, giải thưởng Văn học ASEAN năm 2008 và Literaturpreis do Litprom - Hiệp
hội quảng bá văn học châu Á năm 2018. Bộ phim “Cánh đồng bất tận” nhận được
nhiều giải thưởng giá trị như giải Cánh diều vàng 2010 cho hạng mục phim truyện
nhựa xuất sắc nhất, đạo diễn phim xuất sắc nhất, nữ diễn viên chính xuất sắc nhất và


6

hạng mục do báo chí bình chọn. Những thành cơng ấy phần nào thể hiện giá trị về
nhân vật trung tâm là người phụ nữ trong cả hai tác phẩm. Với một tác phẩm có sức
lan tỏa đến độc giả trong thời gian dài, có sức ảnh hưởng đến cơng chúng quốc tế,

liệu có đủ thỏa mãn khi chỉ chỉ dừng lại ở một cách diễn giải đơn giản hay khơng?
Khám phá ý nghĩa về người phụ nữ cần có thêm một lăng kính mới để khơi gợi tiềm
năng nghệ thuật trong hai tác phẩm truyện ngắn và phim điện ảnh. Thế giới nội tâm
và uẩn khúc trong quá khứ của mỗi nhân vật được Nguyễn Ngọc Tư và Nguyễn
Phan Quang Bình trình hiện như thế nào? Trong sự khác biệt về chất liệu, ý nghĩa
của nhân vật liệu có thay đổi hay khơng? Tác phẩm điện ảnh có phải là một sản
phẩm thứ cấp của văn học? Bằng việc khám phá sự trình hiện nhân vật nữ, chân
dung các nhân vật một lần nữa được hiện lên rõ ràng và ý nghĩa mới được tạo nên
trong sự đối sánh của phương pháp phân tích trình hiện theo Stuart Hall. Đây là
hướng nghiên cứu khác với các phương pháp nghiên cứu trước đó là phân tích, phân
loại các chi tiết về nhân vật theo các tiêu chí của khung lí thuyết rồi khái quát thành
đặc điểm. Kí hiệu về người phụ nữ cần được đặt trong mối quan hệ tương đồng và
đối lập với các nhân vật khác trong cùng hệ thống để khám phá nhiều ý nghĩa hơn
nữa.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Các cơng trình nghiên cứu về nghệ thuật cải biên và phân tích sự trình
hiện nghệ thuật bằng kí hiệu
2.1.1. Các nghiên cứu quốc tế
a. Nghiên cứu của người viết tham khảo 4 cuốn sách quan trọng về phân tích sự
trình hiện nghệ thuật bằng kí hiệu:
Cuốn sách Representation: Cultural Representation and Signifying Practices của
tác giả Stuart Hall viết năm 1997 là hướng nghiên cứu về sự trình hiện hình ảnh
được đề cập và giảng dạy lần đầu tiên tại Mĩ. Đó là một trong những hướng nghiên
cứu thực hành kí hiệu học được phát triển bởi Stuart Hall. Những bài giảng của tác
giả Stuart Hall về sự trình hiện tập hợp thành 5 chương bao gồm cả lí thuyết và các
thực hành về sự trình hiện. Bằng các khái niệm công cụ liên quan đến phương pháp


7


phân tích kí hiệu và diễn ngơn, tác giả đã làm rõ những định kiến về sự trình hiện
người da đen trên các phương tiện truyền thông tại Mỹ và Anh. Đó là q trình
truyền thơng kiến tạo nên ý nghĩa cho một đối tượng và xây dựng nên một thế giới
có ý nghĩa theo một trật tự mới. Sự trình hiện có liên hệ mật thiết với ngơn ngữ, là
cơng cụ mạnh mẽ giúp trí tuệ con người thực hiện mong muốn tạo ra thế giới với
đầy đủ ý nghĩa. Lí thuyết về sự trình hiện trong bài luận chủ yếu được đúc kết từ lí
thuyết của Staurt Hall. Và hướng tiếp cận sự trình hiện cũng đi theo phương pháp
của Staurt Hall vận dụng trong chương 4: “Cảnh tượng của ‘Tha thể’” (The
spectacle of the ‘Other’). Tác giả khai thác các đặc trưng để tìm ra sự khác biệt
trong những trình hiện tưởng chừng như rập khn và được sắp xếp có chủ ý. Đồng
thời, tác giả lí giải về cách ta “nhìn” những kiểu mẫu và vai trị của chúng trong q
trình diễn giải của con người.
Flim Studies the Basic của Amy Villarejo là cuốn sách được xuất bản ở nhiều
trường đại học liên quan đến nghiên cứu điện ảnh tại Mỹ và Canada. Nội dung trình
bày khái quát các khái niệm về điện ảnh. Điện ảnh là một hệ thống kí hiệu chuyên
biệt dùng sự liên tục của hình ảnh để truyền tải nội dung. Chương 2 “Ngôn ngữ của
điện ảnh” (The language of flim) cung cấp những khái niệm cơ bản trong kết cấu
một bộ phim và cũng là cách thức để người xem tiếp cận đến nội dung của bất kì tác
phẩm điện ảnh nào. Trong sự trình hiện một khái niệm lên màn ảnh phải là sự kết
hợp tổng hòa từ các yếu tố: dựng cảnh, khung hình, ánh sáng, phục trang, kĩ thuật
quay phim… Đọc được ngơn ngữ của hình ảnh chính là cách thức giúp ta tư duy sâu
hơn bên trong thế giới phim ảnh và hiểu được tầng sâu văn hóa mà bộ phim muốn
truyền tải.
Tokyo in transit: Japan Culture on the Rails and Road của tác giả Alisa Freedman
là nghiên cứu về văn hóa Nhật Bản thơng qua phương tiện giao thông công cộng tàu
điện, xe buýt. Trong chương 4, tác giả khám phá hình tượng những cơ gái xe buýt
như là biểu tượng văn hóa về những tác động nhanh chóng của cơng nghệ hiện đại
hóa. Ý nghĩa của những cô gái được những hành khách mà họ gặp nhìn nhận khơng
giống nhau. Tác giả đi sâu vào khai thác trong thực hành trình hiện cụ thể trong ba
diễn ngơn văn hóa hóa là tác phẩm truyện “Người đưa xác chết” (Shitai Shokainin)



