Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Tải Top 7 mẫu cảm nhận về bài thơ Nhàn hay nhất - HoaTieu.vn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (447.9 KB, 14 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

a) Mở bài


- Giới thiệu tác giả, tác phẩm:


+ Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585) là một nhà thơ lớn của dân tộc thế kỉ XVI sống
trong xã hội đầy bất công, luôn suy nghĩ, trăn trở về cuộc sống con người và quyết
cầm bút lên để chiến đấu với gian tà.


+ Bài thơ Nhàn là một trong những bài thơ nổi tiếng của Nguyễn Bỉnh Khiêm thể hiện
rõ vẻ đẹp cuộc sống và vẻ đẹp nhân cách cũng như quan niệm sống của tác giả.


b) Thân bài


* Khái quát về bài thơ


- Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ là bài số 73 trong tập thơ Nôm “Bạch Vân Quốc ngữ
thi” ra đời sau khi tác giả cáo quan về ở ẩn.


- Giá trị nội dung: Bài thơ là lời tâm sự thâm trầm, sâu sắc, khẳng định quan niệm
sống nhàn là hòa hợp với thiên nhiên, coi thường danh lợi, luôn giữ cốt cách thanh
cao trong mọi hồn cảnh của cuộc sống.


* Phân tích hai câu đề: Hoàn cảnh sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm
“Một mai, một cuốc, một cần câu


Thơ thẩn dầu ai vui thú nào”


- điệp số từ "một" : một mình, lẻ loi


- mai, cuốc, cần câu : những vật dụng quen thuộc, đơn giản, thô sơ của người dân lao
động dùng để đào đất, xới đất, câu cá.



-> Hình ảnh người nơng dân đang điểm lại cơng cụ làm việc của mình và mọi thứ đã
sẵn sàng, dù một mình nhưng tác giả vẫn vui tươi.


- “Thơ thẩn” : ung dung, tự tại, chăm chú, tỉ mẩn
- “dầu ai” : mặc cho ai


-> Sự khác biệt trong sở thích, lối sống của tác giả: Mặc cho ai có cách vui thú nào, ta
cứ thơ thẩn giữa cuộc đời này, sống theo cách riêng của ta, ung dung, thảnh thơi.
=> Cụ Trạng trở về sống giữa chốn thơn q để hịa hợp với tự nhiên như một lão
nơng chi điền nghèo khó nhưng an nhàn, thanh bình.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Người khơn, người đến chốn lao xao"


- Nghệ thuật đối: "ta" với "người", "khôn" với "dại", "vắng vẻ" với "lao xao" -> sự đối
lập về cách chọn nơi sống, niềm vui của Nguyễn Bỉnh Khiêm với người đời


+ “Nơi vắng vẻ” : nơi tĩnh tại của thiên nhiên, nơi tâm hồn tìm thấy sự thảnh thơi.
+ “Chốn lao xao” : nơi quan trường, chốn giành giật tư lợi, sang trọng, tấp nập ngựa
xe, quyền quý, kẻ hầu người hạ, bon chen, luồn lọt, hãm hại nhau.


-> Ơng tự nhận mình là dại, cho người là khơn nhưng thực chất đó là cách nói ngược,
hàm ý


-> Theo tác giả, dại thực chất là khôn bởi ở nơi quê mùa con người mới được sống an
nhiên, thanh thản. Khôn thực chất là dại bởi chốn quan trường con người khơng được
sống là chính mình.


=> Cách nói ngầm dại khơn của Nguyễn Bỉnh Khiêm xuất phát từ trí tuệ, thể hiện sự
tự tin đầy bản lĩnh của Nguyễn Bỉnh Khiêm.



=> Quan niệm sống “lánh đục tìm trong”.


* Phân tích hai câu luận: Cuộc sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm ở chốn quê nhà
"Thu ăn măng trúc đông ăn giá


Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao"


- "măng trúc", "giá" : những thức ăn "cây nhà lá vườn" dân dã quen thuộc do chính
tác giả làm ra.


- "tắm hồ sen", "tắm ao" : tác giả cũng tắm hồ, tắm ao như bao người dân quê.


-> Sự giản dị, đạm bạc trong ăn uống và sinh hoạt, có sự gắn bó, hịa quyện giữa con
người với thiên nhiên.


- Sự xuất hiện của bốn mùa: xn, hạ, thu, đơng


=> Sự hài lịng với cuộc sống giản dị, đạm bạc mà thanh cao, tự do, thoải mái, hòa
quyện với thiên nhiên suốt 4 mùa của tác giả.


* Phân tích hai câu kết: Triết lí sống nhàn
"Rượu đến gốc cây, ta sẽ nhắp


Nhìn xem phú q, tựa chiêm bao"


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

- “nhìn xem” : một thế đứng cao hơn, dường như đã tiên liệu ngay từ khi chọn lối
sống của một người tự cho mình là “dại” -> Cái nhìn của một bậc đại nhân đại trí, ơng
nhìn phú q bằng ánh mắt coi thường, khinh bỉ, không đáng để ông suy nghĩ, bận
tâm tới.



=> Tác giả tìm đến rượu để say để chiêm bao và để nhận ra rằng cuộc sống công danh
phú quý chỉ như một giấc mơ dưới gốc cây hòe thoảng qua vơ nghĩa, cái vĩnh hằng
bất biến cịn mãi với thời gian là chính là vẻ đẹp thiên nhiên và vẻ đẹp nhân cách của
con người.


=> Quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm là sống hòa hợp với thiên nhiên,
xa lánh những vinh hoa quyền quý thoát khỏi vòng danh lợi với tâm hồn thanh thản,
thư thái.


* Đặc sắc nghệ thuật:


- Thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật
- Ngơn ngữ giản dị hàm súc giàu tính triết lí
- Cách ngắt nhịp linh hoạt độc đáo


- Nghệ thuật đối, điệp, liệt kê, từ láy
- Sử dụng điển tích điển cố


- Cách nói ngược nghĩa đùa vui hóm hỉnh.
c) Kết bài


- Khái quát giá trị nội dung bài thơ Nhàn
- Nêu cảm nhận của em về bài thơ.
<b>2. Cảm nhận bài thơ Nhàn mẫu 1</b>


Có thể nói rằng với bài thơ Nhàn được sáng tác trong hoàn cảnh tác giả về quê ở ẩn.
Chữ “nhàn” của tác giả Nguyễn Bỉnh Khiêm đã thể hiện được thái độ sống, một triết
lí sống của tác giả được bộc lộ rõ ràng rất. Với bài thơ mang bốn triết lí sâu sắc gói
gọn trong chữ “nhàn” lúc này đây dường như cũng đã được phân chia bố cục chặt chẽ.


Mở đầu bài thơ tác giả viết một câu kể như sau:


Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dàu ai vui thú nào


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

rất đỗi quen thuộc mang bóng dáng nhà nơng cứ vơ cùng chân chất vừa mang bóng
dáng của một tao nhân mặc khách vậy. Khơng cần nói nhiều mà chỉ cần vậy thơi là
chúng ta cũng hồn tồn có thể cảm nhận được đây chính là cuộc sống nhàn nhã của
nhân vật trữ tình. Khi được kết hợp với điệp ngữ sử dụng đó là từ “một” là từ láy “thơ
thẩn” tất cả miêu tả được trạng thái của tác giả. Chính với dáng người ung dung thoải
mái, thêm vào đó là một trạng thái tâm hồn thanh nhàn an nhiên khơng vướng bận
chút bụi trần.


Có thể nhận thấy được câu thơ như một lời thách thức của tác giả đối với người đời,
và cho dù ai vui thú nào đi chăng nữa thì ta đây vẫn vui thú an nhàn, vui cuộc sống
thôn quê nhất. Cũng chính từ những lời thách thức đó dường như cũng đã ại toát lên
được phong thái thật thanh thản trong tâm hồn và thật vui thứ điền viên của một lão
nông.


Khi đọc đến với hai câu thực tiếp theo đã khái qt chân dung nhân vật trữ tình và
triết lí “nhàn” của thi nhân đã thể hiện qua câu:


Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ


Người khơn người đến chốn lao xao


Khơng khó khi nhận thấy được sự đối lập giữa các nhân vật trong hai câu thơ thể hiện
đó chính là “nơi vắng vẻ” và chốn quê thật thanh bình vô cùng ăn nhà và vô lo vô
nghĩ. Thực sự đó chính là tâm hồn của con người ln ln hòa nhập cùng với thiên
nhiên. Đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm thì “Chốn lao xao” cũng được ám chỉ đến nơi


quan trường với những vòng danh lợi, ghen ghét và sự đố kỵ nữa. Và phải chăng tác
giả “dại” cho nên ơng mới tìm nơi thơn q, cịn người đời “khơn” tìm đến chốn quan
trường. Thế nhưng thực chất ngược lại, xét trong câu thơ, “dại” có nghĩa là khơn, và
từ “khơn” có nghĩa là dại. Người đọc có thể nhận thấy được chính lối nói ngược mang
ý nghĩa mỉa mai: người khôn mà chọn chốn lao xao đầy rẫy những tham lam, dục
vọng, luôn luôn phải suy nghĩ đắn đo, và ta như cảm nhận thấy được như thế liệu có
sung sướng? Người đọc có thể nhận thấy được chính với phép đối hai câu thơ thực
mang nghĩ mỉa mai chế giễu lũ người kia chỉ biết lao đầu vào tham vọng, chính vào
vịng danh lợi. Cịn đối với tác giả Nguyễn Bỉnh Khiêm ông dường như cũng đã phủ
nhận vòng danh lợi ấy bằng cách thể hiện quan điểm, khí chất thanh cao trong sạch.
Bài thơ “Nhàn” ở đây chính là cuộc sống thanh cao, tránh xa vịng danh lợi.


Không những tác giả Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng luôn luôn chọn cuộc sống thanh cao,
tránh xa tham vọng, tác giả cũng lại còn hòa nhập với thiên nhiên. Khi đọc đến hai
câu luận cũng đã gợi mở cho người đọc về một cuộc sống vơ cùng bình dị của nhân
vật trữ tình.


Thu ăn măng trúc đơng ăn giá
Xn tắm hồ sen hạ tắm ao


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao


Câu thơ như đã phác họa hình ảnh quen thuộc ở làng quê, lối sinh hoạt dân dã. Khi trở
về với thiên nhiên trở về với làng xóm. Tác giả Nguyễn Bỉnh Khiêm thực sự hịa
mình với thơn quê thuần hậu, người đọc có thể nhận thấy được cuộc sống thanh đạm,
một cuộc sống dường như cũng đã mang lại thú vui an nhàn, thảnh thơi mùa nào thức
đấy. Thực sự đó là một cuộc sống được nhiều người ngưỡng mộ mà chẳng mấy ai có
được. Người đọc có thể nhận thấy được với chính cảnh sinh hoạt đời thường ấy đã thể
hiện sự đồng điệu nhịp bước của thiên nhiên, đồng thời là của con người. Chắc hẳn
rằng hắn như phải sống hết mình, sống hịa hợp với thiên nhiên mới có sự đồng điều


kì diệu như vậy.


