Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm, SKKN - Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy - học môn Địa lí ở trường THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.59 MB, 42 trang )

Đề tài: “Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy – học môn Địa Lý ở trường THCS”
PHẦN MỤC LỤC
STT

1

NỘI DUNG

TRANG

Phần mục lục
Phần thứ nhất: Đặt vấn đề
I. Lí do chọn đề tài
II. Cơ sở lí luận của vấn đề nghiên cứu

1
2-8
2

1. Đặc điểm môn Địa Lý

4

2. Khái niệm, vai trò bản đồ tư duy

4

III. Cơ sở thực tiễn của vấn đề nghiên cứu
Phần hai: Giải quyết vấn đề
I. Giải pháp cũ thường làm
II. Giải pháp mới cải tiến:


2

3
4
5
6
7
8

7
8 - 23
8

1. Ưu, nhược điểm khi sử dụng BĐTD

11

2. Các giải pháp để sử dụng BĐTD trong dạy học Địa lý

13

3. Một số lưu ý khi sử dụng BĐTD trong dạy học địa lý

22

Phần ba: Kết luận
I. Ý nghĩa quan trọng của đề tài
II. Bài học kinh nghiệm
III. Khả năng ứng dụng, triển khai
Lời kết thúc vấn đề

Đánh giá của các hội đồng khoa học
Danh mục viết tắt
Tài liệu tham khảo
Phụ Lục:

24 - 26
24
25
25
26
27
28
29

Giáo án minh họa

30

Sản phẩm của học sinh

38

A. TÊN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
“ Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy - học mơn Địa lí ở trường THCS”
B. TÁC GIẢ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
1. Họ và tên: Trần Kim Thoa
- Trình độ chun mơn: Đại học sư phạm Địa lí
- Chức vụ: Phó hiệu trưởng
Người thực hiện: Kim Thoa, Thùy Dương


1

Trường THCS Ninh Mỹ


Đề tài: “Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy – học môn Địa Lý ở trường THCS”
- Đơn vị: Trường THCS Ninh Mỹ
2. Họ và tên: Phạm Thị Thùy Dương
- Trình độ chun mơn: Đại học sư phạm Địa lí
- Chức vụ: Giáo viên
- Đơn vị: Trường THCS Ninh Mỹ
C. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
PHẦN THỨ NHẤT: ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Nghị quyết TW4 khóa VII đã chỉ rõ phải “Đổi mới phương pháp dạy học
ở tất cả các cấp, bậc học. Kết hợp học với hành, học tập với lao động sản xuất,
thực nghiệm và nghiên cứu khoa học, gắn nhà trường với xã hội. Áp dụng
những phương pháp giáo dục hiện đại để bồi dưỡng cho HS năng lực tư duy
sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề”.
Nghị quyết TW2 khóa VIII tiếp tục khẳng định phải “Đổi mới phương
pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành
nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên
tiến và phương pháp hiện đại vào quá trình dạy học, bảo đảm điều kiện và thời
gian tự học, tự nghiên cứu cho HS”
Định hướng đổi mới PPDH hiện nay là tích cực hố hoạt động học tập
của HS. Tích cực hố hoạt động học tập là quá trình làm cho người học trở
thành chủ thể tích cực trong hoạt động học tập của chính họ. Để phát huy tính
tích cực của học sinh, giáo viên cần tạo điều kiện để học sinh suy nghĩ nhiều hơn,
làm việc thảo luận nhiều hơn, được phát biểu quan điểm của mình, được đưa ra

những nhận xét về vấn đề đang bàn luận... được tham gia vào quá trình học tập
chiếm lĩnh kiến thức. Cùng với các mơn học khác, bên cạnh việc chú ý phát triển
ở HS các kĩ năng bộ môn như kĩ năng làm việc với các thiết bị dạy học, các
nguồn tư liệu địa lí...thì việc rèn các kĩ năng sống như kĩ năng làm việc độc lập,

Người thực hiện: Kim Thoa, Thùy Dương

2

Trường THCS Ninh Mỹ


Đề tài: “Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy – học mơn Địa Lý ở trường THCS”
làm việc nhóm, kĩ năng trình bày, giải quyết vấn đề...là rất quan trọng, nhưng
quan trọng không kém là phát triển kĩ năng tư duy cho HS.
Xuất phát từ định hướng đổi mới phương pháp dạy học hiện nay, buộc
người giáo viên phải áp dụng các phương pháp dạy học tích cực. Việc rèn luyện
phương pháp học tập cho HS không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy
học mà còn là mục tiêu dạy học. Hiện nay, một trong những phương pháp dạy học
tích cực là phương pháp dạy học bằng bản đồ tư duy.
Việc sử dụng BĐTD giúp GV và HS đổi mới PPDH, giúp HS học tập tích
cực, đó chính là một trong những cách làm thiết thực triển khai nội dung dạy học
có hiệu quả - một trong năm nội dung của phong trào thi đua “Xây dựng trường
học thân thiện, HS tích cực” mà Bộ GD&ĐT phát động.
Mơn địa lí là mơn học có khối lượng kiến thức cần HS ghi nhớ rất nhiều,
cần có kĩ năng khai thác cả kênh hình và kênh chữ do vậy để hình thành cho các
em tư duy mạch lạc, hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc, có cách nhìn vấn đề một
cách tổng thể, khoa học chứ khơng phải là học vẹt, học thuộc lòng, HS hiểu bài,
nhớ lâu, vận dụng tốt thì cần phải vận dụng BĐTD trong dạy hoc. Hơn nữa, khối
lượng kiến thức ngày càng tăng theo cấp số nhân, vì vậy sử dụng BĐTD rèn cho

các em khả năng tư duy logic để có thể vận dụng vào cuộc sống và công việc sau
này khi các em lớn lên, trưởng thành.
Chính vì những lí do trên, qua thời gian tìm hiểu và khảo sát trong giáo
viên – học sinh, đúc rút từ kinh nghiệm cá nhân, chúng tôi đã đi sâu nghiên cứu,
tập trung trao đổi, thảo luận với các đồng nghiệp, dạy khảo nghiệm với tất cả các
khối lớp, từ đó chúng tơi đã mạnh dạn thực hiện SKKN " Sử dụng bản đồ tư
duy trong dạy - học mơn địa lí ở trường THCS”.
II. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1. Đặc điểm môn Địa lý
Quán triệt những đổi mới về mục tiêu chương trình Địa lí THCS được thiết
kế thành 3 mảng lớn có quan hệ chặt chẽ với nhau. Các bộ phận cơ bản này của
chương trình có mục đích cung cấp cho học sinh các kiến thức cơ bản về:

Người thực hiện: Kim Thoa, Thùy Dương

3

Trường THCS Ninh Mỹ


Đề tài: “Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy – học môn Địa Lý ở trường THCS”
+ Trái Đất - Môi trường sống của con người ( cấu tạo, vận động, các thành
phần tự nhiên và tác động qua lại giữa chúng, một số quy luật của môi trường tự
nhiên trên Trái đất)
+ Thiên nhiên con người ở các Châu lục (Các hoạt động của dân cư trên
Trái Đất, mối quan hệ giữa dân cư, hoạt động sản xuất và môi trường, đặc điểm tự
nhiên, dân cư, kinh tế - xã hội của một số khu vực, quốc gia trên thế giới)
+ Địa lí Việt Nam ( đặc điểm tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên, dân cư, kinh
tế - xã hội của đất nước, của các vùng nơi HS đang sinh sống)