8

của Kawabata Yasunari năm 1929, “Cuộc chạy tiếp sức giết người” (Murder Relay)
(Satsujin rire) năm 1934 của Yumeno Kyusaku (1889-1993) và “Nàng Okoma”
(Okoma-san) của Ibuse Masuji (1898-1936) vào năm 1940. Tác giả sử dụng ý nghĩa
về sự trình hiện của các cô gái trong so sánh tương đồng và khác biệt để nâng lên
tính khái quát về giá trị sống của một giai đoạn xã hội. Bài viết thể hiện những điểm
nhìn khác nhau (chủ yếu là các tác giả nam) về người phụ nữ gắn với sự nghèo hèn,
nhỏ bé và là đối tượng của ham muốn. Các cô nhân viên nữ lần đầu tiên được trình
hiện ra trước cơng chúng giống như một hình thức phục vụ của ‘geisha’. Đây là một
nghiên cứu về sự trình hiện người phụ nữ sử dụng lí thuyết nghiên cứu văn hóa
(cultural studies).
Cuốn sách Nghệ thuật điện ảnh (Dẫn luận giáo trình chuyên ngành điện ảnh)
của tác giả David Bordwell, Kristin Thompson cung cấp những khái niệm cơ bản
nhất về điện ảnh, cách đọc ý nghĩa trong một khung hình hay một cảnh quay. Trong
chương 2 “Ý nghĩa của hình thức phim”, cuốn sách trình bày cách hiểu của các nhà
làm phim trong cách dùng hình ảnh như một hình thức chứ không phải chất liệu –
“Kịch bản điện ảnh là một cấu trúc” (William Goldman, nhà biên kịch phim “Butch
Cassidy and the Sundance”). Cuốn sách phủ nhận quan điểm hình thức đối lập với
nội dung phim mà khẳng định mọi yếu tố bên trong hay bên ngồi đều có “chức
năng như phần tồn bộ của khn mẫu” [4]. Cuốn sách đề xuất cách phân tích phim
thơng qua kí hiệu hình ảnh đặc thù hay những qui ước mang tính cố định thường
được sử dụng trong các bộ phim kinh điển.
2.3.2. Các nghiên cứu trong nước
Chân trời của hình ảnh từ văn chương đến điện ảnh qua trường hợp Kurowasa
Akira của tác giả Đào Lê Na, có vai trị như một nền tảng lí thuyết vững chắc cho
nghiên cứu nội dung và hình thức cải biên tác phẩm văn học đến tác phẩm điện ảnh.
Trong đó, cơ sở của việc xem tác phẩm cải biên như một tác phẩm nghệ thuật độc

lập và hồn chình là điều trọng tâm nhất. Sự phức hợp của nhiều lí thuyết như: liên
văn bản (Bakhtin), phiên dịch (James S.Holmes), văn hóa (hiểu theo quan niệm của
phương Tây và trường phái thực hành trình hiện của Mĩ với đại diện là Stuart Hall),
giải kiến tạo (Bakhtin). Các lí thuyết ấy là mắt xích quan trọng, làm tiền đề tiến


9

hành thâm nhập vào thế giới của bất kì tác phẩm cải biên nào. Cải biên không phải
là sự chuyển đổi hệ thống kí hiệu một cách võ đốn mà sự sắp đặt có tính tốn của
người nghệ sĩ để tạo nên một thế giới nghệ thuật hoàn toàn mới.
2.2. Các nghiên cứu về tác giả Nguyễn Ngọc Tư và sáng tác của cô
2.2.1. Về phong cách tác giả Nguyễn Ngọc Tư
Luận văn “Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư” của tác giả Nguyễn Thành
Ngọc Bảo đã khái quát những nét nổi bật trong sáng tác tự sự Nguyễn Ngọc Tư
dưới góc độ thi pháp truyện ngắn truyền thống (cảm hứng sáng tác, hệ thống nhân
vật) và thi pháp văn xuôi hiện đại (đặc điểm thi pháp trần thuật và thi pháp ngôn từ).
Tác giả luận văn nhận định: “Cánh đồng bất tận là một ngã rẽ bất ngờ để thách
thức và làm mới bản thân tác giả, thấy những mặt đen tối xấu xa, dữ dằn của nông
thôn Nam Bộ” [2].
Theo tác giả, nhân vật được khái quát trong tính từ “cơ đơn”. “Cơ đơn là nỗi đau, là
bi kịch tinh thần lớn nhất của con người. Nhưng đọc Nguyễn Ngọc Tư, chúng ta
cảm thấy rõ niềm cô đơn mà không bi quan, tuyệt vọng. Nhân vật của chị tự ý thức
về nỗi cô đơn. Họ chấp nhận bởi họ cảm thấy nỗi đau ấy là lẽ sống. Và, từ nỗi đau
ấy họ vươn lên, làm người. Cô đơn trong quan niệm của Nguyễn Ngọc Tư là động
lực của cái đẹp, cái thiện” [2]. Nhân vật được xây dựng là nhân vật điển hình có
tầm nhìn rộng, tầm vóc ngang bằng hoặc cao hơn so với nguyên mẫu đời sống.
Nguyễn Ngọc Tư ít chịu ảnh hưởng của trào lưu văn chương thế giới, tác phẩm
chưa mang hơi thở của thời đại. Luận văn phân tích tác phẩm theo hướng làm rõ nội
dung, có tính tồn diện trên nhiều khía cạnh, chia đối tượng theo nhóm ngành nghề.

Đặc điểm truyện phân tích theo thi pháp truyền thống: cốt truyện, chi tiết, tình
huống.
Đối với cơng chúng lúc bấy giờ, phong cách Nguyễn Ngọc Tư đã gắn bó với sự
mộc mạc, giản dị của làng quê qua các sáng tác: “Ngọn đèn khơng tắt, Ơng ngoại,
Biển người mênh mơng”. Đến “Cánh đồng bất tận” là một sự thay đổi phong cách
sáng tác đầy bất ngờ. Trong bài báo "Tiếng thở dài với Cánh đồng bất tận", tác giả
Đỗ Hồng Ngọc không giấu nỗi sự thất vọng khi nhà văn miền Tây Nam Bộ dần mất


10

đi chất mộc mạc. Người viết cho rằng, Nguyễn Ngọc Tư đã quá chạy theo cái mới,
theo khuynh hướng văn học phương Tây mà quay lưng lại với cốt cách "đồng nội".
Nguyễn Ngọc Tư thay đổi văn phong của mình, một phần cũng vì chạy theo thị hiếu
độc giả, "sợ người ta đã ngán ngẩm mình, chán nản minh nên phải làm mới" [17].
Người viết không phủ nhận thành công và tầm ảnh hưởng của "Cánh đồng bất tận"
nhưng lại "hụt hẫng như đánh mất một đức tin" vì sự thay đổi phong cách sáng tác
của tác giả.
2.2.2 Về một số đặc trưng trong các sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư
Trong bài viết “Thân phận cô đơn của người phụ nữ trong truyện ngắn Nguyễn
Ngọc Tư”, tác giả Lê Thị Kim Liên khẳng định: “Nhân vật nữ cô đơn là nét tiêu
biểu” [12]. Bài viết lí giải nguyên nhân của nỗi cơ đơn ấy và giải thích ngun nhân
vì sao điều đó trở thành bản chất của nhân vật. Truyện ngắn “Cánh đồng bất tận”
được nhắc đến ba lần với sự minh họa cho hầu hết sắc thái cô đơn. Người vợ Út Vũ
là người phụ nữ cô đơn trong tình u. Nương là người phụ nữ cơ đơn giữa hận thù
và cũng cơ đơn trong chính hình hài hiện sinh (nhân vật Nương luôn day dứt về
thân thể của mình, về một hình hài giống với mẹ). Tác giả lí giải dựa trên thống kê
các chi tiết về hành động và cảm xúc biểu hiện sự cô đơn của nhân vật.
Hướng nghiên cứu của luận văn “Ẩn dụ tri nhận trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc
Tư” của Từ Thị Mỹ Hạnh lấy cơ sở là ngôn ngữ học tri nhận. Đó là con đường ý

niệm hóa về sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan thông qua các từ ngữ gắn
liền với văn hóa dân tộc. Mục đích nghiên cứu của khóa luận là khái quát những ẩn
dụ tri nhận trong hơn 70 truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư và khái quát tư duy của
người bản địa về ngôn ngữ. Tác giả lựa chọn tìm hiểu về ẩn dụ trong ngơn ngữ bởi
đó là cơng cụ tạo nghĩa cho khái niệm mới. Cơ sở xác lập nghĩa dựa trên hai yếu tố
là văn hóa địa phương và kinh nghiệm cá nhân của nhà văn. Luận văn có đóng góp
cho sự phát triển từ ngữ trong văn học, đặc biệt là văn học vùng Tây Nam Bộ. Đồng
thời, luận văn mở ra cách hiểu mới về con người và văn hóa Nam Bộ, phù hợp với
dịng phát triển tri nhận của nhân loại.