Người đọc có thể nhận thấy được cũng chính từ những thứ sinh hoạt đời thường ở
những câu thơ trên thì đến với hai câu kết, tác giả đúc kết tinh thần, triết lí sống cao
đẹp nhất qua hai câu thơ:


Rượu đến cội cây ta sẽ uống
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao


Tác giả có sử dụng điển tích “cội cây” như mang được ngụ ý muốn nói rằng phú quý
công danh là thứ phù phiếm và đồng thời cũng chỉ là áng phù vân trơi nổi có rồi lại
mất nhử một giấc mơ mà thôi. Và thông qua đây ta có thể nhận thấy đây cũng chính là
một thái độ rất đáng trọng bởi Nguyễn Bỉnh Khiêm đã sống trong thời đại mà chế độ
phong kiến bắt đầu khủng hoảng. Trong xã hội đó khi nền tảng đạo đức nho giáo bị
phá vỡ, rạn nứt và thực sự đó là thời đại mà con người lấy tiền làm thước đo cho mọi
giá trị khác.


Tóm lại bài thơ là sự kết hợp hài hịa giữa triết lí và trữ tình thể hiện vẻ đẹp tâm hồn
nhân cách ẩn sĩ Nguyễn bỉnh Khiêm. Đồng thời tác phẩm cũng chính là một tâm hồn
u thiên nhiên, hịa mình cùng thiên nhiên, tác giả như phủ nhận danh lợi. Bài thơ
“Nhàn” cũng mang một triết lí sống đẹp đẽ đáng nể, làm gương cho bao thế hệ mai
sau nữa.


<b>3. Cảm nhận bài thơ Nhàn mẫu 2</b>


Nền văn học trung đại đồ sộ đã mang đến cho chúng ta nhiều áng thơ hay, mang giá
trị lớn lao. Trong số đó, khơng thể khơng nhắc đến bài thơ “Nhàn” của trạng Trình
Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bài thơ đề cao triết lí sống thanh cao của những vị danh nhơ
đương thời:



“Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào
Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao
Rượu đến gốc cây, ta sẽ nhắp
Nhìn xem phú q, tựa chiêm bao”


Câu thơ đầu mở ra những hình ảnh quen thuộc: “mai, cuốc, cần câu” đều là những
công cụ gắn liền với thôn dã, làm hiện lên nhân vật trữ tình với tư thế của một lão
nông biết đến ruộng vườn, nhất định không phải tư thế đạo mạo của một bậc đại nho.
Câu thơ ngắt nhịp thoải mái, sử dụng lặp lại từ “một” khiến lời thơ vang lên như một
tiếng sấm rạch rịi, chứng tỏ nhà thơ đón lấy cuộc sống hết sức vui sướng, niềm vui vì
được làm điều mình thích. “Thơ thẩn” là trạng thái ung dung, nhàn nhã, thoải mái, tác
giả cảm thấy tự tin vì sự lựa chọn của mình. “Ai” là đại từ phiếm chỉ, khẳng định
người khác có thú vui riêng và tác giả cũng vậy. Hai câu đầu khẳng định nhàn không
phải là lánh đời mà là sự lựa chọn cho mình có một khơng gian sống mà mình thấy
thích thú, tự do tự tại


Hai câu đầu là lối sống tự do tự tại, hịa mình vào cuộc sống chung thì hai câu sau là
sự lí giải sâu sắc về sự lựa chọn ấy:


Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ


Người khơn người đến chốn lao xao


“Ta” là nhà thơ, “người” là ai, chắc chắn không phải là thiên hạ mà là những kẻ ham
công danh lợi lộc. Hai câu thơ có thể hiểu nơi vắng vẻ không phải là nơi lánh đời mà
là nơi bản thân mình cảm thấy thích thú, sống thoải mái khác hẳn với chốn quan


trường. Chốn thiên nhiên nơi đây là nơi thích hợp nhất để Nguyễn Bỉnh Khiêm tránh
xa thói đời ơ tạp, để giữ cho tâm hồn mình ln trong sáng và thanh sạch hơn. Bằng
cách nói ngược “dại” mà thực chất là “khơn”, cịn “khơn” nhưng thực chất lại là “dại”,
Nguyễn Bỉnh Khiêm đã sáng suốt lựa chọn lối sống đối lập với bao người, thoái khỏi
chốn lợi danh, ganh đua để sống an nhiên và tự tại. Cách nói nhún nhường, khiêm tốn
của bậc đại nho là lối ứng xửa minh triết của một bậc chân nho:


“Dụng chi tắc hành
Xa chi tắc tàng”


(Dùng thì sẽ ắt nên cơng,


Nếu mà từ khước, hư khơng chẳng cịn)


Nhàn là trở về với cuộc sống tự nhiên, thốt khỏi vịng ganh đua lợi lộc, thói tục,
khơng bị vướng vào tiền tài, địa vị và giữ cho tâm hồn mình ln khống đạt bởi:
“Thu ăn măng trúc đơng ăn giá