Tất cả những kiến thức này đều có mối quan hệ và tác động lẫn nhau, đòi
hỏi ở người học không chỉ khả năng tiếp nhận thông tin đơn thuần mà cần biết
phân tích, so sánh liên kết các vấn đề, hệ thống được kiến thức, suy nghĩ sáng tạo,
tóm tắt thơng tin của một bài học, hệ thống hố kiến thức đã học... Một trong
những cơng cụ hữu hiệu để tạo nên hình ảnh liên kết đó là BĐTD
2. Khái niệm, vai trò của bản đồ tư duy

2.1. Khái niệm:
Bản đồ tư duy (BĐTD) còn gọi là sơ đồ tư duy, lược đồ tư duy,… là hình
thức ghi chép nhằm tìm tịi, đào sâu, mở rộng một ý tưởng, tóm tắt những ý chính
của một nội dung, hệ thống hóa một chủ đề hay một mạch kiến thức bằng cách
kết hợp việc sử dụng đồng thời hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết với sự tư
duy tích cực.
BĐTD là một sơ đồ mở, khơng u cầu tỉ lệ, chi tiết chặt chẽ như bản đồ
địa lí, có thể vẽ thêm hoặc bớt các nhánh, mỗi người vẽ một kiểu khác nhau, dùng
màu sắc, hình ảnh, các cụm từ diễn đạt khác nhau, cùng một chủ đề nhưng mỗi
người có thể “thể hiện” nó dưới dạng BĐTD theo một cách riêng, do đó việc lập
BĐTD phát huy được tối đa khả năng sáng tạo của mỗi người.
2.2. Vai trị:
BĐTD - một cơng cụ tổ chức tư duy nền tảng, có thể miêu tả nó là một kỹ
thuật hình hoạ với sự kết hợp giữa từ ngữ, hình ảnh, đường nét, màu sắc phù hợp
với cấu trúc, hoạt động và chức năng của bộ não giúp con người khai thác tiềm
Người thực hiện: Kim Thoa, Thùy Dương

4

Trường THCS Ninh Mỹ


Đề tài: “Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy – học môn Địa Lý ở trường THCS”

năng vô tận của bộ não. Có thể vận dụng BĐTD vào hỗ trợ dạy học kiến thức
mới, củng cố kiến thức sau mỗi tiết học, ơn tập hệ thống hóa kiến thức sau mỗi
chương, mỗi học kỳ... ở nhiều môn học và giúp cán bộ quản lý giáo dục lập kế
hoạch công tác
BĐTD kế thừa mở rộng ở mức độ cao hơn của việc lập bảng biểu, sơ đồ.
Học sinh tự ghi chép kiến thức trên BĐTD bằng từ khóa, ý chính, cụm từ viết tắt
và các đường liên kết, ghi chú....bằng các màu sắc, hình ảnh, chữ viết. Khi tự ghi
theo cách hiểu của chính mình, HS sẽ chủ động hơn, dễ mở rộng đào sâu ý tưởng.
Mỗi người ghi theo một cách khác nhau khơng dập khn máy móc dễ phát triển
ý tưởng bằng cách vẽ thêm nhánh, phát huy được sáng tạo. Người học ln có
được niềm vui trước " sản phẩm kiến thức hội họa" do tự mình làm ra dưới sự
hướng dẫn của giáo viên và hợp tác của tập thể.
BĐTD có mối quan hệ chặt chẽ và thống nhất với sách giáo khoa. Sách
giáo khoa là cơ sở để học sinh tiếp nhận kiến thức, cùng với việc sử dụng và khai
thác kiến thức từ thiết bị dạy học giúp học sinh hiểu bài và thể hiện lại sự hiểu
biết ấy thơng qua BĐTD. Đây cịn là một kênh thông tin phản hồi rất thiết thực từ
học sinh đối với giáo viên. Giáo viên có thể dựa vào đó để nắm bắt được lượng
thơng tin mà học sinh tiếp nhận được, từ đó có hướng điều chỉnh đối với cả học
sinh và cách dạy của chính mình cho phù hợp.
Việc lập BĐTD có thể do từng cá nhân hoặc một nhóm, BĐTD vừa mang
đậm dấu ấn cá nhân vừa thể hiện được ý tưởng sáng tạo của cả tập thể do đó vận
dụng BĐTD và dạy học phát huy được tính tích cực, sáng tạo của HS là một trong
những cách làm tốt góp phần đổi mới PPDH.
Sử dụng BĐTD sẽ dễ dàng hơn trong việc phát triển ý tưởng, tìm tịi xây
dựng kiến thức mới. Nhờ sự liên kết các nét vẽ cùng với màu sắc thích hợp và
cách diễn đạt riêng của mỗi người, BĐTD giúp bộ não liên tưởng, liên kết các
kiến thức đã học trong sách vở, đã biết trong cuộc sống… để phát triển, mở rộng
ý tưởng. Sau khi HS tự thiết lập BĐTD kết hợp việc thảo luận nhóm dưới sự gợi

Người thực hiện: Kim Thoa, Thùy Dương


5

Trường THCS Ninh Mỹ


Đề tài: “Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy – học môn Địa Lý ở trường THCS”
ý, dẫn dắt của GV dẫn đến kiến thức của bài học một cách nhẹ nhàng, tự nhiên.
Vì vậy thiết kế, sử dụng bản đồ tư duy góp phần đổi mới phương pháp dạy học.
Một số kết quả nghiên cứu khoa học cho thấy, bộ não của con người sẽ hiểu
sâu, nhớ lâu và in đậm điều mà do chính mình tự suy nghĩ, tự viết, vẽ ra theo suy
nghĩ của mình, vì vậy, việc sử dụng BĐTD huy động tối đa tiềm năng của bộ não
giúp HS học tập một cách tích cực, là biện pháp hỗ trợ đổi mới PPDH một cách
hiệu quả. Việc HS lập BĐTD còn giúp các em phát triển khả năng thẩm mỹ, do
việc thiết kế nó phải có bố cục màu sắc, các đường nét, các nhánh sao cho đẹp,
sắp xếp các ý tưởng một cách khoa học, súc tích, hợp lý, trực quan, dễ hiểu, dễ
“đọc”, dễ tiếp thu.
Có thể vận dụng BĐTD trong dạy học đối với các đối tượng HS khác nhau:
- Đối với HS trung bình: để tập cho HS có thói quen tự ghi chép hay tổng
kết một vấn đề, một chủ đề đã đọc, đã học theo cách hiểu của các em dưới dạng
BĐTD. Cho HS tập “đọc hiểu” và tự vẽ BĐTD sau từng bài học. Ban đầu, GV
cho các em làm quen với một số BĐTD có sẵn, sau đó tập cho các em vẽ bằng
cách cho một chủ đề chính, vẽ vào vị trí trung tâm rồi đặt câu hỏi gợi ý để HS tiếp
tục vẽ các nhánh cấp 1, cấp 2, cấp 3... Hướng dẫn để các em tự hệ thống kiến thức
trọng tâm, kiến thức cần nhớ của mỗi bài học vào một trang giấy. Có thể vẽ chung
trên một cuốn vở hoặc để thành từng trang rồi kẹp thành một tập. Mỗi bài học
được vẽ kiến thức trọng tâm trên một trang giấy giúp các em dễ ôn tập, xem lại
kiến thức khi cần, chỉ cần rút tờ BĐTD của bài đó ra là các em nhanh chóng ơn
lại kiến thức một cách dễ dàng. Cách làm này rèn luyện cho bộ óc các em hướng
tới cách suy nghĩ logic, mạch lạc và cũng là cách giúp các em hiểu bài, ghi nhớ

