Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm, SKKN - Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy và học môn Giáo dục công dân bậc THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (13.43 MB, 38 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO YÊN KHÁNH
TRƯỜNG THCS LÊ QUÝ ĐÔN

***********

KINH NGHIỆM
SỬ DỤNG BẢN ĐỒ TƯ DUY TRONG DẠY VÀ HỌC
MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN BẬC THCS

Tác giả sáng kiến: Phạm Thị The
Chức vụ công tác: Giáo viên
Trình độ chuyên môn: Cử nhân
Địa chỉ: Trường THCS Lê Quý Đôn - TT Yên Ninh
Yên Khánh - Ninh Bình
Email:
Điện thoại: 0303841416.

Yên Khánh, 5/2015


Môc lôc
STT
1
A. MỞ ĐẦU

2

NỘI DUNG

TRANG
1



1. Lý do chọn đề tài.

1

2.Lịch sử đề tài.

2

3. Mục đích nghiên cứu

3

4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu

4

5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

5

6. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu.
B. PHẦN NỘI DUNG

5
6

CHƯƠNG I
CÁC CƠ SỞ LÝ LUẬN
I. Khái niệm về bản đồ tư duy .

II. Cơ sở khoa học của bản đồ tư duy
III. Nguyên tắc hoạt động của bản đồ tư duy .
IV. Cách lập bản đồ tư duy.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG, BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

6
6
7
8
9
10

I. Thực trạng vấn đề nghiên cứu

10

II. Giải pháp vận dụng bản đồ tư duy trong môn GDCD .

12

1.Bản chất của phương pháp dạy bản đồ tư duy.

12

2.Vận dụng bản đồ tư duy trong quá trình dạy học GDCD .

15

3. Học sinh học tập độc lập, sử dụng bản đồ tư duy để hỗ trợ


26

học tập, phát triển tư duy.
CHƯƠNG III
MỘT SỐ KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC SAU KHI ÁP DỤNG ĐỀ TÀI

I.Những ưu điểm của kinh nghiệm điểm ứng dụng bản đồ tư
duy trong đổi mới phương pháp dạy học Giáo dục công dân.

26
27


1. BĐTD đối với học sinh

27

2. BĐTD đối với giáo viên .

28

II. Kết quả cụ thê đạt được

29

C. PHẦN KẾT LUẬN

30


I. Bài học kinh nghiệm

30

1. Đối với giáo viên

30

2. Đối với học sinh

31

II. Hiệu quả do sáng kiến kinh nghiệm đem lại

31

III. Điều kiện và khả năng ứng dụng

32

IV. Những kiến nghị, đề xuât

32

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:


Chúng ta đang sống trong thời đại văn minh trí ṭ, tồn cầu hố. Mợt câu
hỏi lớn đặt ra cho ngành giáo dục là làm sao đào tạo được nguồn nhân lực cho đất

nước có đầy đủ nhân cách, trí tuệ, sức khoẻ và kỹ năng sống đáp ứng và hoà nhập
được với sự phát triển như vũ bão của khoa học và công nghệ trên thế giới. Do vậy
mà vấn đề đổi mới phương pháp dạy học ở các trường phổ thông càng trở nên cần
thiết và quan trọng hơn bao giờ hết
Trong Văn kiện Đại hợi Đảng tồn quốc lần thứ XI, Đảng ta chỉ rõ: “Phát
triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao
là một trong những yếu tố quyết định sự phát triển nhanh, bền vững đất nước. Đổi
mới căn bản, toàn diện nền giáo dục theo hướng chuẩn hố, hiện đại hố, xã hợi
hố; đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học; đổi mới cơ chế
quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục, đào tạo.
Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, coi trọng giáo dục đạo đức, lối
sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành. Đẩy mạnh đào tạo nghề đáp ứng nhu
cầu phát triển của đất nước. Xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, kết hợp
chặt chẽ giữa nhà trường với gia đình và xã hội; xây dựng xã hội học tập, tạo cơ
hội và điều kiện cho mọi công dân được học tập suốt đời”.
Chỉ thị về việc phát động phong trào thi đua "Xây dựng trường học thân
thiện, học sinh tích cực" trong các trường phổ thơng giai đoạn 2008-2013 nêu rõ
về nợi dung: "Dạy và học có hiệu quả, thầy cơ giáo tích cực đổi mới phương pháp
giảng dạy nhằm khuyến khích sự chuyên cần, tích cực, chủ động, sáng tạo và ý
thức vươn lên, giúp các em tự tin trong học tập.", "rèn luyện kỹ năng ứng xử hợp
lý với các tình huống trong cuộc sống, thói quen và kỹ năng làm việc và sinh hoạt
theo nhóm", " tổ chức các trị chơi dân gian, sân khấu học đường và các hoạt
động vui chơi, giải trí tích cực khác phù hợp với lứa tuổi học sinh."
Để hưởng ứng phong trào thi đua đó, nhiều phương pháp, biện pháp mới
liên tục được đưa ra dù có khác nhau nhưng đều thống nhất khẳng định vai trò của
người học không phải là những “bình chứa thụ động” mà là những chủ thể nhận
thức tích cực trong quá trình học tập.
Riêng đối với bộ môn Giáo dục công dân, hiện nay vấn đề đổi mới phương
pháp dạy học theo hướng dạy học tích cực lấy người học làm trung tâm đã và đang