11

Trong luận văn “Truyện ngắn và tản văn Nguyễn Ngọc Tư – một cái nhìn so sánh”,
tác giả Mai Nguyễn Bích Thuận đã so sánh phong cách sáng tác của Nguyễn Ngọc
Tư trên hai thể loại là truyện ngắn và tản văn. Tác giả đưa ra được những định nghĩa
xác đáng về thể loại “tản văn”, đang là khái niệm khá mơ hồ trong công chúng.
Đồng thời trong truyện ngắn, tác giả cũng tập trung làm rõ sự khác biệt với tản văn
trên hai phương diện là nội dung cảm hứng và phương thức tự sự. Đối với nhân vật
người phụ nữ, luận văn có những phát hiện độc đáo về giọng điệu trần thuật. Mượn
điểm nhìn trần thuật của Nương, nhà văn thể hiện thái độ thương xót cho thân phận
những cô gái điếm bán thân mưu sinh và mơ ước gia đình với họ là điều xa xỉ.
Trong luận văn “Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư nhìn từ cấu trúc trần
thuật”, tác giả Đinh Thị Kiều Oanh trình bày khái niệm về cấu trúc trần thuật của
tác phẩm tự sự nói chung là “Đơn vị của cấu trúc trần thuật là cấu hình cảnh và
cấu hình diễn ngôn” [21]. Luận văn làm rõ mối quan hệ giữa câu chuyện (sự kiện
được liệt kê theo trình tự thời gian) và nghệ thuật trần thuật. Trong đó, hành vi kể
được xem là yếu tố quan trọng, cấu tạo nên tác phẩm và thể hiện quan niệm của tác
giả. Luận văn chỉ ra sự khác nhau trong phối cảnh trần thuật và phối cảnh điện ảnh.
Phương pháp phân tích cảnh gồm sự phối hợp các thao tác phân tích hình tượng và

ngơn ngữ: phân tách cảnh, sắp xếp mơ hình và trật tự, lập mơ hình cảnh, đối chiếu
cảnh trước và cảnh sau để tái hiện lại mơ hình cốt truyện. Tuy nhiên sự phân tách
này chỉ nhằm đối chiếu giữa truyện và truyện, chưa mở rộng trong lĩnh vực điện
ảnh. Luận văn có đề cập đến một số điểm lí thuyết trong việc phân chia cảnh và
diễn ngơn ứng dụng từ lí thuyết trong lĩnh vực điện ảnh của tác giả Lotman. Phối
cảnh điện ảnh là “trật tự sắp xếp các sự kiện quan điểm nhân sinh, ấn tượng chủ
quan (nội dung chính) của truyện chưa phác họa được mối quan hệ giữa cảnh và
nhân vật. Cảnh lấy nhân tố chính là sự kiện – thời gian (khơng gian ít được chú
trọng nhưng điều này thể hiện rõ trong điện ảnh)” [21]. Ngôi kể trong thể loại
truyện ngắn và điện ảnh đều xuất phát từ nhân vật thể hiện được chiều sâu nội tâm.
Luận văn phân tích yếu tố này có quan hệ chặt chẽ trong việc thể hiện các diễn
ngơn, đối thoại. Phân tích cấu hình cảnh trong truyện, luận văn phát hiện được kĩ
xảo chêm xen (cũng là kĩ xảo thông dụng trong điện ảnh) dừng lại miêu tả tạo độ
ngừng nghỉ, đồng thời tăng thêm mức độ chi tiết cho bối cảnh sự việc.


12

2.2.3. Một số khía cạnh trong tác phẩm “Cánh đồng bất tận”
Bài báo "Cảm quan Phật giáo trong Cánh đồng bất tận" của Phan Thị Thu Hiền lí
giải tính cách, hành động của nhân vật ông Vũ, Nương, Điền và Sương bằng quan
niệm Phật giáo. Quan niệm này được Nguyễn Ngọc Tư nhắc đến trước đó trong
đoạn văn ngắn dẫn trước truyện: "Hạn chế sân hận, trải rộng tình thương" [8]. Từ
khơng gian nghệ thuật là khơng gian tâm lí, tác giả bài viết đã khái quát thành hình
tượng nghệ thuật là "sa mạc thù hận". Thời gian nghệ thuật là "chuỗi dài của sự
trừng phạt". Sự đau khổ mà các nhân vật phải trải qua là hệ quả tất yếu, "nhân" từ
những "quả" đã gieo nên trước đó. Bài viết đã đóng góp sự diễn giải ý nghĩa hình
ảnh các nhân vật dưới góc nhìn tơn giáo Phật giáo. Tác giả sử dụng thao tác quy
chiếu tương đồng những hình ảnh, chi tiết hành động trong tác phẩm đến những
khái niệm trong tín ngưỡng Phật giáo để lí giải mối quan hệ giữa tính cách và hành

động của nhân vật.
Trong “Những bài học văn chương từ Cánh đồng bất tận”, tác giả Bùi Tùng Ảnh
đánh giá Nguyễn Ngọc Tư là người dự báo những vui buồn trong cuộc sống, dựng
nên được nhân vật điển hình của thời đại. “Nhân vật Nguyễn Ngọc Tư thường bị
nhấn chìm trong nỗi sợ hãi, hoặc “câm nín”, hoặc “nhẫn nhịn” (đúng hơn là nhẫn
nhục), “chấp nhận” (khi chấp nhận cũng là một thói quen, mà đạo đức chính là một
thói quen). Nhân vật bị dìm vào tình thế “xé toạc”, “đau đớn”. Con người bị nhốt
trong bi kịch gia đình, bi kịch xã hội” [1]. Bài báo cịn thể hiện đóng góp của
Nguyễn Ngọc Tư trong việc tạo nên phong vị Nam Bộ ở khía cạnh ngơn ngữ và tình
cách con người.
Đối thoại với những luận điểm trong “Những bài học văn chương từ Cánh đồng bất
tận”, bài báo “Môi trường và nhân tính tự sự của Nguyễn Ngọc Tư”, tác giả Đồn
Ánh Dương làm rõ hơn ý nghĩa tác phẩm trong mối quan hệ giữa hệ thống biểu
tượng trong tên gọi và số phận của nhân vật. Ý nghĩa nhân vật không chỉ thể hiện
bằng hệ thống hành động, lời nói, như tác giả Bùi Tùng Ảnh đã dẫn, mà còn phụ
thuộc vào mối liên hệ trong cách đặt tên và các hình ảnh ẩn dụ quy chiếu đến nhân
vật. Bài viết khái quát cách xây dựng biểu tượng dựa trên sự song trùng đặc điểm,
tính chất của tên truyện và tên nhân vật. Cụ thể, nhân vật Điền gắn với tên yêu