kiến thức vào não chứ khơng phải là học thuộc lịng, học vẹt.
- Đối với HS khá giỏi: Sử dụng BĐTD để tìm cách giải quyết một vấn đề,
hay hệ thống hố kiến thức của một chương, một phần, một cuốn sách gúp các em
ghi nhớ, ôn tập, liên kết các mạch kiến thức đã học... hoặc lập kế hoạch học tập,
vạch kế hoạch cho bản thân để biến ước mơ thành hiện thực trong tương lai...
III. CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

Người thực hiện: Kim Thoa, Thùy Dương

6

Trường THCS Ninh Mỹ


Đề tài: “Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy – học môn Địa Lý ở trường THCS”
Việc áp dụng BĐTD trong dạy – học môn địa lý ở trường THCS có những
thuận lợi và khó khăn sau:
1. Thuận lợi:
Trong các môn học, HS đã được học môn Mỹ thuật, được trang bị những
kiến thức và kỹ năng về hội hoạ. Đó là điều kiện thuận lợi để các em thiết kế sơ
đồ tư duy trong bài học Địa lí.
Bản đồ tư duy được sử dụng phù hợp với mọi điều kiện cơ sở vật chất của
nhà trường, lớp học. GV có thể thực hiện trên bảng phấn, trên vở, trên giấy,...
hoặc có thể thiết kế trên phần mềm. Khai thác tính năng và sử dụng bản đồ tư duy
có hiệu quả là góp phần đổi mới phương pháp dạy học và ứng dụng công nghệ
thông tin một cách dễ dàng và thiết thực.
Hiện nay cơ sở vật chất trang thiết bị của nhiều trường tương đối đầy đủ
thuận lợi cho giáo viên khi lựa chọn và vận dụng các phương pháp giảng dạy tích
cực. Mơn địa lí là một trong những môn thi học sinh giỏi cấp tỉnh, nên được sự
quan tâm chỉ đạo sâu sát của nhà trường, sự chú ý của học sinh.

2. Khó khăn:
Qua q trình giảng dạy, chúng tơi nhận thấy, nhiều HS cịn coi nhẹ bộ
môn, coi đây là môn phụ nên chưa hứng thú với môn học, chưa dành nhiều thời
gian cho môn học nên giáo viên rất khó khăn trong việc truyền đạt kiến thức, đổi
mới phương pháp dạy học. Với đặc thù mơn học, Địa lí có nhiều nội dung từ tự
nhiên đến kinh tế - xã hội, với khối lượng kiến thức lớn nên học sinh khơng nhớ
nổi tồn bộ kiến thức, phần lớn các em chỉ học thuộc lòng hay nhớ máy móc.
Khó khăn lớn nhất là trong một tiết học Địa lí là trong vịng 45 phút giáo
viên phải rèn luyện nhiều kĩ năng địa lí để khai thác tri thức và phát triển tư duy
trong quá trình học tập. Học sinh phải hệ thống hóa được kiến thức đã học, đặc
biệt là mối quan hệ giữa các yếu tố địa lí. Thế nên việc hướng dẫn học sinh vẽ bản
đồ tư duy, rèn luyện kĩ năng sử dụng bản đồ tư duy cịn gặp khó khăn.
Về phía giáo viên, vẫn cịn một số ít giáo viên chưa chú ý đến việc đổi mới

Người thực hiện: Kim Thoa, Thùy Dương

7

Trường THCS Ninh Mỹ


Đề tài: “Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy – học môn Địa Lý ở trường THCS”
phương pháp dạy học, chưa tích cực hố hoạt động của học sinh tạo điều kiện cho
các em suy nghĩ, chiếm lĩnh và nắm vững kiến thức như vẫn còn sử dụng phương
pháp dạy học “thầy nói, trị nghe ”, “thầy đọc, trị chép ”. Do đó nhiều học sinh
chưa nắm vững được kiến thức mà chỉ học thuộc một cách máy móc, trả lời câu
hỏi thì nhìn vào sách giáo khoa hồn tồn ...
Một số giáo viên cịn lúng túng trong việc sử dụng bản đồ tư duy, trong tiết
dạy có sử dụng BDTD nhưng khơng biết khi nào thì sử dụng, sử dụng trong các
hoạt động cụ thể như thế nào.Việc sử dụng phần mềm vẽ BĐTD, GV cịn gặp khó

khăn khi điều kiện về thiết bị, kinh phí chưa đảm bảo hay do trình độ tin học của
giáo viên cịn hạn chế.
PHẦN HAI: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. GIẢI PHÁP CŨ THƯỜNG LÀM:

Trước đây, trong quá trình dạy học địa lý, chúng tơi dùng nhiều phương
pháp khác nhau như nhóm các phương pháp dùng lời (diễn giảng, đàm thoại…),
nhóm các phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan (tranh ảnh, bản đồ, lược đồ,
quả địa cầu…)
Theo nhóm các phương pháp dùng lời, trong các tiết dạy Địa lí, chúng tơi
dùng lời nói của mình, vừa thuật lại, vừa giảng về các sự kiện, hiện tượng địa lý
một cách có hệ thống hay dùng lời nói để giải thích các hiện tượng địa lý. Ví dụ
như thuật lại diễn biến của một trận động đất, rồi qua đó phân tích những tác hại
của động đất đối với đời sống; giải thích hiện tượng thủy triều…Ngồi ra, chúng
tơi cũng khéo léo đặt hệ thống câu hỏi để học sinh trả lời nhằm gợi mở cho HS
sáng tỏ các vấn đề mới, tự khám phá tri thức mới bằng sự tái hiện những kiến
thức đã học hoặc từ những kinh nghiệm được tích lũy trong cuộc sống.
Sử dụng nhóm phương pháp dùng lời có một số ưu điểm sau:
Trước hết, nó có khả năng cung cấp cho HS một lượng thông tin lớn trong
một thời gian ngắn. Nếu như lời lẽ trình bày của giáo viên trong sáng, truyền
cảm
có nội dung khoa học, chính xác, có logic chặt chẽ thì bài giảng cũng có sức hấp