được triển khai rộng rãi trong các nhà trường THCS. Đặc biệt là việc ứng dụng
bản đồ tư duy cùng với các phương pháp dạy học tích cực khác như học nhóm,
cơng nghệ thơng tin... đã đem lại rất nhiều lợi ích và thu được những kết quả đáng
kể. Tuy nhiên việc môn Giáo dục công dân cũng gặp nhiều khó khăn. Dung lượng
kiến thức mỗi tiết rất dài và có phần khơ khan. Vì vậy mà trong q trình giảng
dạy, bản thân luôn trăn trở làm thế nào để có thể ứng dụng tốt phương pháp dạy
học mơn Giáo dục công dân bằng bản đồ tư duy để giờ dạy có hiệu quả, phát huy
tính tích cực chủ đợng, sáng tạo đồng thời gợi niềm say mê, hứng thú của học sinh
. Đó chính là lí do tơi chọn đề tài: “ Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy và học môn
Giáo dục công dân bậc THCS”.
2.Lịch sử đề tài :
Bản đồ tư duy (BĐTD) là một công cụ tổ chức tư duy được tác giả Tony
Buzan (Anh) nghiên cứu kỹ lưỡng và phổ biến rộng khắp thế giới. Nhiều nước
trên thế giới đã ứng dụng BĐTD trong giảng dạy, học tập, làm việc, kinh doanh...
từ 15 - 20 năm nay. Ở nước ta, BĐTD mới chỉ được biết đến trong vài năm trở lại
đây, đặc biệt khi ngành giáo dục làm quen với BĐTD qua triển khai áp dụng linh
hoạt cùng với các phương pháp dạy học tích cực khác trên diện rợng của Bợ Giáo
dục và Đào tạo.
Dự án Phát triển giáo dục THCS II đã chủ trì nhóm nghiên cứu mợt cách kĩ lưỡng
và tham mưu với Bộ GD - ĐT đưa thành chuyên đề ứng dụng BĐTD hỗ trợ đổi
mới phương pháp dạy học tới các cán bộ quản lý và giáo viên, học sinh
THCS. Trong 3 năm gần đây, các cán bộ nghiên cứu thuộc Viện Khoa học Giáo
dục Việt Nam, Dự án Phát triển giáo dục THCS II kết hợp với Vụ Giáo dục Trung
học và Cục Nhà giáo của Bộ GD - ĐT và Sở GD - ĐT các tỉnh đến các vùng miền
của đất nước để nghiên cứu và nhân rộng dần phương pháp mới này với hy vọng
sẽ giúp HS thốt khỏi lối “học vẹt”, đóng góp phần mình vào công việc chung của
ngành giáo dục. Trên 30 bài báo khoa học cùng với 4 cuốn sách: “Dạy tốt - học tốt
các môn học bằng BĐTD” dùng cho GV và HS từ lớp 4 đến lớp 12 và “Ứng dụng
công nghệ thông tin trong dạy học” do Nhà xuất bản Giáo dục phát hành đã thu



hút mạnh mẽ sự quan tâm của các cấp quản lý giáo dục và đội ngũ thầy cô giáo,
phụ huynh và các em học sinh phổ thông.
Năm 2011, ứng dụng BĐTD trong dạy và học đã được triển khai thí điểm
tại 355 trường trên toàn quốc và được cả giáo viên cũng như học sinh các trường
hồ hởi tiếp nhận. Nhiều Sở, Phòng GD - ĐT sau khi được tập huấn cho cốt cán cấp
THCS đã chủ động phổ biến đến cả cấp tiểu học và trung học phổ thông. Nhiều
trường Đại học, Cao đẳng cũng áp dụng BĐTD ở các mức độ khác nhau. Kết quả
ghi nhận ban đầu cho thấy: Việc vận dụng BĐTD trong dạy học sẽ dần hình thành
cho HS tư duy mạch lạc, hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc, “định vị trong đầu”
được các kiến thức, sự kiện cơ bản, có cách nhìn vấn đề một cách hệ thống, khoa
học, học tốt không chỉ kiến thức trong sách vở mà còn cả từ thực tiễn cuộc
sống. Trước kết quả khả quan này, năm 2011, Bộ GD - ĐT đã quyết định đưa
chuyên đề phương pháp dạy học bằng BĐTD thành 1 trong 5 chuyên đề tập huấn
cho giáo viên THCS trên toàn quốc. Cho đến nay, đề tài:“ Sử dụng bản đồ tư duy
trong dạy và học môn Giáo dục công dân bậc THCS ” đã có khá nhiều giáo viên
dạy mơn tìm hiểu nghiên cứu. Tuy nhiên, các giải pháp mà các nhà viết sách đưa
ra nhiều khi cịn mang tính chất lý thuyết hoặc một số kinh nghiệm của đồng
nghiệp đưa ra áp dụng cho mọi đối tượng của học sinh nhiều khi vẫn còn hạn chế.
Vì vậy, khi viết đề tài: “ Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy và học môn Giáo dục
công dân bậc THCS”, bên cạnh việc tiếp thu những kinh nghiệm của đồng
nghiệp, nghiên cứu tài liệu, bản thân tôi xin đưa ra một số kinh nghiệm đã được áp
dụng trong giảng dạy trong năm học vừa qua với mong muốn trao đổi cùng đồng
nghiệp để giúp học sinh cải thiện được chất lượng học mơn Giáo dục cơng dân của
mình.
3. Mục đích nghiên cứu.
3.1. Đối với giáo viên:
Đối với với giáo viên, trong quá trình dạy Giáo dục công dân, sử dụng
BĐTD để củng cố kiến thức cho học sinh sau mỗi phần của bài học, sau mỗi bài