13

thương, chở che, trở thành biểu tượng của tác phẩm, sự quy chiếu của các biểu
tượng thành tố lên biểu tượng mang ý trội trong hệ thống. Mối quan hệ giữa Điền và
cánh đồng thể hiện trong hai nét nghĩa. Nghĩa thứ nhất là tình yêu thương. Nghĩa
thứ hai là những khiếm khuyết, né tránh nỗi đau, sự kìm hãm ham muốn thể xác
nhưng thực chất lại ẩn sâu khao khát giữ được giá trị con người, chống lại sự tha
hóa. Cốt truyện phân rã, cốt truyện tâm lí là chủ đạo thể hiện cảm thức lưu lạc của
con người Nam Bộ. Ngôn ngữ gắn liền với cảm xúc, sự hồi nguyên cảm xúc từ lâu
đã lắng đọng trong lòng.

Trong bài báo "Cánh đồng bất tận: Dữ dội và nhân tính", nhà văn Nguyễn Khắc
Phê khẳng định tầm ảnh hưởng của tác phẩm khi tạo nên một làn sóng dư luận sôi
động quanh sự tiếp nhận của văn bản. Nhà văn thành công trong việc tạo nên được
một thế giới nghệ thuật riêng là những cánh đồng và những phận người trôi nổi. Tác
giả đã chạm được vào những tầng vỉa sâu kín của cuộc sống con người, những góc
khuất ít được phơi bày và chú ý.
Trong bài viết “Tìm về với mẹ thiên nhiên: Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc
Tư từ cách nhìn nữ quyền luận sinh thái”, tác giả Phạm Ngọc Lan có những lí giải
mới lạ về hình tượng nhân vật nữ. Tác giả nhìn nhận nhân vật nữ dưới lí thuyết nữ
quyền luận sinh thái, gắn người phụ nữ với các yếu tố thiên nhiên trong tác phẩm
như bầy vịt, dịng sơng, cánh đồng. Các nhân vật nữ được đồng nhất với hình ảnh
mẹ thiên nhiên, bao dung, nhân từ và đầy ắp tình yêu thương. Biểu tượng không
gian chứa đựng người phụ nữ đều là những nơi đáng mơ ước với hai đứa trẻ Nương
và Điền bởi chúng khát khao được nối lại với cuộc sống của con người bình thường.
Bài viết làm nổi bật mối quan hệ của các nhân vật với môi trường tự nhiên đặc biệt
là hình tượng nhân vật nữ gắn với nước và mẹ thiên nhiên.
Trong bài báo khoa học “Biểu tượng cánh đồng trong Cánh đồng bất tận của
Nguyễn Ngọc Tư”, Lê Thị Thùy Vinh phân tích ý nghĩa biểu tượng cánh đồng dựa
trên lí thuyết về biểu tượng. Hình tượng cánh đồng được lí giải qua nhiều tầng ý
nghĩa: mang tính chất não nề, cơ đơn, ẩn dụ cho nỗi đau; chứa đựng nỗi đau của con
người; biểu tượng của tình yêu thương; biểu tượng của niềm thương nỗi nhớ và thời


14

gian. Bài viết phân tích theo quan niệm của kí hiệu học, căn cứ vào hệ thống biểu
đạt trong nội tại tác phẩm để lí giải ý nghĩa của biểu tượng.
Trong "Thân phận các nhân vật chính trong Cánh đồng bất tận nhìn từ lí thuyết
chấn thương", Đặng Hồng Oanh giải thích nỗi đau và lối ứng xử của các nhân vật
chính ơng Vũ, Điền và Nương là sự tái hiện những nỗi đau trong quá khứ. Trong

hành trình bất tận của các nhân vật trên dịng sơng cuộc đời, nỗi đau về sự phản bội
của người mẹ ám ảnh lên suy nghĩ của ba nhân vật. Ông Vũ mang nỗi đau nhuốm
màu phái tính, “cảm giác nhục nhã, ê chề của người đàn ông bị người đàn bà của
anh ta phụ tình" [20]. Nỗi đau của ơng là những uẩn ức chìm sâu giết chết mọi cảm
xúc và khả năng yêu thương. Nhân vật Điền mang nặng tâm lí “hậu chấn thương” tự
trói mình vào cơ đơn, từ bỏ sự phát triển như một con người bình thường. Nương đi
đến tận cùng nỗi đau để chính bản thân mình trải nghiệm nỗi đau trong quá khứ của
người mẹ. Bài báo đã góp phần diễn giải tâm lí, hành vi của nhân vật với sợi dây
liên kết là sự phản bội của người mẹ. Mỗi nhân vật mang trong mình những vết
thương lòng riêng biệt nhưng tất cả đều chung một nguồn gốc là sự phản bội.
Trong bài viết “Biểu đạt giới trong Cánh đồng bất tận và Chúa đất – những gặp gỡ
thú vị”, tác giả Hoàng Đăng Khoa tìm hiểu về điểm giao trong tư tưởng của hai tác
giả khi xây dựng kiểu nhân vật nữ bi kịch. Họ là những người chịu đựng nỗi khổ
của đàn ông. Mà nỗi khổ ấy mặc nhiên không bao giờ được coi là bắt nguồn từ họ.
Người phụ nữ có thiên phú sắc đẹp nhưng không giúp họ vơi bớt khổ đau. Phận
người đàn bà trong “Cánh đồng bất tận” bạc như vôi, đều “đau đớn thay”. Nhân vật
nữ với vẻ đẹp tận thiện, tận mĩ và vẻ đẹp của thiên tính nữ. Bài viết đứng trên lập
trường phân tích theo cảm tính là chủ yếu, chưa dựa trên một lí thuyết văn học cụ
thể nào. Sự khác và giống nhau giữa hai nhân vật nữ thuộc hai nền văn hóa tương
đối khác nhau có thể là sự ngẫu nhiên, tác giả bài viết chưa thể hiện được mối liên
hệ, mạch ngầm kết nối những biểu hiện ấy.
Khóa luận tốt nghiệp đại học của sinh viên Nguyễn Thị Dung, trường Đại học Tây
Bắc: "Phức cảm mẹ trong Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư" nghiên cứu
hình ảnh người mẹ trong việc hình thành nhân vật Điền và Nương từ phương diện
phân tâm học. Hệ thống các chi tiết liên quan đến tính dục chi là yếu tố nền tảng để