Người thực hiện: Kim Thoa, Thùy Dương

8

Trường THCS Ninh Mỹ



Đề tài: “Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy – học môn Địa Lý ở trường THCS”
dẫn HS, giúp các em tiếp thu được tri thức một cách nhẹ nhàng, thoải mái.
Tuy nhiên, nhược điểm của phương pháp này qua các tiết dạy địa lí là:
Hạn chế năng lực chủ động, sáng tạo của HS trong việc lĩnh hội kiến thức,
giờ dạy dễ đơn điệu, buồn tẻ, kiến thức thiên về lý luận, ít chú ý đến kỹ năng thực
hành của người học; do đó kỹ năng vận dụng kiến thức địa lí để giải quyết các
tình huống trong đời sống thực tế bị hạn chế. Đây cũng là những kỹ năng rất cần
thiết trong dạy học theo hướng phát triển năng lực cho học sinh đang hướng tới.
Trong quá trình dạy học địa lý, việc sử dụng các phương tiện trực quan có
một ý nghĩa quan trọng vì vậy chúng tôi đã sử dụng chúng một cách thường
xuyên trong các giờ dạy địa lí như: tranh ảnh giáo khoa về địa lý, các mơ hình,
mẫu vật, các loại bản đồ, biểu đồ, sơ đồ, phim ảnh… và chúng tôi đã dùng các
phương tiện trực quan này để vừa giảng, vừa minh họa những kiến thức địa lý
hoặc dùng câu hỏi hướng dẫn HS quan sát các phương tiện trực quan và yêu cầu
giải thích các kiến thức trong bài, làm sáng tỏ những mối liên hệ giữa các sự vật,
hiện tượng địa lý.
Việc sử dụng các phương tiện trực quan cịn có thể giúp HS có thể hình
dung được các đối tượng địa lý, đặc biệt là các đối tượng địa lý mà các em khơng
có điều kiện quan sát trực tiếp, HS dễ dàng lĩnh hội các kiến thức từ giáo viên qua
việc tri giác trực tiếp với đối tượng. Trong quá trình sử dụng các phương tiện trực
quan, chúng tôi thường dùng phương pháp đàm thoại để hướng dẫn HS quan sát,
tập trung chú ý những chi tiết quan trọng. Vì vậy trong quá trình lĩnh hội tri thức
phải vừa quan sát, vừa suy nghĩ, trả lời các câu hỏi của giáo viên mà các em
không hoàn toàn thụ động lĩnh hội kiến thức từ người thầy. Tuy nhiên, trong q
trình dạy địa lí chúng tơi thấy nếu không sử dụng các phương tiện trực quan đúng
lúc, đúng chỗ sẽ làm cho HS giảm hứng thú và phân tán tư tưởng.
Hiện nay việc đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá theo định
hướng phát triển năng lực cho học sinh thì việc vận dụng khéo léo và sáng tạo
phương pháp sử dụng phương tiện trực quan trong một tiết dạy địa lí càng có một


Người thực hiện: Kim Thoa, Thùy Dương

9

Trường THCS Ninh Mỹ


Đề tài: “Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy – học mơn Địa Lý ở trường THCS”
vai trị quan trọng góp phần đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá
bộ mơn địa lí.
Gần đây, các tiết ôn tập chương chúng tôi thường dùng phương pháp cho
học sinh lập bảng biểu, vẽ sơ đồ, biểu đồ,… khi sử dụng phương pháp này chúng
tôi thấy học sinh cả lớp có chung cách trình bày giống như cách của GV hoặc của
tài liệu, chứ không phải do HS tự xây dựng theo cách hiểu của mình, hơn nữa, các
bảng biểu đó chưa chú ý đến hình ảnh, màu sắc và đường nét; với cách học này
học sinh chưa có sự chủ động trong lĩnh hội kiến thức.
Hơn nữa việc ghi chép thông tin bằng các ký tự, đường thẳng, con số đơn
thuần chúng ta mới chỉ sử dụng một nửa của bộ não - não trái, mà chưa sử dụng
kỹ năng bên não phải, nơi giúp chúng ta xử lý các thông tin về nhịp điệu, màu
sắc, không gian....và cách ghi chép thơng thường khó nhìn được tổng thể của cả
vấn đề.
Ví dụ: Trước đây, khi dạy bài 35 Vùng Đồng bằng Sông Cửu Long (Địa lý
9), để HS có thể phân tích được những thuận lợi và khó khăn về tự nhiên của ĐB
SCL, chúng tôi thường sơ đồ hóa kiến thức bằng sơ đồ cấu trúc như sau:

Đồng bằng sơng Cửu Long
Thuận lợi

Khó khăn


Mùa
mưa
ngập
úng;
mùa
khơ
thiếu
nước

Diện
tích đất
nhiễm
mặn,
nhiễm
phèn
lớn

Khí
hậu
cận
xích
đạo
nóng
ẩm

Người thực hiện: Kim Thoa, Thùy Dương

Diện
tích
lớn,

địa
hình
bằng
phẳng

10

Đất
phù
sa có
diện
tích
lớn

Rừng
ngập
mặn

diện
tích
lớn

Sinh
vật,
nguồn
lợi hải
sản
phong
phú


Trường THCS Ninh Mỹ


Đề tài: “Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy – học môn Địa Lý ở trường THCS”
Việc hệ thống hóa kiến thức như trên thì giáo viên mới chỉ đóng vai trị là
người cung cấp cho HS những kiến thức cơ bản về những điều kiện thuận lợi và
khó khăn của vùng Đồng bằng sơng Cửu Long, cịn HS là những người thụ động
lĩnh hội các kiến thức, do đó các em sẽ khơng hiểu và ghi nhớ sâu sắc cũng như
khó có cái nhìn tổng qt về nội dung kiến thức này.
Trên đây là những mô tả chi tiết của giải pháp cũ chúng tôi thường sử dụng
trong giảng dạy mơn địa lí, qua q trình thực nghiệm chúng tôi nhận thấy các
giải pháp này bên cạnh những ưu điểm nêu trên thì vẫn cịn bộc lộ những nhược
điểm nhất định, việc sử dụng BĐTD sẽ khắc phục được những nhược điểm này.
II. GIẢI PHÁP MỚI CẢI TIẾN: ÁP DỤNG BẢN ĐỒ TƯ DUY TRONG DẠY - HỌC
MÔN ĐỊA LÍ:

Dạy học bằng bản đồ tư duy là một phương pháp dạy học hiệu quả
trong quá trình dạy học đã và đang được áp dụng rộng rãi trong các mơn
học. Đặc biệt, phương pháp này đã góp phần đổi mới cách tổ chức dạy học
của giáo viên đồng thời góp phần bồi dưỡng năng lực tự học cho học sinh
phù hợp với các mục tiêu đổi mới phương pháp dạy học: dạy học theo
hướng hoạt động học tập chủ động, chống lại thói quen học tập thụ động.
Qua thực tế áp dụng phương pháp này trong các tiết dạy địa lý chúng tơi
thấy BĐTD có những ưu, nhược điểm như sau:
1. Ưu, nhược điểm của BĐTD:
1.1 Ưu điểm: Sử dụng BĐTD trong dạy – học có những ưu điểm sau:
- Dễ nhìn, dễ viết.
- Kích thích hứng thú học tập và khả năng sáng tạo của HS.
- Phát huy tối đa tiềm năng ghi nhớ của bộ não.
- Rèn luyện cách xác định chủ đề và phát triển ý chính, phụ một cách logic.