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Mùa nào thì gắn với sự vật ấy, đều có sẵn trong tự nhiên khơng phải vất vả kiếm tìm.
Đây là hình ảnh của cuộc sống tự cung tự cấp nhưng vẫn hết sức đủ đầy và vui vẻ.
Phải chăng tác giả đã đan xen vào đó triết lí vơ vi của đạo gi: Khơng làm gì can thiệp
vào quy luật của tự nhiên mà để chúng tự phát triển, đề nghị con người có lối sống
thuần theo tự nhiên hay sao? Thức ăn có sẵn trong tự nhiên tuy đạm bạc nhưng khơng
phải là món ăn khối khẩu, nhưng lại là cái nhàn thanh cao chứ không phải cái nhàn
tục của hạng người phú quý, biếng nhác. Vì vậy câu thơ nghe nhẹ bẫng mà thanh thản,
lâng lâng một niềm vui, cái nhẹ tênh của một cuộc sống không cần gắng gượng.


Tuy nhiên đến với cuộc sống nhàn phần nào cũng bởi đời ơ trọc mà thơi. Có vẻ nhà
thơ nhàn mà chưa thực sự nhàn, vẫn nhắc đến chuyện cơng danh:



“Rượu đến cội cây ta vẫn uống
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”


Hai câu thơ sử dụng điển Thuần Phong Vũ, thể hiện một cái nhìn bi quan về công
danh khi thấy chúng chỉ tựa như một giấc chiêm bao, là áng phù vân, khơng có giá trị
đích thực, khơng có ý nghĩa. Bởi vậy từ đó thi gia muốn nói con người coi thường phú
quý, đứng cao hơn phú quý và không làm nô lệ cho nó. Với cái nhìn như thế, tác giả
đã hồn tồn quay lưng vào cơng danh, lấy nhàn làm chân lí sống. Vần thơ của cụ
Nguyễn có sức cảnh tình với con người cần phải sáng suốt trước lợi lộc trước mắt.
Tóm lại, “Nhàn” đề cao một nhân cách sống, một lối sống thanh cao, tránh xa lợi lộc
tầm thường, hướng đến lối sống thiện tâm. Tuy nhiên, đặt trong hoàn cảnh thời đại mà
Nguyễn Bỉnh Khiêm đang sống, đó khơng phải là một giải pháp tốt để có thể cải tạo
và thay đổi xã hội.


<b>4. Cảm nhận bài thơ Nhàn mẫu 3</b>


Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585) sống gần trọn một thế kỉ đầy biến động của chế
độ phong kiến Việt Nam: Lê – Mạc xưng hùng, Trịnh – Nguyễn phân tranh. Trong
những chấn động làm rạn nứt những quan hệ nền tảng của chế độ phong kiến, ông vừa
vạch trần những thế lực đen tối làm đảo lộn cuộc sống nhân dân, vừa bảo vệ trung
thành cho những giá trị đạo lí tốt đẹp qua những bài thơ giàu chất triết lí về nhân tình
thế thái, bằng thái độ thâm trầm của bậc đại nho. Nhàn là bài thơ Nôm nổi tiếng của
nhà thơ nêu lên quan niệm sống của một bậc ẩn sĩ thanh cao, vượt ra cái tầm thường
xấu xa của cuộc sống bon chen vì danh lợi.


Nhà thơ đã nhiều lần đứng trên lập trường đạo đức nho giáo để bộc lộ quan niệm sống
của mình. Những suy ngẫm ấy gắn kết với quan niệm đạo lí của nhân dân, thể hiện
một nhân sinh quan lành mạnh giữa thế cuộc đảo điên. Nhàn là cách xử thế quen
thuộc của nhà nho trước thực tại, lánh đời thốt tục, tìm vui trong thiên nhiên cây cỏ,
giữ mình trong sạch. Hành trình hường nhà của Nguyễn Bỉnh Khiêm nằm trong quy


luật ấy, tìm về với nhân dân, đối lập với bọn người tầm thường bằng cách nói ngụ ý
vừa ngông ngạo, vừa thâm thúy.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

“Một mai, một cuốc, một cần câu,
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào”


Ngay trước mắt người đọc sẽ hiện lên một Nguyễn Bỉnh Khiêm thật dân dã trong cái
bận rộn giống như một lão nơng thực thụ. Nhưng đó là cả một cách chọn lựa thú
hưởng nhàn cao quý của nhà nho tìm về cuộc sống “ngư, tiều, canh, mục” như một
cách đối lập dứt khoát với các loại vui thú khá, nhằm khẳng định ý nghĩa thanh cao
tuyệt đối từ cuộc sống đậm chất dân quê này! Dáng vẻ thơ được phác họa trong câu
thơ độc đáo, mang lại vẻ ung dung bình thản của nhà thơ trong cuộc sống nhàn tản
thật sự. Thực ra, sự hiện diện của mai, cuốc, cần câu chỉ là một cách tô điểm cho cái
thơ thẩn khác đời của nhà thơ mà thôi. Những vật dụng lao động quen thuộc của
người bình dân trở thành hiện thân của cuộc sống không vướng bận lo toan tục lụy.
Đằng sau những liệt kê của nhà thơ, ta nhận ra những suy nghĩ của ông không tách rời
quan điểm thân dân của một con người chọn cuộc đời ẩn sĩ làm lẽ sống của riêng
mình. Trạng Trình đã nhìn thấy từ cuộc sống của nhân dân chứa đựng những vẻ đẹp
cao cả, một triết lí nhân sinh vững bền.