học hay sau mỗi chương học một cách rõ ràng, khoa học vì sử dụng phần mềm


BĐTD như một hình ảnh trực quan cho học sinh dễ theo dõi những kiến thức cơ
bản, trọng tâm. Chú trọng đến việc rèn luyện các kĩ năng, năng lực hành động, vận
dụng

kiến

thức,

tăng

cường

thực

hành

.

3. 2. Đối với học sinh:
Việc sử dụng thành thạo BĐTD trong dạy học, sẽ giúp học sinh học được
phương pháp học, tăng tính đợc lập, chủ đợng, sáng tạo và phát triển tư duy.
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu:
4.1 Nhiệm vụ:
4.1.1. Tìm hiểu những vấn đề chung về bản đồ tư duy .
4.2.2. Tìm hiểu một số vấn đề về thực tiễn dạy học Giáo dục công dân ở
bậc Trung học cơ sở .
4.3.3. Tìm hiểu một số vấn đề phương pháp ứng dụng bản đồ tư duy trong

dạy học Giáo dục công dân bậc THCS .
4.2 Phương pháp:
4.2.1 Phương pháp nghiên cứu lý luận: Đọc và ghi chép những vấn đề lý
luận về đề tài nghiên cứu.
4.2.2. Phương pháp quan sát: dự giờ đồng nghiệp, ghi chép.
4.2.3. Phương pháp điều tra: tìm hiểu, trao đổi với GV, HS về vấn đề nghiên
cứu.
4.2.4 . Phương pháp thực nghiệm: Thông qua các tiết dạy thực nghiệm để đánh
giá kết quả vấn đề nghiên cứu.
5.Phạm vi và đối tượng nghiên cứu.
5.1. Phạm vi nghiên cứu.
Đề tài tập trung giới thiệu nội dung và phương pháp vận dụng bản đồ tư
duy trong dạy học Giáo dục công dân bậc THCS hiện nay.
5. 2. Đối tượng nghiên cứu.
Áp dụng trong việc dạy - học Giáo dục công dân cho học sinh trường
THCS Lê Q Đơn nói riêng và học sinh trường THCS nói chung.
6. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu.
1.“ Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy và học môn Giáo dục công dân bậc
THCS” đã hệ thống tóm tắt những nợi dung chính và những vấn đề cần lưu ý khi
nghiên cứu vận dụng bản đồ tư duy trong dạy học Giáo dục công dân bậc THCS
hiện nay.


2. Qua kinh nghiệm này, giáo viên, học sinh nắm được phương pháp vận
dụng bản đồ tư duy trong dạy và học môn Giáo dục công dân ở tất cả các khối lớp
6,7,8,9 .
3. Kinh nghiệm này thể hiện tinh thần đổi mới phương pháp dạy học.
4. Đáp ứng yêu cầu phát triển của từng đối tượng học sinh, giúp học sinh
học được phương pháp học, tăng tính đợc lập, chủ động, sáng tạo và phát triển tư
duy.

5. Điểm mới cần lưu ý trong kinh nghiệm này là bản thân đã khai thác ứng
dụng phần mềm iMindmap trong việc dạy học môn Giáo dục công dân.

*

*

*

B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I : CÁC CƠ SỞ LÍ LUẬN.