15

thực hành lí thuyết nhằm lí giải về tương đồng và khác biệt giữa Nương, Điền và

người mẹ. Mở đầu tác phẩm là nỗi nhớ mênh mang của những đứa trẻ về hình ảnh
người mẹ và kết thúc cũng là những cảm nhận của Nương về mẹ trong quá khứ.
Tưởng tượng về mẹ, về tình yêu xoa dịu tâm hồn của hai đứa trẻ trong cuộc sống
khắc nghiệt với người cha. Tác giả luận văn khẳng định, mạch chính nối kết các
nhân vật là tính dục và đó cũng là nguồn gốc lí giải tâm lí, hành vi và ý nghĩa của
hình tượng nhân vật.
Tóm lại, nhân vật nữ trong “Cánh đồng bất tận” là một vấn đề văn học được nhiều
tác giả quan tâm. Trong đó, nhân vật người phụ nữ được khai thác chủ yếu trong
niềm bi kịch về hạnh phúc. Các nghiên cứu đã lí giải mối quan hệ giữa tính cách
nhân vật đến hành động, lời nói bằng nhiều lí thuyết khác nhau, như khía cạnh tơn
giáo, phê bình sinh thái, phê bình giới… tạo nên môi trường diễn giải phong phú, đa
dạng về ý nghĩa. Các nghiên cứu đa số hướng đến ý nghĩa bi kịch cô đơn của người
phụ nữ từ nguyên nhân là người đàn ông. Phương pháp của các tác giả chủ yếu là
phân tích, hệ thống chi tiết có liên quan đến nhân vật và khái quát thành đặc điểm
của nhân vật ấy. Luận văn tiếp tục phát triển kết quả của các nghiên cứu trước về
nội dung nhân vật là bi kịch tình u và nỗi cơ đơn nhưng theo một hướng diễn giải
mới. Nhân vật nữ cần được đặt trong hệ thống các chi tiết có cấu trúc tương tự ở các
nhân vật khác để tạo nên ý nghĩa. Nội dung được sản xuất dựa trên mối quan hệ
tương đồng và khác biệt giữa nhân vật nữ và các nhân vật cùng hệ thống. Với
phương pháp diễn giải mới, diễn giải về trình hiện nhân vật nữ trở nên phong phú
hơn, tiếp nối và đối thoại với các kết quả nghiên cứu trước đó.
2.2. Những tài liệu liên quan đến phê bình điện ảnh Cánh đồng bất tận
2.2.1. Những phê bình điện ảnh trong nước
Bộ phim “Cánh đồng bất tận” được đạo diễn Nguyễn Phan Quang Bình khởi quay
từ tháng 11 năm 2009 và công chiếu vào tháng 10 năm 2010 dựa trên truyện ngắn
cùng tên của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư. Bộ phim nhận được nhiều giải thưởng nghệ
thuật về điện ảnh như giải Cánh diều vàng cho nhiều hạng mục: nữ diễn viên chính
xuất sắc, nam phụ xuất sắc, nhạc phim xuất sắc, phim truyện nhựa và giải thưởng do



16

báo chí bình chọn. Những giải thưởng ấy cũng phần nào phản ánh được thành công
của bộ phim đối với khán giả trong nước. Đó là tiền đề tìm hiểu dư luận xoay quanh
bộ phim, những ý kiến đánh giá của người có chun mơn và người trực tiếp tham
gia quá trình làm phim.
Trong bài báo “Mỗi người một Cánh đồng bất tận đăng trên tuoitre.vn ngày
27/10/2010, tác giả Phạm Xuân Nguyên nhận xét phim “Cánh đồng bất tận” là sự
chuyển thể khá tốt tác phẩm gốc theo đúng công thức làm phim của Hollywood. Bài
báo đề cập đến doanh thu ấn tượng của bộ phim trong bốn ngày đầu cơng chiếu là
3,8 tỷ đồng. Đó là con số đáng ngưỡng mộ cho dòng phim điện ảnh chiếu rạp lúc
bấy giờ.
Bên cạnh những thành công, tác giả cũng chỉ ra hạn chế của phim khi có những
đoạn chưa bám sát nguyên tác và kết thúc phim khiên cưỡng. Hình ảnh của phim
đẹp nhưng quá nhiều, trôi qua trong đầu khán giả mà không thật ấn tượng, chưa đạt
được một ý nghĩa biểu tượng cụ thể nào. Tác giả Phạm Xuân Nguyên chỉ ra sự hấp
dẫn của bộ phim đến từ ảnh hưởng của tác phẩm gốc và dàn diễn viên tài năng chứ
chưa thực sự đến từ nghệ thuật quay phim. Theo ông, cảnh quay tốt nhất là khi
Nương bị hiếp đầy gợi cảm nhưng vẫn đúng mực, vừa phải. Đánh giá của bài báo
phần nào cho thấy cách nhìn nhận của cơng chúng đối với hình tượng người phụ nữ
nói riêng là Nương và những yếu tố đáng chú ý mà bộ phim mang lại.
Bài viết “Hành trình mênh mang của Cánh đồng bất tận” đăng trên vnexpress.vn
27/10/2010, tác giả Nguyên Minh đã tóm tắt lại mạch truyện trong phim đồng thời
có những nhận xét xác đáng trong diễn xuất của các nhân vật. Nhân vật Nương là cô
gái ăn sương có tâm hồn thanh cao nhưng giọng địa phương của diễn viên Hải Yến
chưa phù hợp với nhân vật Sương. Thành công nhất là nhân vật Nương với nét diễn
tự nhiên, mộc mạc. Bài viết cũng so sánh một số chi tiết chưa khớp hoặc chưa đạt
được độ biểu cảm như nguyên tác như cảnh Sương cùng ông Vũ quan hệ thân xác,
Sương lựa chọn ra đi.



17

2.2.2. Những bài viết phê bình điện ảnh quốc tế
Bộ phim “Cánh đồng bất tận” được công chiếu vào năm 2010 và tạo được tiếng
vang trong cộng đồng phê bình điện ảnh trên thế giới. Phim được công chiếu tại
nước ngồi dưới tên khác “Floating Lives” (Những cuộc đời trơi nổi). Nhiều trang
web nổi tiếng về phim như IMDb, Asianonfilm, Hollywood… đăng tải bài viết đánh
giá về nội dung và nghệ thuật quay phim của đạo diễn Nguyễn Phan Quang Bình.
Trong đó có nhiều ý kiến đáng chú ý về sự phát hiện điểm sáng trong tác phẩm điện
ảnh này. Mặc dù những nhà phê bình ngoại quốc này có thể chưa từng tiếp xúc với
tác phẩm nguồn, đối tượng của họ chủ yếu là tác phẩm điện ảnh nhưng đánh giá của
họ rất cụ thể, chất lượng và khách quan.
Mục Film Review của trang Hollywoodreporter nhận xét “Floating Lives” là một bộ
phim cuốn hút về đề tài những người nông dân du cư ở vùng đồng bằng châu thổ
sông Mê Kơng. Bộ phim chú ý khai thác hai khía cạnh là nỗi đau khổ, bất hạnh của
con người và niềm hạnh phúc, hi vọng nhỏ nhoi thoáng qua trong cuộc đời các nhân
vật. Bài viết đánh giá cao cách kể chuyện sáng tạo lồng ghép giữa hiện thực và quá
khứ của đạo diễn. Đồng thời điểm sáng đáng chú ý là sự phát hiện trong những hình
ảnh biểu tượng về tuổi dậy thì mà Sương đã chỉ cho Nương. “Nhân vật chính là hai
người phụ nữ gắn bó với nhau vượt lên cả huyết thống để trao cho nhau tình yêu
thương và niềm hi vọng về hạnh phúc giản đơn” [33].
Bài đánh giá của trang Asianonfilm đánh giá cao “Floating Lives” trong phần xử lí
hình ảnh và nhạc điệu gợi nên cuộc sống chân thực của con người vùng nông thôn
sông Mê Kông. Diễn xuất tinh tế của diễn viên đã mang lại sức sống cho nhân vật,
đặc biệt là Đỗ Thị Hải Yến thể hiện nhân vật Sương vừa mạnh mẽ nhưng cũng rất
yếu đuối khi mang trong mình thân phận của cơ gái điếm. Bài viết chú ý đến hai chi
tiết khi Vũ trả tiền cho Nương trước mặt những đứa trẻ và cảnh Sương nhiều lần
ngoái lại mong chờ sự níu kéo từ Vũ khi cơ phải đi làm “nhiệm vụ” của mình. Đó là
hai khoảnh khắc mà người phụ nữ mạnh mẽ ấy từ bỏ mọi hi vọng về cuộc sống bình