Đó cũng là cơ sở giúp nhà thơ khẳng định một thái độ sống khác người đầy bản lĩnh.
“Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ,


Người khơn người đến chốn lao xao”


Hai câu thực là một cách phân biệt rõ ràng giữa nhà thơ với những ai, những vui thú
nào về ranh giới nhận thức cũng như chỗ đứng giữa cuộc đời. Phép đối cực chuẩn đã
tạo thành hai đối cực: một bên là nhà thơ xưng ta một cách ngạo nghề, một bên là
người, một bên là dại của ta, một bên là khôn của người, một nơi vắng vẻ với một
chốn lao xao. Đằng sau những đối cực ấy là những ngụ ý tạo thành phản đề khẳng


định cho thái độ sống của Nguyễn Bĩnh Khiêm. Bản thân nhà thơ nhiều lần đã định
nghĩa dại – khôn bằng cách nói ngược này. Bởi vì người đời lấy lẽ dại – khơn để tính
tốn, tranh giành thiệt hơn, cho nên thực chất dại – khơn là thói thực dạng ích kỉ làm
tầm thường con người, cuốn con người vào dục vọng thấp hèn. Mượn cách nói ấy,
nhà thơ chứng tỏ được một chỗ đứng cao hơn và đối lập với bọn người mờ mắt vì bụi
phù hoa giữa chốn lao xao. Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng chủ động trong việc tìm nơi
vắng vẻ – không vướng bụi trần. Nhưng không giống lối nói ngược của Khuất
Nguyên thuở xưa “Người đời tỉnh cả, một minh ta say” đầy u uất, Trạng Trình đã cười
cợt vào thói đời bằng cái nhếch mơi lặng lẽ mà sâu cay, phê phán vào cả một xã hội
chạy theo danh lợi, bằng tư thế của một bậc chính nhân qn tử khơng bận tâm những
trị khơn – dại. Cũng vì thế, nhà thơ mới cảm nhận được tất cả vẻ đẹp của cuộc sống
nhàn tản:


“Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao”


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

“Thoát tục” của đạo Phật. Nhưng gạt sang một bên những triết lí siêu hình, ta nhận ra
con người nghệ sĩ đích thực của Nguyễn Bỉnh Khiêm, hịa hợp với tự nhiên một cách
sang trọng bằng tất cả cái hồn nhiên trong sạch của lịng mình. Khơng những thế,
những hình ảnh măng trúc, giá, hồ sen cịn mang ý nghĩa biểu tượng gắn kết với phẩm
chất thanh cao của người qn tử, sống khơng hổ thẹn với lịng mình. Hịa hợp với
thiên nhiên là một Tuyết Giang Phu Tử đang sống đúng với thiên lương của mình.
Quan niệm về chữ Nhàn của nhà thơ được phát triển trọn vẹn bằng sự khẳng định:
“Rượu đến cội cây, ta sẽ uống,


Nhìn xem phú q tựa chiêm bao.”


Mượn điển tích một cách rất tự nhiên, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã nói lên thái độ sống
dứt khốt đoạn tuyệt với cơng danh phú quý. Quan niệm ấy vốn dĩ gần với đạo Lão –
Trang, có phần yếm thế tiêu cực, nhưng đặt trong thời đại nhà thơ đang sống lại bộc


lộ ý nghĩa tích cực. Cuộc sống của những kẻ chạy theo cơng danh phú quý vốn dĩ ông
căm ghét và lên án trong rất nhiều bài thơ về nhân tình thế thái của mình:


“Ơ thể mới hay người bạc ác,
Giàu thì tìm đến, khó thì lui”
(Thói đời)


Phú q đi với chức quyền đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ là cuộc sống của bọn
người bạc ác thủ đoạn, giẫm đạp lên nhau mà sống. Bọn chúng là bầy chuột lớn gây
hại nhân dân mà ông vô cùng căm ghét và lên án trong bài thơ ‘‘Tăng thử” (Ghét
chuột) của mình. Bởi thế, có thể hiểu thái độ nhìn xem phú quý tựa chiêm bao cũng là
cách nhà thơ chọn lựa con đường sống gần gũi, chia sẻ với nhân dân. Cuộc sống đạm
bạc mà thanh cao của người bình dân đáng quý đáng trọng vì đem lại sự thanh thản
cũng như giữ cho nhàn cách không bị hoen ố vẩn đục trong xã hội chạy theo thế lực
kim tiền. Cội nguồn triết lí của Nguyễn Bỉnh Khiêm gắn liền với quan niệm sống lành
vững tốt đẹp của nhân dân.


Bài thơ “Nhàn” bao quát tồn bộ triết lí, tình cảm, trí tuệ của Nguyễn Bỉnh Khiêm,
bộc lộ trọn vẹn một nhân cách của bậc đại ẩn tìm về với thiên nhiên, với cuộc sống
của nhân dân để đối lập một cách triệt để với cả một xã hội phong kiến trên con
đường suy vong thối nát. Bài thơ là kinh nghiệm sống, bản lĩnh cứng cỏi của một con
người chân chính.