Trước khi đưa ra những vận dụng cụ thể phương pháp vận dụng bản đồ tư duy
trong việc đổi mới dạy học Giáo dục công dân THCS, tôi muốn trình bày những
kiến thức học tập được từ những chuyên đề về phương pháp sử dụng bản đồ tư
duy .
I. Khái niệm về bản đồ tư duy:
Theo Tony Buzan, người đầu tiên tìm hiểu và sáng tạo ra bản đồ tư duy thì:
“Bản đồ tư duy là một hình thức ghi chép sử dụng màu sắc và hình ảnh để mở
rộng và đào sâu các ý tưởng. Ở giữa bản đồ là một ý tưởng hay một hình ảnh trung
tâm. Ý tưởng hay hình ảnh trung tâm này sẽ được phát triển bằng các nhánh tượng
trưng cho các ý chính và đều được nối với các ý trung tâm. Với phương thức tiến
dần từ trung tâm ra xung quanh, bản đồ tư duy khiến tư duy con người cũng phải
hoạt động tương tự. Từ đó các ý tưởng của con người sẽ phát triển.

Theo thầy Hoàng Đức Huy - giáo viên trung tâm giáo dục thường xuyên quận
4 - thành phố Hồ Chí Minh viết : “ Bản đồ tư duy có cấu tạo như mợt cái cây có
nhiều nhánh lớn, nhỏ mọc xung quanh. Cái cây ở giữa bản đồ là mợt ý tưởng
chính hay là hình ảnh trung tâm. Nối với nó là các nhánh lớn thể hiện các vấn đề

liên quan đến ý tưởng chính. Các nhánh lớn sẽ được phân thành nhiều nhánh nhỏ,
rồi nhánh nhỏ hơn, nhánh nhỏ hơn nữa nhằm thể hiện chủ đề ở mức độ sâu hơn.
Sự phân nhánh cứ thế tiếp tục và các kiến thức, hình ảnh luôn được nối kết với
nhau. Sự liên kết này tạo ra một “ bức tranh tổng thể” mô tả ý tưởng trung tâm
một cách đầy đủ và rõ ràng.”
II. Cơ sở khoa học của phương pháp bản đồ tư duy:


Nghiên cứu về hoạt động của bộ não con người, các nhà khoa học chỉ ra
rằng chỉ ra rằng bộ não của con người gồm 2 bán cầu: não phải và não trái.

Não phải nhạy cảm với các thông tin về màu sắc, nhịp điệu, hình dạng,
tưởng tượng…. những yếu tố đó sẽ tác đợng, kích thích não trái. Não trái thích
hợp với các từ ngữ, con số, tư duy và phân tích cho ra sản phẩm. Do đó người ta
tìm cách kích thích não phải tốt nhất. Trình bày vấn đề theo sơ đồ, biểu đồ bao giờ
cũng gây hứng thú và khi hai bán cầu não có sự tương tác, tác đợng, kích thích lẫn
nhau nó sẽ đem đến cho con người khả năng to lớn. Vậy mà từ trước tới nay,
chúng ta thường ghi chép thông tin bằng các ký tự, đường thẳng, con số theo trật
tự tuyến tính. Nghĩa là chúng ta mới chỉ sử dụng ½ bộ não- não trái mà chưa sử
dụng kĩ năng nào bên não phải – nơi giúp chúng ta xử lý các thông tin về nhịp
điệu, màu sắc, không gian và sự mơ mợng.
Dựa trên những đặc điểm đó của não bộ, Tony Buzan đã sáng tạo ra bản đồ
tư duy theo ngun lí hoạt đợng của bợ não. Bản đồ tư duy khơng những sử dụng
chữ, số, các dịng kẻ mà cịn có thể sử dụng cả màu sắc và hình ảnh. Các dòng kẻ,
chuỗi, chữ, số, và các danh sách được xử lí b»ng chức năng thần kinh của não
trái. Đây là bán cầu não được sử dụng cho các cơng việc bình thường. Do đó khi
sử dụng nó, tư duy sáng tạo của con người bị giới hạn. Để thực sự trở nên sáng
tạo, chúng cần sử dụng trí tưởng tượng - chức năng hoạt đợng của bán cầu não
phải như sự tri giác màu sắc, hình ảnh, nhịp điệu, không gian.



Với đặc điểm trên, bản đồ tư duy kết hợp hoạt động của hai bán cầu não trái
và não phải. Điều này giải thích vì sao chúng ta có thể phát huy tồn bợ mọi khả
năng tư duy của mình khi sử dụng bản đồ tư duy. Như vậy bản đồ tư duy là một
công cụ hỗ trợ tư duy hiện đại, một kĩ năng sử dụng bộ não rất mới mẻ. Đó là mợt
kĩ thuật hình họa, mợt dạng sơ đồ kết hợp giữa từ ngữ, hình ảnh, đường nét, màu
sắc phù hợp, tương thích với cấu trúc, hoạt động của bộ não, giúp con người khai
thác tiềm năng vô tận của bộ não.
III. Nguyên tắc hoạt động của bản đồ tư duy:
Nguyên tắc hoạt động của bản đồ tư duy đúng theo nguyên tắc liên tưởng “ý
này gợi ý kia” của bợ não. Ở vị trí trung tâm của bản đồ là mợt hình ảnh hay mợt
từ khóa thể hiện một ý tưởng hay một khái niệm chủ đạo. Ý trung tâm đó được nối
với các hình ảnh hay từ khóa cấp 1 bằng các nhánh chính. Từ các nhánh chính đó
lại có sự phân nhánh đến các từ khóa cấp 2 để nghiên cứu sâu hơn. Cứ thế sự phân
nhánh cứ tiếp tục và các khái niệm hay hình ảnh ln được nối kết với nhau.
Chính sự liên kết này tạo ra một bức tranh tổng thể mô tả về ý trung tâm một cách
đầy đủ, rõ ràng.
Sơ đồ minh họa:

IV. Cách lập Bản đồ tư duy:


Theo Tony Buzan, để lập một Bản đồ tư duy gồm có các bước sau:
Bước 1: Vẽ chủ đề ở trung tâm trên một mảnh giấy (đặt nằm ngang) :
Bắt đầu ý tưởng trung tâm ở giữa một tờ giấy trắng, phần giấy trắng xung
quanh dùng để diễn tả các ý chính theo các nhánh nhỏ.Người vẽ sẽ bắt đầu từ
trung tâm với hình ảnh của chủ đề. Diễn đạt ý tưởng trung tâm bằng mợt từ khố,
hình ảnh hay bản vẽ. Có thể dùng từ khóa, kí hiệu , câu danh ngơn, câu nói nào đó
gợi ấn tượng sâu sắc về chủ đề. Theo Tony Buzan, một hình ảnh có thể diễn đạt ý
tưởng tương đương với 1000 từ vựng. Sau đó có thể bổ sung từ ngữ vào hình vẽ

chủ đề nếu chủ đề không rõ ràng. Hình ảnh càng hấp dẫn thì càng làm tinh thần
tập trung, não bộ hoạt động hưng phấn và làm việc hiệu quả hơn.
Sử dụng màu sắc hợp lí khi vẽ. Cũng như hình ảnh, màu sắc trong Bản đồ tư
duy rất quan trọng, màu sắc kích thích đại não hưng phấn, tạo cảm giác vui vẻ,
sống động cho Bản đồ tư duy, từ đó làm tăng khả năng sáng tạo của người dùng.
Bước 2: Vẽ thêm các tiêu đề phụ vào chủ đề trung tâm.
Tiêu đề phụ có thể viết bằng chữ in hoa nằm trên các nhánh to để làm nổi bật. Tiêu
đề phụ được gắn với trung tâm.Tiêu đề phụ nên được vẽ chéo góc để nhiều nhánh
phụ khác có thể được vẽ tỏa ra mợt cách dễ dàng.
Bước 3: Trong từng tiêu đề phụ vẽ thêm các ý chính và các chi tiết hỗ trợ.


Khi vẽ các ý chính và các chi tiết hỗ trợ chỉ nên tận dụng các từ khóa và hình ảnh.
Nên dùng những biểu tượng, cách viết tắt để tiết kiệm khơng gian vẽ và thời gian.
Mỗi từ khóa, hình ảnh nên được vẽ trên một đoạn gấp khúc riêng trên nhánh. Trên
mỗi khúc nên chỉ có tối đa mợt từ khóa.Sau đó nối các nhánh chính cấp 1 đến hình
ảnh trung tâm, nối các nhánh cấp 2 đến các nhánh cấp 1, nối các nhánh cấp 3 đến
các nhánh cấp 2…bằng đường kẻ. Các đường kẻ càng ở gần trung tâm thì càng
được tô đậm hơn. Nên dùng các đường kẻ cong thay vì các đường kẻ thẳng vì
đường kẻ cong được tổ chức rõ ràng sẽ thu hút được sự chú ý của mắt nhiều
hơn.Tất cả các nhánh tỏa ra cùng mợt điểm nên có cùng mợt màu. Chúng ta thay
đổi màu sắc khi đi từ ý chính ra đến các ý phụ cụ thể hơn.
Bước 4: Người viết có thể thêm nhiều hình ảnh nhằm giúp các ý quan trọng
thêm nổi bật cũng như giúp lưu chúng vào trí nhớ tốt hơn.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG, BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ .
I. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU :
Dạy học Giáo dục công dân theo cách tư duy truyền thống:
Việc dạy môn Giáo dục công dân ở các trường Trung học cơ sở của nước ta đã có
mợt quá trình phát triển lâu dài. Trong quá trình đó, đặc biệt là từ năm 2002 đến