- Việc HS tự vẽ BĐTD có ưu điểm là phát huy tối đa tính sáng tạo của HS,
phát triển năng khiếu hội họa, sở thích của HS, các em tự do chọn màu sắc (xanh,
đỏ, vàng, tím,…), đường nét (đậm, nhạt, thẳng, cong…), các em tự “sáng tác” nên
trên mỗi BĐTD thể hiện rõ cách hiểu, cách trình bày kiến thức của từng HS và
Người thực hiện: Kim Thoa, Thùy Dương

11

Trường THCS Ninh Mỹ


Đề tài: “Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy – học môn Địa Lý ở trường THCS”
BĐTD do các em tự thiết kế nên các em yêu quí, trân trọng “tác phẩm” của mình.
Theo cách dạy trước đây, chỉ có một giác quan duy nhất được huy động, đó
là tai nghe. Truyền thụ kiến thức theo hình thức cũ này chỉ thơng qua lời nói, cịn
các giác quan khác chưa được sử dụng cho việc tiếp thu các bài giảng. Phần lớn
tiềm năng tiếp thu học tập chưa được phát huy, có thể thấy rằng: chỉ nghe thì lưu
trữ được 20%, viết chép tiếp thu 30%, song nếu kết hợp cả hai thì tác dụng tăng
lên đáng kể. Trực quan hố trợ giúp cho thuyết trình là tăng mức độ nhớ đến 50%.
Chỉ riêng điều đó thơi cũng nói lên sự đòi hỏi phải áp dụng các phương tiện nghe
– nhìn vào dàn dựng bài giảng.
Như vậy phương tiện trực quan, mà BĐTD là trợ thủ đắc lực giúp GV thực
hiện tốt nguyên tắc thống nhất giữa tính cụ thể và trừu tượng trong quá trình dạy
học, đây nguồn gốc sâu xa mà nhận thức luận của chủ nghĩa Mác-Lênin đã khẳng
định. Sử dụng BĐTD phát huy tối đa tiềm năng của bộ não.
Việc vận dụng BĐTD trong dạy học sẽ dần hình thành cho HS tư duy mạch
lạc hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc có cách nhìn vấn đề một cách hệ thống,
khoa học. Sử dụng BĐTD kết hợp với các phương pháp dạy học tích cực khác
như vấn đáp gợi mở, thuyết trình...có tính khả thi cao góp phần đổi mới phương
pháp dạy học.

Điều quan trọng là khi sử dụng phương pháp này đã hình thành cho học
sinh một số năng lực: năng lực sáng tạo, năng lực sử dụng ngôn ngữ, năng lực tự
học, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực tính tốn...mà yêu cầu đổi mới dạy học
và kiểm tra đánh giá theo hướng phát triển năng lực cho học sinh đang hướng tới
Ví dụ: Cũng cùng nội dung kiến thức tìm hiểu về điều kiện tự nhiên của
Đồng bằng Sông Cửu Long, khi dạy bài 35 - Vùng đồng bằng Sông Cửu Long,
với từ khóa trung tâm là “Điều kiện tự nhiên ĐBSCL”, chúng tôi đã hướng dẫn
HS lập BĐTD thể hiện các điều kiện thuận lợi và khó khăn về tự nhiên của vùng
như sau:

Người thực hiện: Kim Thoa, Thùy Dương

12

Trường THCS Ninh Mỹ


Đề tài: “Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy – học môn Địa Lý ở trường THCS”

BĐTD này là sản phẩm do chính HS tạo ra, các em sẽ dễ hiểu, dễ ghi
nhớ, kiến thức bài học và kích thích sự sáng tạo của HS.
1.2. Nhược điểm
Đối với những nội dung kiến thức có dung lượng lớn, dài và khó thì việc
vẽ bản đồ tư duy gây mất nhiều thời gian do phải lựa chọn hình ảnh và từ ngữ.
Bên cạnh đó việc phân phối thời gian và điều tiết bài giảng khơng hợp lý có
thể gây giảm hiệu quả bài giảng vì học sinh sa đà vào việc vẽ và trang trí bản đồ
tư duy mà khơng tập trung vào hoàn thiện kiến thức.
2. Giải pháp sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học địa lí đạt hiệu quả cao.
Dùng BĐTD có thể thể hiện một lượng thông tin từ nhỏ đến lớn và rất lớn
Tương tự, GV và HS có thể thể hiện một phần nội dung bài học, hoặc nhiều bài

học, 1chương kiến thức. Tùy theo mục đích sử dụng có thể thiết kế BĐTD trong

Người thực hiện: Kim Thoa, Thùy Dương

13

Trường THCS Ninh Mỹ


Đề tài: “Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy – học môn Địa Lý ở trường THCS”
giờ học thông thường, trong giờ kiểm tra, giờ thực hành, ôn tập, tổng kết hay hệ
thống một chương, một phần kiến thức. Vậy ứng với mỗi bài học, mỗi bước lên
lớp sử dụng BĐTD như thế nào có hiệu quả? Chúng tơi đã thực hiện như sau:
2.1. Sử dụng BĐTD trong khai thác nội dung kiến thức mới.
Trước đây, trong khi giảng bài mới các đơn vị kiến thức được chúng tơi
trình bày lên bảng theo một thứ tự của các phần bài học ( I - 1 - a và các gạch đầu
dòng) hoặc bằng sơ đồ mũi tên. Sử dụng BĐTD là một gợi ý cho cách trình bày
mới, chúng tôi đã thay các việc làm trên bằng việc vận dụng BĐTD để thể hiện
một phần hoặc toàn bộ nội dung bài học một cách trực quan. Mục tiêu bài học
được cơ đọng trong một từ khóa hay hình ảnh đặt ở trung tâm. Khi lập BĐTD cho
một đơn vị kiến thức hay một bài học mới các em sẽ có tầm nhìn khái qt cho
tồn bài học cũng như với từng phần của bài trước khi đi đến từng chi tiết điều đó
sẽ khác hẳn với việc các em ghi bài học trong vở ghi theo lời giảng truyền thống.
Cụ thể, chúng tôi đã làm như sau: Trước tiên chúng tơi hướng dẫn học sinh
lựa chọn từ khóa cho kiến thức tồn bài trong q trình giảng, sau đó hướng dẫn
HS lần lượt vẽ các nhánh của BĐTD theo tiến trình hình thành kiến thức mới, kết
hợp các phương pháp: trực quan, thảo luận nhóm, gợi mở vấn đáp... để giúp HS
tự khám phá kiến thức mới. Từ mỗi nhánh chính( nhánh cấp 1) lại triển khai ra
các nhánh phụ( nhánh cấp 2) và mỗi nhánh phụ lại đi sâu vào những kiến thức
mới cụ thể hơn.. Từ đó Giáo viên và HS cùng hình thành BĐTD thể hiện nội

dung kiến thức của bài.
Ví dụ: Khi dạy Bài 6 – Sự phát triển của nền kinh tế VN ( Địa lí 9), phần 2, để
xác định các vùng kinh tế của nước ta, phạm vi và các trung tâm kinh tế lớn của
vùng là phần kiến thức khơng khó nhưng không dễ nhớ đối với HS. Nếu tôi sử