<b>5. Cảm nhận về bài thơ Nhàn ngắn gọn mẫu 1</b>


Có thể nói rằng với Nhàn là bài thơ được sáng tác trong thời gian Nguyễn Bỉnh
Khiêm về quê ở ẩn. Chữ “nhàn” của ông đã thể hiện được thái độ sống, một triết lí
sống vơ cùng rõ ràng. Và triết lí ấy được gói gọn chỉ trong một chữ “nhàn”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

Thơ thẩn dầu ai vui thú nào



Ta có thể thấy được ngay hai câu thơ mở đầu tạo ấn tượng đầu tiên với điệp ngữ
“một” được lặp lại ba lần ở trong một câu thơ. Nó khơng chỉ mang tính chất liệt kê
các sự vật quen thuộc đó chính là hình ảnh “mai”, “cuốc”, “cần câu” mà còn là những
vật dụng rất đỗi quen thuộc mang bóng dáng nhà nơng vơ cùng chân chất vừa mang
bóng dáng của một “Tao nhân mặc khách ngâm nga” vậy. Đó chính là một hình dáng
ung dung thoải mái, thêm vào đó là một trạng thái tâm hồn thanh nhàn an nhiên không
vướng bận chút bụi trần.


Có thể nhận thấy được câu thơ như một lời thách thức của Nguyễn Bỉnh Khiêm đối
với người đời, và cho dù ai vui thú nào đi chăng nữa thì ta đây vẫn vui thú an nhàn,
vui cuộc sống thơn q nhất. Cũng chính từ những lời thách thức đó dường như cũng
đã tốt lên được phong thái thật thanh thản trong tâm hồn và thật vui thú điền viên của
một lão nông già.


Khi đọc đến với hai câu thực tiếp theo đã khái quát chân dung nhân vật trữ tình và
triết lí “nhàn” của thi nhân đã thể hiện qua câu:


Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ


Người khơn người đến chốn lao xao


Khơng khó khi nhận thấy được sự đối lập giữa các nhân vật trong hai câu thơ thể hiện
đó chính là “nơi vắng vẻ” và chốn q thật thanh bình vơ cùng an nhàn, vơ lo vơ nghĩ.
Thực sự đó chính là tâm hồn của con người ln ln hịa nhập cùng với thiên nhiên.
Đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm thì “chốn lao xao” cũng được ám chỉ đến nơi quan
trường với những vòng danh lợi, ghen ghét và sự đố kỵ nữa. Và phải chăng tác giả
“dại” cho nên ơng mới tìm nơi thơn q, cịn người đời “khơn” tìm đến chốn quan
trường.



Nhưng xét trong vần thơ này lại hồn tồn ngược lại, “dại” có nghĩa là khơn, và từ
“khơn” có nghĩa là dại. Bạn có thể nhận thấy được chính lối nói ngược mang ý nghĩa
mỉa mai: người khôn mà chọn chốn lao xao đầy rẫy những tham lam, dục vọng, luôn
luôn phải suy nghĩ đắn đo, khiến cuộc sống luôn vội vã. Hai câu thực như mang nghĩa
mỉa mai chế giễu lũ người kia chỉ biết lao đầu vào tham vọng, chính vào vịng danh
lợi. Cịn đối với tác giả thì ơng dường như cũng đã phủ nhận vòng danh lợi ấy bằng
cách thể hiện quan điểm, khí chất thanh cao trong sạch.


Qua 4 câu thơ ta cũng thấy rõ rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm đã lựa chọn cuộc sống thanh
cao, hòa nhập với thiên nhiên và tránh xa tham vọng. Khi đọc đến hai câu luận cũng
đã gợi mở cho người đọc về một cuộc sống vơ cùng bình dị của nhân vật trữ tình.
Thu ăn măng trúc đơng ăn giá


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

thường ăn. Nó gắn liền với cuộc sống thơn q chất phác và hết sức quen thuộc trong
đời sống. Còn với câu thơ:


Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao


Câu thơ khiến ta nhớ về những hình ảnh quen thuộc ở làng quê, về cái lối sinh hoạt
dân dã. Khi trở về với thiên nhiên trở về với làng xóm. Tác giả thực sự hịa mình với
thơn q thuần hậu, người đọc có thể nhận thấy được cuộc sống thanh đạm, một cuộc
sống dường như cũng đã mang lại thú vui an nhàn, thảnh thơi mùa nào thức đấy. Thực
sự đó là một cuộc sống được nhiều người ngưỡng mộ mà chẳng mấy ai có được. Chỉ
là một cảnh sinh hoạt đời thường đơn giản nhưng nó lại thể hiện sự đồng điệu nhịp
bước của thiên nhiên, đồng điệu với con người.


Cũng chính từ những thứ sinh hoạt đời thường này tác giả đã đến với hai câu kết, với
sự đúc kết tinh thần, triết lí sống cao đẹp nhất:


Rượu đến cội cây ta sẽ uống


Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao


Điển tích “cội cây” xuất hiện như mang được ngụ ý muốn nói rằng phú q cơng
danh là thứ phù phiếm và đồng thời cũng chỉ là áng phù vân trôi nổi có rồi lại mất như
một giấc mơ mà thơi. Và qua đây ta có thể nhận thấy đây cũng chính là một thái độ rất
đáng trọng bởi tác giả đã sống trong thời đại mà chế độ phong kiến bắt đầu khủng
hoảng. Trong xã hội đó khi nền tảng đạo đức nho giáo bị phá vỡ, rạn nứt và thực sự
đó là thời đại mà con người lấy tiền làm thước đo cho mọi giá trị khác.