thường mà cơ mơ ước trở về. Bài viết cũng thể hiện điểm nhìn tinh tế về nhân vật
Vũ, ông là người đàn ông đáng thương hơn đáng giận bởi trong con người ông có
sự đấu tranh để thay đổi, cũng từng mơ ước về hạnh phúc, sự tử tế và tình yêu.


18

Nhưng tất cả đã bị nỗi cay đắng nhấn chìm vì cuộc đời ơng bị ruồng rẫy bởi hai
người phụ nữ là vợ và sau đó là Sương.
Trong phần giới thiệu phim trên kênh đánh giá phim quốc tế IMDb, Nguyễn Phan
Quang Bình tự viết lời giới thiệu cho tác phẩm của mình. Bộ phim được đánh giá
7.1/10 với 281 lượt đánh giá tính đến ngày 2/10/2019. Tác giả khẳng định bộ phim
mang hơi hướng hiện đại với những mối quan hệ phức tạp về tình cảm vợ chồng,
dục vọng, mối quan hệ cha con, chị em. Đó là câu chuyện về một gia đình như bao
gia đình khác tìm kiếm lại sức mạnh và phương hướng những điều mà con người
cần thiết để tồn tại. Với lời giới thiệu như vậy, rõ ràng tác giả đang muốn người đọc
hướng tới không chỉ tri nhận bộ phim như thước phim tài liệu về cuộc sống nông
thôn Tây Nam Bộ mà còn là những giá trị nhân văn, giá trị khái quát triết học về sự
tồn tại của con người.
Các bài báo, phỏng vấn về bộ phim “Cánh đồng bất tận” lại được nhiều phản hồi tốt
từ phía khán giả. Bộ phim được đánh giá là vẫn giữ khá trọn vẹn tinh thần của văn
bản nguồn - truyện ngắn cùng tên của tác giả Nguyễn Ngọc Tư. Các diễn viên được
lựa chọn kĩ lưỡng và đủ kĩ năng để thấu hiểu và trình hiện được nhân vật của mình.
Tóm lại, các bài biết đánh giá về phim điện ảnh “Cánh đồng bất tận” chỉ dừng lại ở
mức độ cảm nhận, đánh giá chủ quan, chưa có cơ sở từ lí thuyết phân tích trình hiện
trong văn bản điện ảnh. Các tác giả chưa làm rõ được sự khác biệt trong tinh thần
của văn bản điện ảnh so với tác phẩm nguồn là truyện ngắn “Cánh đồng bất tận”.
Từ cơ sở đó, người viết làm rõ trong luận văn mối quan hệ của kí hiệu trình hiện
người phụ nữ trong hai tác phẩm truyện ngắn và điện ảnh “Cánh đồng bất tận” bằng
phương pháp phân tích sự trình hiện của Stuart Hall. Các cảnh quay về người phụ

nữ cần được đặt song hành để làm rõ mối quan hệ đối lập hay tương đồng. Trình tự
kể chuyện của phim có nhiều thay đổi so với tác phẩm nguồn và trường đoạn cảnh
quay kết phim là một sáng tạo lớn. Điều đó chứng tỏ điện ảnh không phải là “bản
sao trung thành của văn học”. Nên người viết không đồng ý với ý kiến của tác giả
Phạm Xuân Nguyên và Nguyên Minh vì “Không thể xem tác phẩm điện ảnh cải
biên thuộc hàng hai bởi ngay chính bản thân tác phẩm văn học mà nó cải biên
khơng phải là tác phẩm gốc mà là cải biên, chuyển vị từ vô số hệ thống kí hiệu


19

khác” [17, tr.34]. Kí hiệu về người phụ nữ cần được đặt trong sự đối sánh giữa chất
liệu ngôn từ và hình ảnh để khám phá những ý nghĩa mới chứ khơng phải phán xét
về tính trung thành.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn là phân tích ý nghĩa của sự trình hiện nhân vật
nhân vật nữ trong tác phẩm truyện ngắn “Cánh đồng bất tận” và phim điện ảnh
“Cánh đồng bất tận”, vận dụng các phương pháp phân tích sự trình hiện bằng
phương pháp kí hiệu học để phân tích các tầng ý nghĩa. Thơng qua đó, người viết đề
xuất một cách đọc mới về sự thể hiện nhân vật so với các nghiên cứu trước đó.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là sự trình hiện về người phụ nữ trong truyện
ngắn “Cánh đồng bất tận” của Nguyễn Ngọc Tư và tác phẩm điện ảnh được cải
biên từ truyện ngắn cùng tên của đạo diễn Nguyễn Phan Quang Bình. Phạm vi
nghiên cứu là chi tiết miêu tả ngoại hình, hành động, trạng thái, khơng gian, màu
sắc… là yếu tố để tạo nên sự trình hiện của các nhân vật nữ và tìm hiểu mối tương
quan giữa những chi tiết ấy. Dữ liệu nghiên cứu của luận văn là tác phẩm truyện
ngắn “Cánh đồng bất tận” là truyện ngắn cuối cùng trong tập truyện ngắn gồm 14
truyện của tác giả Nguyễn Ngọc Tư, được nhà xuất bản Trẻ phát hành năm 2014.
Về tác phẩm điện ảnh, tôi chủ yếu dựa vào bản điện ảnh “Cánh đồng bất tận” do

Vietnam Studio Mega Media sản xuất, hãng Vietnam Media Corporationphát hành
ngày 22 tháng 10 năm 2010.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp cơ bản của luận văn là phương pháp phân tích sự trình hiện nhân vật
trong các kiểu loại văn bản của Stuart Hall theo phương pháp kí hiệu học. Phù hợp
với đối tượng nghiên cứu là nhân vật trong văn bản văn học và văn bản điện ảnh,
các khái niệm công cụ phục vụ cho nghiên cứu này là kí hiệu. Người viết sẽ phân
tích mối quan hệ trong hệ thống kí hiệu nội tại của tác phẩm để diễn giải ý nghĩa đối
tượng là sự trình hiện về người phụ nữ.