Người thực hiện: Kim Thoa, Thùy Dương

14

Trường THCS Ninh Mỹ


Đề tài: “Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy – học môn Địa Lý ở trường THCS”
dụng phương pháp trình bày truyền thống thì vấn đề vẫn được giải quyết nhưng
khơng hiệu quả vì nội dung dàn trải, hết vùng này đến vùng khác, HS sẽ không
thấy được mối quan hệ về vị trí, thế mạnh của các vùng kinh tế. Do đó, chúng tơi
đã tổ chức cho HS làm việc cá nhân hoặc theo nhóm nhỏ, dựa vào nội dung trong
SGK, lược đồ trong SGK, bản đồ treo tường để hoàn thành BĐTD dưới đây:
Sau khi đã hoàn thiện được bản đồ tư duy này chúng tôi thấy rằng: HS đã
là người chủ động tìm ra các kiến thức về các vùng kinh tế, có gắn liền với liên hệ
thực tế, từ đó các em có thể hiểu và ghi nhớ sâu sắc kiến thức bài học.Với cách
học này cả giáo viên và học sinh đều phải tham gia vào q trình dạy học tích cực
hơn. Giáo viên vừa giảng bài, vừa tổ chức cho học sinh khai thác kiến thức, vừa
hoàn thành bản đồ tư duy. Học sinh được nghe giảng, nhìn bản đồ, sách giáo
khoa, trả lời câu hỏi, ghi chép...sự tập trung chú ý được phát huy cao độ, cường
độ học tập theo đó cũng được đẩy nhanh, học sinh chú ý học tập tích cực. Thông
qua cách học này học sinh đã vẽ, đọc được bản đồ tư duy và ghi nhớ khắc sâu
kiến thức. Từ đó hình thành cho học sinh các năng lực: năng lực sáng tạo, năng
lực giải quyết vấn đề, năng lực sử dụng ngôn ngữ trong tiết học địa lí.
2.2. Sử dụng BĐTD trong củng cố kiến thức một phần hoặc cả bài học:

Sử dụng BĐTD để củng cố kiến thức bài học là việc làm rất có hiệu quả.
GV sử dụng BĐTD để thể hiện lại những nội dung cơ bản của bài học, tránh bị bỏ
sót ý, khắc sâu những kiến thức trọng tâm. HS sử dụng BĐTD để thể hiện lại sự
hiểu biết của mình qua việc tiếp thu nội dung bài học, đồng thời là một kênh
thơng tin phản hồi mà qua đó GV có thể đánh giá nhận thức của học sinh, định
hướng cho từng HS và điều chỉnh cách dạy, cách truyền đạt của mình cho phù
hợp với mục đích củng cố kiến thức cho HS.
Chúng tôi đã áp dụng BĐTD để củng cố kiến thức bài học như sau:
- Hệ thống hóa kiến thức cả bài học bằng BĐTD: chúng tôi yêu cầu HS
tóm tắt kiến thức bằng việc vẽ BĐTD; cũng có thể chúng tơi sử dụng hình thức
vấn đáp đàm thoại giữa thầy và trị từ đó đưa ra BĐTD hoàn chỉnh

Người thực hiện: Kim Thoa, Thùy Dương

15

Trường THCS Ninh Mỹ


Đề tài: “Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy – học môn Địa Lý ở trường THCS”
- Hoặc cũng có thể chúng tơi cho HS điền thơng tin cịn thiếu vào BĐTD.
Các thơng tin cịn thiếu này sẽ bao trùm nội dung toàn bài để một lần nữa nhằm
khắc sâu kiến thức và lưu ý đến trọng tâm của bài học.
Ví dụ: Sau khi dạy bài 36 Vùng ĐBSCL( tiếp theo) khi dạy xong Phần 1.
Nông nghiệp chúng tôi chiếu một bản đồ tư duy đã vẽ hoàn chỉnh để khái quát
kiến thức của phần này để học sinh có cái nhìn đầy đủ về nội dung phần bài vừa
học.

Sau đó đến phần củng cố nội dung tồn bài sau khi đã hoàn thiện nhánh cấp
1 thứ nhất thể hiện đặc điểm các ngành kinh tế tôi tiếp tục cho học sinh hoàn thiện

nhánh cấp 1 thứ hai với đơn vị kiến thức là các trung tâm kinh tế để hoàn thiện
được một bản đồ tư duy khái quát nội dung bài học trên bảng. Từ đó chúng tơi
hướng dẫn HS về nhà học bài bằng BĐTD, áp dụng cách học này với các bài học
khác:

Người thực hiện: Kim Thoa, Thùy Dương

16

Trường THCS Ninh Mỹ


Đề tài: “Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy – học môn Địa Lý ở trường THCS”

2.3. Sử dụng BĐTD để ra bài tập về nhà:
Do về nhà học sinh có nhiều thời gian và điều kiện để tìm kiếm tài liệu nên
bài tập về nhà mà GV giao cho học sinh trước hết phải gắn với nội dung bài
học .Yêu cầu đối với bài về nhà cũng cần khó hơn, phức tạp hơn và cần sự đầu tư
lớn hơn (cả kênh hình, kênh chữ, màu sắc lượng thơng tin...) Chính vì vậy việc sử
dụng bản đồ tư duy để ra bài tập về nhà sẽ có hiệu quả trong việc ôn tập và củng
cố bài học cũ và chuẩn bị bài mới.
Ví dụ: Sau khi học xong bài 48 “ Thiên nhiên Châu Đại Dương”- địa lí 7
chúng tôi yêu cầu HS lập một bản đồ tư duy để khái quát đặc điểm tự nhiên của
Châu Đại Dương, từ đó làm cơ sở học bài tiếp theo bài 49 “ Dân cư xã hội Châu
Đại Dương”. Để hoàn thành được bản đồ tư duy này, HS phải chủ động tìm
kiếm, nghiên cứu các tài liệu (sách giáo khoa, tài liệu tham khảo về Châu Đại
Dương, mạng internet...).