Tóm lại, Nhàn đã thể hiện rõ sự kết hợp hài hòa giữa triết lí và trữ tình thể hiện vẻ đẹp
tâm hồn nhân cách ẩn sĩ Nguyễn bỉnh Khiêm. Đồng thời tác phẩm cũng thể hiện rõ
một tâm hồn yêu thiên nhiên, hịa mình cùng thiên nhiên, phủ nhận danh lợi, làm
gương cho bao thế hệ mai sau nữa.


<b>6. Cảm nhận về bài thơ Nhàn ngắn gọn mẫu 2</b>


Nền văn học trung đại đồ sộ đã mang đến cho chúng ta nhiều áng thơ hay, mang giá
trị lớn lao. Trong số đó, không thể không nhắc đến bài thơ “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh
Khiêm, một bài thơ đề cao triết lí sống thanh cao của những vị danh nho đương thời:
“Một mai, một cuốc, một cần câu


Thơ thẩn dầu ai vui thú nào
Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

Rượu đến gốc cây, ta sẽ nhắp
Nhìn xem phú quý, tựa chiêm bao”


Câu thơ đầu mở ra những hình ảnh quen thuộc: “mai, cuốc, cần câu” đều là những
công cụ gắn liền với thơn dã, làm hiện lên nhân vật trữ tình với tư thế của một lão
nông biết đến ruộng vườn, nhất định không phải tư thế đạo mạo của một bậc đại nho.


Câu thơ ngắt nhịp thoải mái, sử dụng lặp lại từ “một” khiến lời thơ vang lên như một
tiếng sấm rạch rịi, chứng tỏ nhà thơ đón lấy cuộc sống hết sức vui sướng, niềm vui vì
được làm điều mình thích. “Thơ thẩn” là trạng thái ung dung, nhàn nhã, thoải mái, tác
giả cảm thấy tự tin vì sự lựa chọn của mình. “Ai” là đại từ phiếm chỉ, khẳng định
người khác có thú vui riêng và tác giả cũng vậy. Hai câu đầu khẳng định nhàn không
phải là lánh đời mà là sự lựa chọn cho mình có một khơng gian sống mà mình thấy
thích thú, tự do tự tại


Hai câu đầu là lối sống tự do tự tại, hịa mình vào cuộc sống chung thì hai câu sau là
sự lí giải sâu sắc về sự lựa chọn ấy:


Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ


Người khơn người đến chốn lao xao


“Ta” là nhà thơ, “người” là ai, chắc chắn không phải là thiên hạ mà là những kẻ ham
cơng danh lợi lộc. Hai câu thơ có thể hiểu nơi vắng vẻ không phải là nơi lánh đời mà
là nơi bản thân mình cảm thấy thích thú, sống thoải mái khác hẳn với chốn quan
trường. Chốn thiên nhiên nơi đây là nơi thích hợp nhất để Nguyễn Bỉnh Khiêm tránh
xa thói đời ơ tạp, để giữ cho tâm hồn mình ln trong sáng và thanh sạch hơn. Bẳng
cách nói ngược “dại” mà thực chất là “khơn”, cịn “khơn” nhưng thực chất lại là “dại”,
tác giả đã sáng suốt lựa chọn lối sống đối lập với bao người, thoát khỏi chốn lợi danh,
ganh đua để sống an nhiên và tự tại.


Nhàn là trở về với cuộc sống tự nhiên, thốt khỏi vịng ganh đua lợi lộc, thói tục,
khơng bị vướng vào tiền tài, địa vị và giữ cho tâm hồn mình ln khống đạt bởi:
“Thu ăn măng trúc đơng ăn giá


Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao”



Mùa nào thì gắn với sự vật ấy, đều có sẵn trong tự nhiên khơng phải vất vả kiếm tìm.
Đây là hình ảnh của cuộc sống tự cung tự cấp nhưng vẫn hết sức đủ đầy và vui vẻ.
Phải chăng tác giả đã đan xen vào đó triết lí vơ vi của đạo giáo : Khơng làm gì can
thiệp vào quy luật của tự nhiên mà để chúng tự phát triển, đề nghị con người có lối
sống thuận theo tự nhiên hay sao? Thức ăn có sẵn trong tự nhiên tuy đạm bạc nhưng
khơng phải là món ăn khối khẩu, nhưng lại là cái nhàn thanh cao chứ không phải cái
nhàn tục của hạng người phú quý, biếng nhác. Vì vậy câu thơ nghe nhẹ bẫng mà
thanh thản, lâng lâng một niềm vui, cái nhẹ tênh của một cuộc sống không cần gắng
gượng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

“Rượu đến cội cây ta vẫn uống
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”


Hai câu thơ sử dụng điển Thuần Phong Vũ, thể hiện một cái nhìn bi quan về công
danh khi thấy chúng chỉ tựa như một giấc chiêm bao, là áng phù vân, khơng có giá trị
đích thực, khơng có ý nghĩa. Bởi vậy từ đó thi gia muốn nói con người coi thường phú
quý, đứng cao hơn phú q và khơng làm nơ lệ cho nó. Với cái nhìn như thế, tác giả
đã hồn tồn quay lưng vào cơng danh, lấy nhàn làm chân lí sống. Vần thơ của cụ
Nguyễn có sức cảnh tình với con người cần phải sáng suốt trước lợi lộc trước mắt.
Bài thơ “Nhàn” đề cao một nhân cách sống, một lối sống thanh cao, tránh xa lợi lộc
tầm thường, hướng đến lối sống thiện tâm. Tuy nhiên, đặt trong hoàn cảnh thời đại mà
Nguyễn Bỉnh Khiêm đang sống, đó khơng phải là một giải pháp tốt để có thể cải tạo
và thay đổi xã hội.