nay, với sự cố gắng của đội ngũ giáo viên, các phương pháp dạy học đã được vận
dụng và đã thường xuyên được cải tiến cho phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của nhà
trường Trung học cơ sở ở Việt Nam. Việc làm đó góp phần nâng cao chất lượng
dạy Lịch sử ở các trường Trung học cơ sở .
Mặc dù vậy, phải thừa nhận rằng trong thực tế phương dạy học nói chung ,
phương dạy Giáo dục cơng dân nói riêng ở nhà trường Trung học cơ sở ở Việt
Nam về cơ bản vẫn thuộc quỹ đạo của các phương dạy học có từ hàng trăm năm
nay. Đặc trưng chủ yếu của cách dạy học này là coi giáo viên là trung tâm của quá
trình dạy học, trong đó: Giáo viên lên lớp truyền thụ kiến thức chủ yếu bằng
phương pháp thuyết trình, giảng giải, cịn học sinh thụ đợng tiếp thu theo cách:
thầy giảng – trò nghe, ghi nhớ, làm bài theo mẫu . Cách dạy đó chủ yếu là dạy học


theo kiểu đồng loạt, bình quân. Giaó viên và học sinh đều phụ tḥc vào các tài
liệu sẵn có. Học sinh phải chấp nhận những giá trị đã có ( thường do giáo viên áp
đặt). Cách dạy này dẫn đến nhiều hạn chế:
* Với học sinh:
Thực tế học sinh học m«n Giáo dục cơng dân, các em thường học tập thụ động,
không tự mình phát hiện nên kiến thức tiếp thu khơng được vững. Hầu như các em
chưa có thói quen tìm hiểu, vận dụng, sáng tạo mà chỉ quen nghe, quen ghi chép
những gì mà giáo viên nói. Do bị áp đặt kiến thức, c¸c em khơng nắm được bản
chất của kiến thức, lâu nhớ, mau qn, khơng có khả năng vận dụng kiến thức một
cách linh hoạt, sáng tạo. Phần lớn học sinh khi đọc sách hoặc nghe giảng trên lớp
không biết cách tự ghi chép để lưu thơng tin, lưu kiến thức trọng tâm vào trí nhớ
của mình . Việc học thường ít hứng thú, nợi dung các hoạt đợng học tập đơn điệu,
khiến c¸c em dễ chán, mất tập trung trong giờ học. Năng lực cá nhân của học sinh
ít có điều kiện bợc lợ và phát triển đầy đủ. Hơn nữa chương trình môn Giáo dục
công dân quá rộng, kiến thức nhiều mà giáo viên chưa rút gọn những gì cần truyền
đạt, những gì chỉ giới thiệu qua và những vấn đề nào cần hướng dẫn cho học sinh.
Học sinh không được chuẩn bị đúng mức để hoạt động độc lập và sáng tạo vì ln

lệ tḥc vào người khác, do vậy, khó thích ứng với yêu cầu học tập cao hơn ở các
lớp trên, càng khó thích ứng với c̣c sống xã hợi sau này.
*Đối với giáo viên:
Trong phương pháp dạy học trước đây thì việc dạy học bằng bản đồ tư duy
đã được nhiều giáo viên áp dụng như vẽ sơ đồ hay biểu bảng nhưng ở mức độ đơn
giản và giáo viên áp dụng khơng thường xun. Họ sử dụng nó mợt cách tự phát,
thậm chí như mợt bí quyết cá nhân trong quá trình ôn tập cho học sinh. Khi giảng
dạy mợt tiết có liên quan đến BĐTD rất đơn giản, chỉ cần lấy sẵn mợt tiết nào đó
có ở mạng Internet và chỉnh sửa đôi chút là được và trong giáo án thì không thể
hiện rõ từng bước tiến hành sử dụng BĐTD như thế nào, thông qua BĐTD thì giáo
viên chưa hướng dẫn cụ thể cho học sinh cách thiết kế và sử dụng nắm bắt kiến
thức ở BĐTD ra sao. Bên cạnh đó, giáo viên giảng dạy bợ môn Giáo dục công dân
này thường kiêm nghiệm hai phân môn như Văn- Giáo dục công dân; Sử - Giáo
dục cơng dân…Chính vì vậy mà thời gian dành cho bợ môn này chưa đủ dẫn đến


bài giảng khô khan, đơn điệu, qua loa, một số giáo viên chưa thật sự chú trọng và
còn tẻ nhạt với phương pháp dạy học này. Với cách dạy truyền thống đó, phần lớn
học sinh học Giáo dục cơng dân theo kiểu đối phó do cách dạy thuần tuý đọc
chộp. Giáo viên lm viờc mụt cỏch mỏy múc, ớt có nhu cầu và cơ hợi để phát huy
khả năng sáng tạo của nghề dạy học, nâng cao trình độ bn thõn. Giáo viên khú
nm bt c trinh ụ, kh năng tư duy của từng học sinh để có thể giúp đỡ các
em yếu kém theo kịp trình độ chung của cả lớp và phát hiện, bồi dưỡng những em
khá, giỏi. Qua điều tra khảo sát, phỏng vấn đối tượng hầu hết các em đều cho
rằng: Trong một tiết học các em chưa thật sự phát huy tính năng đợng sáng tạo. Vì
thế mà kết quả, chất lượng học tập của các em cịn rất khiêm tốn.
Tóm lại, dạy học Giáo dục công dân theo phương pháp cũ đã cản trở việc
đào tạo những người lao động năng động, tự tin, linh hoạt, sáng tạo, sẵn sàng thích
ứng với những đổi mới diễn ra hàng ngày. Từ những thực trạng nêu trên, yêu cầu
giáo dục mới đòi hỏi phải chuyển sang phương pháp dạy học nhằm tích cực hóa