2.4. Sử dụng BĐTD để tổng hợp kiến thức một chương hoặc nhiều bài
học:

Để tổng kết, ôn tập kiến thức một chương, một phần, trước đây chúng tôi
cho học sinh một số câu hỏi, bài tập, học sinh tự ôn tập, sau đó chúng tơi sẽ kiểm
tra, hoặc giải đáp thắc mắc của học sinh. Với cách làm này, một số em lười nhác
không chịu làm chỉ chờ đến lớp chép bài của bạn, của cơ chữa, do đó học sinh sẽ
khơng nhớ được những kiến thức trọng tâm của một chương hoặc một phần, đến
cuối năm ôn thi kiến thức lại như mới lạ hoàn toàn.
Người thực hiện: Kim Thoa, Thùy Dương

17

Trường THCS Ninh Mỹ


Đề tài: “Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy – học mơn Địa Lý ở trường THCS”
Vì vậy, khi thực hiện sáng kiến này, chúng tôi đã cho HS sử dụng bản đồ tư
duy để tổng hợp kiến thức một chương hoặc nhiều bài học, với cách làm như sau:
- Thông thường chúng tôi cho một số câu hỏi và bài tập để HS chuấn bị ở
nhà. Trong tiết ôn tập tôi hướng dẫn HS tự lập BĐTD, sau đó cho HS trao đổi kết
quả với nhau và sau cùng đối chiếu với BĐTD do GV lập ra.
- Cách khác: chúng tôi cho HS tự lập BĐTD ôn tập, củng cố chương ở
nhà, coi đó là một bài tập cần thực hiện. Sau đó chúng tơi thu lại, phân loại,
nhận xét, đánh giá và giới thiệu một số BĐTD của mình và coi đó là tài liệu ơn
tập của HS.
- Hoặc cũng có thể chúng tơi lập BĐTD mở. Trong giờ ôn tập, củng cố,
chúng tôi chỉ vẽ một số nhánh chính, thậm chí khơng đủ nhánh, hoặc thiếu (hoặc
thừa thông tin, rồi yêu cầu HS tự bổ sung, thêm hoặc bớt thơng tin,...để cuối cùng
tồn lớp lập được một BĐTD ơn tập củng cố kiến thức chương đó tương đối hồn
chỉnh và hợp lí. Cách làm này sẽ lôi cuốn được sự tham gia của HS (Suy nghĩ
nhiều hơn, trao đổi nhiều hơn, tranh luận nhiều hơn) và giờ ôn tập tổng kết
chương sẽ không tẻ nhạt và có chất lượng hơn.

Chính vì vậy trong tiết ơn tập GV nên hướng dẫn HS tự lập BĐTD, cho
HS trao đổi kết quả với nhau, đối chiếu với BĐTD do GV lập. GV cùng HS hệ
thống lại các vấn đề đã học, để thêm một lần nữa khắc sâu kiến thức cho HS,
củng cố cho các em các vấn đề trọng tâm cần ghi nhớ. Với hệ chữ chắt lọc, những
thông tin quan trọng, BĐTD thực sự mang lại cho HS cái nhìn trực quan, dễ hiểu,
dễ nhớ.
Ví dụ 1: Trái đất chuyển động ra sao? Hình dạng, kích thước, cấu tạo của
Trái đất như thế nào?... là nội dung được phản ánh trong Chương I: Trái đất (Địa
lí 6). Những vấn đề đại cương về Trái đất được trình bày khoa học và cụ thể qua
từng bài. Khi kết thúc chương này, tuy khơng có bài tổng kết nhưng chúng tôi vẫn
dành thời gian cùng HS hệ thống lại các nội dung đã học về Trái đất để thêm một
lần nữa khắc sâu kiến thức cho HS và củng cố cho các em các vấn đề trọng tâm
cần ghi nhớ. Vì vậy, chúng tơi đã hướng dẫn HS thành lập BĐTD thể hiện các
Người thực hiện: Kim Thoa, Thùy Dương

18

Trường THCS Ninh Mỹ


Đề tài: “Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy – học môn Địa Lý ở trường THCS”
kiến thức về Trái Đất , từ đó HS có khả năng tự hệ thống hóa và khắc sâu các
kiến. Với hệ chữ chắt lọc những thơng tin quan trọng, hình ảnh minh hoạ các
thông tin một cách sinh động, BĐTD về Trái đất thực sự mang lại cho HS cái
nhìn trực quan dễ hiểu, dễ nhớ, như minh hoạ sau:

Ví dụ 2: Trong nội dung chương trình địa lí 8, tiết 34 “ôn tập” để chuẩn bị
kiểm tra 1 tiết cho học sinh trong tiết này chúng tôi hướng dẫn học sinh lập một
bản đồ tư duy khái quát những đơn vị kiến thức cơ bản về các thành phần của tự
nhiên Việt Nam đã học (từ bài 23-> bài 30) như: Vị trí địa lí, lịch sử phát triển,

khống sản, địa hình. Dưới đây là bản đồ tư duy minh hoạ chúng tôi đã sử dụng
trong tiết ôn tập:

Người thực hiện: Kim Thoa, Thùy Dương

19

Trường THCS Ninh Mỹ


Đề tài: “Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy – học môn Địa Lý ở trường THCS”

Với phương pháp sử dụng bản đồ tư duy trong tiết ôn tập này học sinh đã
tổng hợp đầy đủ những đặc điểm cơ bản về một số thành phần của tự nhiên Việt
Nam, từ đó các em đã hiểu, học và ghi nhớ các kiến thức này một cách có hệ
thống để làm tốt bài kiểm tra một tiết. Hơn nữa giờ ôn tập sẽ không nhàm chán,
học sinh rất hứng thú với tiết ôn tập.
2. 5. Sử dụng BĐTD trong kiểm tra đánh giá.
Hiện nay đáp ứng nhu cầu của đổi mới phương pháp dạy và kiểm tra đánh
giá kết quả học tập của HS, Bộ GD&ĐT đã có nhiều giải pháp nhằm cải tiến kiểm
tra đánh giá, bước đầu đã có chuyển biến tích cực. Qua thực tế giảng dạy mơn Địa
lí chúng tơi thấy, việc áp dụng BĐTD trong kiểm tra, đánh giá là một trong
những giải pháp hiệu quả có thể phát huy năng lực của HS. Thơng qua đó, giáo
viên khơng chỉ đánh giá được kiến thức của HS, khả năng ghi nhớ, sự chuyên cần
học tập, nó cịn cho phép GV đánh giá năng lực tư duy khoa học, trí tưởng tượng,
óc thẩm mỹ và sáng tạo của HS. Chính vì vậy, sự phản hồi của HS thơng qua
BĐTD có giá trị hơn rất nhiều so với phương pháp tự luận và trắc nghiệm khách
quan.
BĐTD có thể được áp dụng đa dạng với các hình thức kiểm tra đánh giá
như kiểm tra miệng, kiểm tra viết. Giáo viên có thể lựa chọn các hình thức kiểm