<b>7. Cảm nhận về bài thơ Nhàn ngắn gọn mẫu 3</b>


Nguyễn Bỉnh Khiêm không những là một ông quan thanh liêm và có học vấn uyên
thâm, nhưng vì sống trong cảnh quan trường có nhiều bất cơng cho nên ơng đã cáo
quan về ở ẩn. Ơng lựa chọn một nơi an nhàn, thảnh thơi nơi thôn quê và bài thơ
“Nhàn” là một bài thơ viết về những tháng ngày tác giả ở ẩn. Bài thơ đã thể hiện được


tiếng lòng của Nguyễn Bỉnh Khiêm về một cuộc sống nhiều niềm vui có biết bao
nhiêu an nhàn và thanh thản nơi đồng quê.


Bài thơ Nhàn đã thể hiện được một tâm hồn tràn ngập niềm vui và sự thanh tịnh trong
tâm hồn tác giả, với những cảm xúc thanh nhàn chính là tinh thần chủ đạo của bài thơ.
Một mai một cuốc, một cần câu


Thơ thẩn dầu ai vui thú nào


Nguyễn Bỉnh Khiêm thật tài tình khi đã sử dụng điệp từ “một” để có thể vẽ lên trước
mắt người đọc một khung cảnh bình dị, đơn sơ nơi quê nghèo. Tác giả cho dù là một
mình nhưng khơng hề đơn độc một chút nào. Ơng sử dụng hai câu thơ toát lên sự
thanh tịnh của tâm hồn và êm đềm của thiên nhiên ở vùng quê Bắc Bộ mới đẹp làm
sao. Hình ảnh cuốc và cần câu đã gợi lại cho chúng ta một sự mộc mạc, một sự chất
phác của một lão nông tri điền vui thú điền viên. Thực sự đây cũng là mong ước của
biết bao nhiêu người ở thời kỳ phong kiến ngày xưa thế nhưng khơng phải ai cũng có
thể bỏ được chốn quan trường. Từ “thơ thẩn” đã gợi được một cuộc sống cứ đủng
đỉnh, ung dung tự tại. Ông đã rời chốn quan trường về với thôn quê.


Đọc đến hai câu thơ thực tiếp theo trong bài thơ Nhàn dường như lại càng khắc họa rõ
nét hơn chân dung của một lão nơng Nguyễn Bỉnh Khiêm.


Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

Với câu thơ này chúng ta có thể xem là tun ngơn sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm
trong những năm tháng sau khi cáo quan về ở ẩn. Ở đây Nguyễn Bỉnh Khiêm lại tự
nhận mình “dại” khi tìm nơi vắng vẻ để sống. Thế nhưng đây là cái dại này cũng đã
khiến nhiều người ghen tị và ngưỡng mộ. Tác giả thật rất khéo léo trong việc dùng từ
ngữ độc đáo, đồng thời cũng đã lột tả được hết phong thái của ông. Nguyễn Bỉnh
Khiêm đã cho rằng những người chọn chốn quan trường là những người “khơn”. Đây


chính là một cách khen rất tinh tế, khen mà chê, cũng có thể là khen mình và chê
người. Thêm vào đó người đọc nhận thấy được tứ thơ ở hai câu này dường như hoàn
toàn đối lập nhau từ ngôn ngữ đến dụng ý khái niệm về “dại” – “khôn”, “vắng vẻ” –
“lao xao”. Tác giả Nguyễn Bỉnh Khiêm tìm về nơi vắng vẻ để ở liệu đây có phải là
trốn tránh trách nhiệm với nước hay khơng? Với thời thế như vậy thì ơng tìm đến nơi
vắng vẻ, tránh xa vòng danh lợi chốn quan trường thì khi đó con người mới sống thật
là chính mình được. Thực sự có thể nhận thấy được đây là một cốt cách thanh cao,
một tâm hồn đáng ngưỡng mộ.


Hai câu thơ luận cũng đã khiến cho người đọc về cuộc sống bình dị, giản đơn và
thanh cao của Nguyễn Bỉnh Khiêm:


Thu ăn măng trúc đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao


Chỉ sử dụng một cặp câu đã lột tả hết tất cả cuộc sống sinh hoạt và thức ăn hằng ngày
của “lão nông nghèo”. Cứ mùa nào đều tương ứng với thức ăn đấy, tuy những món ăn
của Nguyễn Bỉnh Khiêm khơng có sơn hào hải vị nhưng những thức ăn có sẵn này
dường như lại đậm đà hương vị quê nhà. Tất cả như đã khiến tác giả an phận và hài
lòng.


Rượu đến cội cây ta sẽ uống
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao


vBài thơ khép lại bởi hai câu thơ triết lý này cũng đã đúc rút được về quan điểm, cách
nhìn nhận của Nguyễn Bỉnh Khiêm về cuộc sống về vinh hoa. Đối với ông thì vinh
hoa, phú quý như một giấc chiêm bao đến rồi đi.


</div>

<!--links-->

Tài liệu Cảm nghĩ về bài thơ “Cảnh khuya” của Hồ Chí Minh pdf
  • 4
  • 8
  • 20
  • ×