các hoạt động học tập của học sinh, tạo điều kiện cho giáo viên và học sinh đều
tham gia tích cực vào quá trình dạy học.
II. GIẢI PHÁP VẬN DỤNG BẢN ĐỒ TƯ DUY TRONG MÔN GDCD :
1.Bản chất phương pháp dạy học bằng BĐTD:
BĐTD là kĩ thuật dạy học tổ chức và phát triển tư duy giúp người học chuyển
tải thông tin vào bợ não rồi được thơng tin ra ngồi bộ não một cách dễ dàng, đồng
thời là phương tiện ghi chép sáng tạo và hiệu quả, mở rộng, đào sâu và kết nối các
ý tưởng, bao quát được các ý tưởng trên phạm vi sâu rợng. Có thể so sánh 2 cách
tư duy và 2 cách biểu hiện sau:
Cách biểu hiện

Tư duy truyền thống Tư duy bằng bản đồ

Đường nét

Thẳng

Nhiều loại

Màu sắc

Khơng



Ngơn ngữ

Nhiều

Chắt lọc



Hình ảnh
Khơng gian định hướng
phát triển.

Khơng



Đơn hướng

Đa hướng

Dạy học bằng Bản đồ tư duy - mợt giải pháp góp phần đổi mới cơ bản giáo dục.
1.1 BĐTD tận dụng được các ngun tắc của trí nhớ siêu đẳng:
1.1.1. Sự hình dung: BĐTD có rất nhiều hình ảnh để học sinh hình dung về kiến
thức cần nhớ. Đây là một trong những nguyên tắc quan trọng nhất của trí nhớ siêu
đẳng. Đối với não bộ, BĐTD giống như một bức tranh lớn đầy hình ảnh màu sắc
phong phú hơn là một bài học khô khan, nhàm chán.


1.1.2. Sự liên tưởng, tưởng tượng:
BĐTD hiển thị sự liên kết giữa các ý tưởng một cách rất rõ ràng.

1.1.3. Làm nổi bật sự việc: Thay cho những từ ngữ tẻ nhạt đơn điệu, Sơ
BĐTD cho phép giáo viên và học sinh làm nổi bật các ý tưởng trọng tâm bằng
việc sử dụng những màu sắc, kích cỡ, hình ảnh đa dạng. Hơn nữa, việc BĐTD



dùng rất nhiều màu sắc khiến giáo viên và học sinh phải vận dụng trí tưởng tượng
sáng tạo đầy phong phú của mình. Nhưng đây không chỉ là một bức tranh đầy màu
sắc sặc sỡ thông thường, BĐTD giúp tạo ra mợt bức tranh mang tính lý luận, liên
kết chặt chẽ về những gì được học.
1.2. BĐTD sử dụng cả hai bán cầu não cùng một lúc:
BĐTD thật sự giúp chúng ta tận dụng các chức năng của não trái lẫn não
phải khi học. Đây chính là cơng cụ học tập vận dụng được sức mạnh của cả bộ
não. Nếu vận dụng đúng cách, nó sẽ hồn tồn giải phóng những năng lực tiềm ẩn
trong chúng ta, đưa chúng ta lên một đẳng cấp mới, đẳng cấp của một tài năng
thực thụ hay thậm chí của mợt thiên tài.

2. Vận dụng BĐTD trong q trình dạy học Giáo dục cơng dân:
2.1. Giáo viên sử dụng BĐTD để hỗ trợ quá trình dạy học:
2.1.1. Dùng BĐTD để kiểm tra bài cũ:
- Dạng 1: Có thể lập bản đồ tư duy dạng điền vào ô trống, điền khuyết, lắp
ráp hoặc cho HS sắp xếp thứ tự các ý… để kiểm tra kiến thức cũ của HS .điền và


- Dạng 2: GV có thể biến hóa điền vào ô trống thành các nhánh hoa, các
bông hoa, bong bóng, các hợp bí mật…với đầy sắc màu để kiểm tra nhưng cũng
chính là giúp các em khắc họa các hình ảnh này vào tâm trí, ghi nhớ kiến thức cũ
lâu hơn.DDạng

1: - Có thể lậ

g,
2.1.2. Dùng BĐTD để dạy bài mới:
Sử dụng bản đồ tư duy là một gợi ý cho cách trình bày. Giáo viên thay vì
gạch chân đầu dòng các ý cần trình bày lên bảng thì sử dụng BĐTD để thể hiện
mợt phần hoặc tồn bợ nợi dung bài học một cách rất trực quan.