20

6. Những đóng góp của luận văn
Về mặt lí thuyết, luận văn giới thiệu về lí thuyết trình hiện của Stuart Hall với bản
chất của sự trình hiện và cách thức để tạo nên sự trình hiện trên các phương tiện
truyền thông. Đây là hướng nghiên cứu triển vọng nối kết được hình ảnh văn hóa
trên các ấn phẩm truyền thơng với văn hóa để khám phá nhiều hơn ý nghĩa trong tác
phẩm.
Về mặt thực hành, luận văn đóng góp về sự thực hành phương pháp diễn giải trình
hiện nhân vật nữ bằng phương pháp phân tích sự trình hiện của Stuart Hall. Bài viết
thể hiện các tầng ý nghĩa văn hóa trong cách trình hiện nhân vật nữ từ văn học đến
điện ảnh thông qua cách hệ thống và phân tích kí hiệu nghệ thuật đặc thù. Phương
pháp phân tích giúp mở rộng thơng điệp của văn bản, mở ra nhiều hướng phát triển
và cải biên cho các văn bản nguồn là tác phẩm văn chương.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn gồm có ba chương:
Chương 1: Khái niệm sự trình hiện của Stuart Hall và phương pháp phân tích sự
trình hiện trong các loại văn bản. Đây là chương có ý nghĩa trình bày khái niệm sự
trình hiện và những khái niệm cơng cụ, phương pháp thực hành sự trình hiện của

Stuart Hall trong các loại văn bản khác nhau. Người viết trình bày những khái niệm
cơ bản trong phân tích điện ảnh. Cơ sở diễn giải ý nghĩa là hệ thống kí hiệu của văn
bản.
Chương 2: Sự trình hiện nhân vật người phụ nữ trong truyện ngắn “Cánh đồng bất
tận”. Đây là chương phân tích sự trình hiện về nhân vật nữ trong tác phẩm truyện
ngắn “Cánh đồng bất tận” của Nguyễn Ngọc Tư qua hệ thống kí hiệu nụ cười và
nước mắt. Nội dung chương không chỉ tái hiện, sắp xếp, phân loại kí hiệu về những
nhân vật nữ mà phân tích để hiểu được ý nghĩa, thơng điệp tác giả gửi gắm qua
nhân vật. Đồng thời, ý nghĩa tự thân của nhân vật cũng được bộc lộ trong hệ thống
tương đồng và đối lập kí hiệu với các nhân vật khác.


21

Chương 3: Sự trình hiện nhân vật nữ trong phim điện ảnh “Cánh đồng bất tận”. Đây
là chương phân tích sự trình hiện về nhân vật nữ trong bản cải biên điện ảnh “Cánh
đồng bất tận” của đạo diễn Nguyễn Phan Quang Bình qua hệ thống kí hiệu khơng
gian con thuyền và cánh đồng. Nội dung chương miêu tả lại cách hình dung của
người đạo diễn, biên kịch và diễn viên về nhân vật người phụ nữ. Đây là bộ phim
nặng về tâm lí các cảnh quay nhân vật gắn liền với yếu tố khơng gian. Khung hình
xuất hiện nhân vật nữ đặt trong quan hệ song hành hoặc nối tiếp để khái quát sự
phản chiếu ý nghĩa trong tương quan với không gian và các nhân vật khác.


22

Chương 1: Khái niệm sự trình hiện của Stuart Hall và phương pháp
phân tích sự trình hiện trong các loại văn bản
1.1. Khái niệm sự trình hiện
1.1.1. Cơng cụ phân tích sự trình hiện

Sự trình hiện (representation) là khái niệm chủ chốt trong nghiên cứu của văn hóa
(cultural studies). Mối quan hệ giữa sự trình hiện với nền văn hóa được làm rõ trong
chương 1 và chương 4 của nghiên cứu Representation: Cutural Representation and
signifying practices (Sự trình hiện: Trình hiện văn hóa và thực hành biểu đạt) của
tác giả người Anh – Stuart Hall.
Sự trình hiện là một quá trình tạo nên ý nghĩa và truyền tải những ý nghĩa ấy giữa
các thành viên trong một nền văn hóa. Sự trình hiện là một quá trình nối kết ba yếu
tố: ngơn ngữ, ý nghĩa và văn hóa. “Sự trình hiện là một phần thiết yếu của quá trình
sản xuất và trao đổi ý nghĩa giữa các thành viên của một nền văn hóa. Q trình ấy
bao gồm việc sử dụng ngơn ngữ, kí hiệu và hình ảnh để đại diện hay thể hiện”
(Representation is an essential part of the process by which meaning is produce and
exchanged between members of a culture. It does involve the use of language, of
sign and images which stand for or represent) [34, tr.1]. Sự trình hiện sử dụng chất
liệu là ngơn ngữ để gợi nên những khái niệm đã tồn tại trong đầu người bản ngữ. Sự
trình hiện nốt kết kinh nghiệm của cá nhân đến những trải nghiệm thực tiễn để nhận
thức về thế giới. Văn chương trình hiện đối tượng bằng chất liệu ngơn từ, xâm nhập
vào trí tưởng tượng của ta để tạo nên một khái niệm về đối tượng. Điện ảnh khiến ta
phải trải nghiệm nhiều thực tại bằng sự kết hợp thính giác, thị giác. Sự trình hiện
trên nhiều chất liệu văn bản khiến đời sống tinh thần của con người thêm phong
phú, giàu trải nghiệm, liên tưởng. Dù ta chưa bao giờ gặp được một nhân vật nào
giống với tác phẩm văn học hay tác phẩm điện ảnh trong đời thực nhưng ta vẫn có
thể đồng cảm, suy nghĩ cùng của họ. Những ấn tượng ấy chính là kết quả của sự
trình hiện trên các sáng tác nghệ thuật.
Trong thực tế, quá trình ấy diễn ra phức tạp hơn thế, sự trình hiện có thể được lí giải
theo ba hướng lí thuyết. Thuyết thứ nhất là thuyết phản ánh – reflective, là khi ta


23

dùng ngôn ngữ để tái hiện lại một thế giới đã có sẵn, tồn tại khách quan. Thế giới ấy