Mơn GDCD hầu như bài nào cũng có phần khái niệm, phần biểu hiện, ý
nghĩa, rèn luyện của HS. GV có thể sử dụng BĐTD để dạy mợt phần, hai phần
hoặc ba phần của các nội dung ấy tùy theo ý thích và nợi dung của bài.
Ví dụ: Dạy phần I.Đặt vấn đề ( Khám khá) GDCD 9 bài “Chí cơng vơ tư”

Ví dụ: GDCD 9 bài “Chí cơng vơ tư” bằng MindMap để dạy một phần khái
niệm “ Thế nào là chí cơng vơ tư” .

Sơ đồ minh hoạ


Ví dụ: GDCD 7 bài “ Nhà nước cợng hịa xã hợi chủ nghĩa Việt Nam”, Gv
có thể sử dụng bản đồ tư duy dưới đây khi dạy phần 1. Thông tin, sự kiện. Nhằm
giúp học sinh ghi nhớ nhanh, không lẫn lộn về sự phân cấp, phân công của Bợ
máy Nhà nước Cợng hịa XHCN Việt Nam.


Ví dụ: Trước khi học bài mới “Giản dị” (mơn Giáo dục cơng dân 6) GV có
thể gợi ý cho HS vẽ BĐTD bằng từ khóa “giản dị” sau đó cho các em thảo luận để
vẽ tiếp các nhánh và bổ sung dần các ý nhỏ, dẫn đến việc các em tự chiếm lĩnh
kiến thức mới một cách nhẹ nhàng, tự nhiên nhưng lại rất hiệu quả đồng thời kích
thích hứng thú học tập của HS.

Ví dụ: Bản đồ tư duy khi dạy bài “ Mục đích học tập của học sinh” (GDCD 6)


Sau khi giới thiệu xong nội dung kiến thức cần nắm trong bài học, giáo viên
có thể tổ chức cho học sinh làm việc theo cá nhân hoặc theo nhóm nhỏ, dựa vào

nợi dung trong sách giáo khoa để hồn thành bài tập. Cuối cùng, giáo viên cùng
học sinh hoàn thiện được một bản đồ tư duy kiến thức theo ý muốn của mình, kết
quả có thể như sau:


2.1.3. Dùng BĐTD để củng cố kiến thức sau mỗi tiết học và hệ thống kiến
thức sau mỗi chương, phần…:
Sau khi cho HS đọc truyện đọc trong sách giáo khoa hoặc xem một đoạn phim,
tư liệu, tranh ảnh ( tùy theo nợi dung mỗi bài); GV có thể dẫn dắt HS khám phá
nội dung bằng một BĐTD giúp các em dễ khám phá ra vấn đề hơn, khai thác nội
dung mợt cách nhanh chóng và dễ hiểu hơn.


Ví dụ: GDCD 9, BÀI “ Vi phạm pháp luật và tách nhiệm pháp lí của cơng
dân”. Vẽ trên IMindMap

Đặc biệt, sau mỗi bài học, giáo viên hướng dẫn, gợi ý để học sinh tự hệ
thống kiến thức trọng tâm, kiến thức cần nhớ của bài học bằng cách vẽ BĐTD.
Mỗi bài học được vẽ kiến thức trên một trang giấy rời rồi kẹp lại thành tập. Việc
làm này sẽ giúp các em dễ ôn tập, xem lại kiến thức khi cần một cách nhanh
chóng, dễ dàng.
Ví dụ khi dạy bài “Lễ đợ” trong môn Giáo dục công dân lớp 6, giáo viên tổ
chức cho học sinh lập BĐTD theo nhóm hoặc cá nhân, gợi ý cho các em tìm các
biểu hiện lễ độ, các biểu hiện thiếu lễ độ, tìm trong thực tế, sách báo về các gương
lễ độ, kế hoạch rèn luyện của bản thân,... để các em lập BĐTD với từ khóa “ Lễ
đợ” ở trung tâm. Tiếp theo cho các nhóm học sinh trình bày, thuyết minh về
BĐTD của mình, cả lớp thảo luận, góp ý kiến, giáo viên kết luận dẫn đến kiến
thức mới. ccủa bản thân,…để các em lập BĐTD với từ khóa “ lễ đợ” ởnóa “ lễ đ



BĐTD với từ khóa “ Lễ độ” do học sinh lớp 6 vẽ.
- BĐTD liên kết toàn bài, học kỳ : với BĐTD, giáo viên có thể yêu cầu HS nhắc
lại tồn bợ nợi dung chính trong bài, giúp các em khắc họa kiến thức đã học một
cách vừa logic, vừa dễ nhớ nhất. Ví dụ: tiết ơn tập HKI, lớp 6 sau đây.


×