khơng bị chi phối bởi suy nghĩ chủ quan của con người. Lí thuyết này giống như sự
vận hành của chiếc gương phẳng, bất cứ thứ gì được phản chiếu mang tính khách
quan và trung thực. Lí thuyết thứ hai là thuyết mục đích– intentional, hướng lí
thuyết này khơng quan tâm đến chất liệu và hình thức tạo nên quá trình mà hướng
đến mục đích của người nói, hay người sáng tạo. Cách diễn giải sự trình hiện theo
hướng lí thuyết này bị chi phối chủ yếu bởi tính chủ quan tuyệt đối của tác giả, hạn
chế khả năng can thiệp vào ý nghĩa của người đọc. Hướng lí thuyết thứ ba là thuyết
kiến tạo - contructionist, cho rằng cấu trúc của ngôn ngữ tạo nên ý nghĩa. Trong
nghiên cứu này, tơi lựa chọn theo hướng lí thuyết cấu trúc luận, cũng là hướng
nghiên cứu chủ yếu của Stuart Hall trong tồn bộ cuốn sách của ơng.
Thuyết kiến tạo về sự trình hiện gồm hai mơ hình nghiên cứu sự trình hiện là: mơ
hình theo phương pháp kí hiệu học với đại diện là Ferdinand de Saussure và mơ
hình diễn ngơn với đại diện là Michel Foucault. Trong cơng trình nghiên cứu của
Hall, ơng lựa chọn diễn giải sự trình hiện bằng cả hai mơ hình để cơng chúng có
nhiều cơ hội thể hiện cách hiểu của mình về lĩnh vực phân tích khác nhau. Tuy
nhiên, trong dung lượng có hạn của nghiên cứu, người viết tập trung vào mơ hình
thứ nhất của Saussure với nền tảng là nghiên cứu kí hiệu học.
1.1.1.1. Bản chất của sự trình hiện
Sự trình hiện được định nghĩa theo “Shorter Oxford English Dictionary” gồm hai
cấp độ. Ở cấp độ thứ nhất, sự trình hiện là sự mơ phỏng lại những gì được gợi lên
trong tâm trí của người nói – mental representation. Đối tượng được trình hiện có
thể rất cụ thể, tồn tại trong thế giới thực, trong khoảng thời gian đang được nhắc
đến. Nhưng đối tượng cũng có thể là những điều trừu tượng, mơ hồ, dự đốn. Ở cấp
độ thứ hai, sự trình hiện có khả năng đại diện, biểu tượng cho một ý nghĩa cố định
nào đó. Sự trình hiện ấy phải được đặt trong khơng gian văn hóa. Ví dụ, trong một
triển lãm nghệ thuật đa quốc gia, chiếc áo dài là biểu tượng cho trang phục truyền
thống người phụ nữ Việt Nam. Hay trong trường phổ thông, áo dài trắng là biểu
tượng trang phục của nữ sinh.



24

Sự trình hiện là tất cả những gì được gợi lên bằng hình ảnh, khái niệm trong tâm trí
con người khi ta tiếp xúc với một dấu hiệu của vật đó. “Sự trình hiện là q trình
tạo nên ý nghĩa của khái niệm trong tinh thần thông qua ngôn ngữ”
(Representation is the produce of the meaning of the concept in our minds through
language) [34, tr.2]. Những khái niệm đã tồn tại sẵn trong đầu óc của mỗi cá nhân
nên khi nhắc đến những dấu hiệu quen thuộc, ta vẫn nhận ra người đối thoại đang
miêu tả điều gì. Trong bài viết, Stuart Hall dùng ví dụ về cái cây. Khi ta nhìn thấy
cái cây, khái niệm về cái cây được lưu trữ trong tâm trí ta. Dù sau đó, khơng nhìn
thấy cái cây trong thực tế nữa nhưng khi nhắc đến khái niệm “cây”, trong đầu ta lập
tức hiện lên hình ảnh một thực thể có thân gỗ lớn, được bao quanh trên cao bằng
những tán lá xòe rộng xung quanh. Tất nhiên, cây trong cuộc sống có rất nhiều loại
và khơng phải cây nào cũng là thân gỗ, có cây thân leo, thân trữ nước, thân mềm…
Nhưng trong tâm trí ta sẽ thường hình dung về một cái cây tiêu biểu nhất, đại diện
cho tất cả các loại cây. Vậy ấn tượng hiện lên trong đầu ta chính là yếu tố của sự
trình hiện.
Khái niệm cơng cụ để phân tích sự trình hiện là kí hiệu (sign). Sự trình hiện là quá
trình nối kết các yếu tố khái niệm thuộc một nền văn hóa trong hệ thống kí hiệu để
thể hiện một ý nghĩa nào đó. Ý nghĩa của sự trình hiện khơng phụ thuộc hồn tồn
vào ý niệm của tác giả. Sự trình hiện phải được tạo nên từ những khái niệm về ý
nghĩa đã tồn tại trước trong đầu những người bản xứ. Vì thế, sự trình hiện phải được
nối kết giữa khái niệm và ngôn ngữ để đại diện cho thế giới khách quan và chủ quan
của con người.
1.1.1.2. Khái niệm cơng cụ phân tích sự trình hiện
Kí hiệu là cơng cụ chủ yếu trong tiến trình phân tích sự trình hiện. Nhưng để tạo
nên một hệ thống kí hiệu tồn vẹn và thống nhất, có thể vận hành trong đời sống xã
hội thì kí hiệu ấy phải chịu sự chi phối của nhiều yếu tố. Trong đó, mật thiết nhất để
tạo nên một kí hiệu là bản đồ khái niệm (conceptual maps) và ý nghĩa (meanings).



25

 Bản đồ khái niệm
Yếu tố đầu tiên là khái niệm (concept), đây là yếu tố sinh ra từ tính chất võ đốn
của văn hóa và ngơn ngữ. “Khái niệm được sinh ra trong cấu trúc của tâm trí như
một hệ thống trình hiện trong tâm trí với cách sắp đặt và tổ chức thế giới trong ý
nghĩa của nó” (The concepts which are formed in the mind function as a system of
mental representation which classifies and organizes the word into meaningful
categories) [34, tr.14]. Có khái niệm về thế giới, con người mới có thể nói ra những
điều có ý nghĩa. Nhưng nó khơng thể vận hành được nếu thiếu đi phương tiện để
giao tiếp với người khác là ngôn ngữ - chất liệu của kí hiệu.
Bản đồ khái niệm (conceptual maps) là một “danh sách” tổng hợp những hiểu biết,
hình dung của người bản xứ về đối tượng. Đó là sự trình hiện tự nhiên trong tâm trí
con người. Mỗi khi tiếp xúc với một đối tượng, sự kiện trong cuộc sống thực, con
người thường “dán nhãn” để phân biệt chúng với những đối tượng khác. Và mỗi khi
từ ngữ được nhắc lại, hình ảnh về vật thể ấy lại được tái hiện sống động trong tâm
trí ta. Sự tích lũy về khái niệm khơng ngừng tăng lên nhờ trải nghiệm của con người
với cuộc sống khách quan. Những thành viên trong cùng một nền văn hóa sẽ có thể
giao tiếp với nhau dựa trên sự tương đồng về bản đồ khái niệm ấy. Giới hạn của bản
đồ khái niệm không chỉ dừng lại trong đối tượng ở thực tại mà còn thể hiện những
điều trừu tượng hay thế giới giả tưởng. Bản đồ khái niệm mang tính cộng đồng, ý
nghĩa được thiết lập bằng sự võ đoán của ngơn ngữ. Văn hóa được xác định trong
q trình những thành viên cùng chia sẻ với nhau bản đồ khái niệm trong giao tiếp,
sáng tác để truyền tải suy nghĩ, cảm xúc, quan niệm cá nhân.
 Kí hiệu
Yếu tố thứ hai là kí hiệu (sign). “Kí hiệu được tổ chức trong ngơn ngữ và chính sự
hiện hữu của ngơn ngữ chung là điều cho phép chúng ta phiên dịch suy nghĩ (khái
niệm) thành từ ngữ, âm thanh hay hình ảnh, sau đó việc sử dụng những yếu tố này,
vận hành như một ngôn ngữ, để thể hiện ý nghĩa và truyền đạt suy nghĩ với những

người khác.” (Sign are organized into language and it is the existence of common
languages which enable us to translate our thoughts (concepts) into words, sounds


×