Người thực hiện: Kim Thoa, Thùy Dương

20

Trường THCS Ninh Mỹ


Đề tài: “Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy – học môn Địa Lý ở trường THCS”
tra như yêu cầu vẽ bản đồ tư duy của một phần kiến thức hoặc đưa ra một bản đồ
tư duy thiếu nhánh hoặc đảo vị trí các nhánh, u cầu HS hồn thiện, sửa chữa. Vì
vậy chúng tơi đã sử dụng bản đồ tư duy trong những hoạt động kiểm tra, đánh giá
và bước đầu đạt được kết quả sau:
* Sử dụng BĐTD trong kiểm tra bài cũ:
Thông thường thời gian kiểm tra bài cũ chỉ khoảng 5-7 phút nên trước đây
chúng tôi chủ yếu chỉ yêu cầu học sinh là tái hiện một phần kiến thức nội dung
bài học bằng cách gọi học sinh lên bảng trả lời câu hỏi, không địi hỏi nhiều sự
phân tích so sánh...Cách làm này học sinh chỉ cần học thuộc lòng, học vẹt là đạt
điểm cao mà đơi khi khơng hiểu. Do đó để kiểm tra, đánh giá chính xác và nâng
cao chất lượng học tập chúng tôi đã sử dụng bản đồ tư duy bằng một trong các
cách sau:
- Chúng tôi đưa các bản đồ ở dạng thiếu thông và yêu cầu HS điền các
thơng tin cịn thiếu, vẽ thêm nhánh, thêm thơng tin và từ đó rút ra nhận xét về mối
quan hệ của các nhánh thơng tin với từ khóa trung tâm.
Ví dụ: Trước khi học bài 14 “ Giao thông vận tải và bưu chính viễn
thơng” ( Địa lí 9), chúng tôi yêu cầu một HS lên bảng điền các thông tin cịn
thiếu để hồn thiện BĐTD cơ cấu ngành dịch vụ Phần 1 - Bài 13 “ Vai trò, đặc
điểm phát triển và phân bố ngành dịch vụ” ; các HS cịn lại vẽ BĐTD vào vở:

Sau khi đã hồn thiện BĐTD, chúng tôi cho HS rút ra nhận xét về cơ ngành
dịch vụ . Đây chính là phần hiểu bài của HS mà chúng tơi căn cứ vào đó để đánh

Người thực hiện: Kim Thoa, Thùy Dương

21

Trường THCS Ninh Mỹ


Đề tài: “Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy – học môn Địa Lý ở trường THCS”
giá và nhận xét. Và như vậy trong thời gian 5’, chúng tôi đã có thể kiểm tra việc
học bài cũ của nhiều đối tượng HS.
- Đối với học sinh yếu, chúng tôi có thể kiểm tra bài cũ bằng cách cho các
em thuyết minh bài học trước bằng cách nhìn vào BĐTD do các em tự lập sẵn ở
nhà, cho các em kiểm tra và nhận xét BĐTD của các bạn đã lập khi đối chiếu với
bài học trước .
* Sử dụng BĐTD trong kiểm tra thường xuyên hoặc kiểm tra định kì:
Các bài kiểm tra này là một trong những cơ sở quan trọng để đánh giá
năng lực học sinh. Thế nên chúng tôi yêu cầu HS thành lập BĐTD để trình bày về
một hoặc nhiều nội dung kiến thức. Qua đó phát huy tính tích cực, chủ động và
sáng tạo của từng học sinh.
Ví dụ: Trong bài kiểm tra giữa học kỳ II môn Địa lý 6, chúng tôi đưa ra câu
hỏi sau:
Dựa vào bảng đặc điểm các khối khí dưới đây, Em hãy thành lập một BĐTD
thể hiện đặc điểm của các khối khí trên Trái Đất.
Các khối khí
- Khối khí nóng hình thành trên các vùng vĩ độ thấp, có nhiệt độ tương
đối cao.
- Khối khí lạnh hình thành trên các vùng vĩ độ cao, có nhiệt độ tương đối
thấp
- Khối khí đại dương hình thành trên các biển và đại dương, có độ ẩm lớn.
- Khối khí lục địa hình thành trên các vùng đất liền, có tính chất tương đối

khơ
Sau khi hồn thành được BĐTD này, HS đã tái hiện được kiến thức, hiểu
được đặc điểm của mỗi khối khí, đồng thời sản phẩm của mỗi HS đã thể hiện
được năng lực sáng tạo riêng của mỗi em qua bài kiểm tra.
3. Một số lưu ý với học sinh khi sử dụng BĐTD
3.1. Lúc nào thì cần sử dụng BĐTD?

Người thực hiện: Kim Thoa, Thùy Dương

22

Trường THCS Ninh Mỹ


Đề tài: “Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy – học môn Địa Lý ở trường THCS”
Không phải bất cứ nội dung nào, bài học nào cũng có thể sử dụng BĐTD
và cũng không phải sử dụng cho mọi giờ học. GV cần có sự linh hoạt trong sử
dụngBĐTD đúng lúc, đúng cách, phù hợp với đối tượng HS và quan trọng là đảm
bảo việc truyền tải nội dung bài học
3.2. Cách ghi chép trên BĐTD:
- Dùng từ khóa và ý chính.
- Viết ngắn gọn (viết cụm từ, khơng viết thành câu).
- Dùng các từ viết tắt.
- Viết có tổ chức. Có tiêu đề. Đánh số các ý.
- Liên kết ý nên dùng nét đứt, mũi tên, số, màu sắc,...
- Ghi chép nguồn gốc thơng tin để có thể tra cứu lại dễ dàng.
- Sử dụng màu sắc để ghi.
3.3 Những điều cần tránh khi ghi chép trên BĐTD:
- Ghi lại nguyên cả đoạn văn dài dòng.
- Ghi chép quá nhiều ý không cần thiết.

- Dành quá nhiều thời gian để vẽ, viết, tơ màu,...Chỉ nên vẽ những hình ảnh
có liên quan đến chủ đề kiến thức, tránh vẽ hoặc đưa vào những hình ảnh khơng
liên quan đến chủ đề kiến thức, tránh vẽ hoặc đưa vào những hình ảnh không liên
quan đến bài học làm mất nhiều thời gian vẽ viết và phân tán sự tập trung.
- Khi thiết kế BĐTD cần chọn lọc những ý cơ bản, kiến thức cần thiết, ví
dụ minh họa để có nhiều thông tin cho bài học. Thiết kế BĐTD của một bài học
phải thể hiện được kiến thức trọng tâm, cơ bản cần chốt lại của bài học đó. Tránh
khuynh hướng vẽ q cầu kì những hình ảnh khơng cần thiết hoặc q sơ sài
khơng có thơng tin ( chỉ ghi các đề mục của bài học).

Người thực hiện: Kim Thoa, Thùy Dương

23

Trường THCS Ninh Mỹ


Đề tài: “Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy – học môn Địa Lý ở trường THCS”

PHẦN BA: KẾT LUẬN
I. Ý NGHĨA QUAN TRỌNG NHẤT CỦA ĐỀ TÀI

Qua nghiên cứu, tìm hiểu và thực nghiệm giảng dạy, chúng tơi nhận thấy:
Sử dụng thành thạo và hiệu quả BĐTD trong dạy học môn Địa lý sẽ mang lại
nhiều kết quả tốt và đáng khích lệ trong phương thức học tập của HS và PP giảng
dạy của GV.
Bước đầu theo chúng tôi đánh giá: Việc vận dụng BĐTD trong dạy học
môn Địa lý đã dần hình thành cho HS tư duy mạch lạc, hiểu biết vấn đề một cách
sâu sắc, có cách nhìn vấn đề một cách hệ thống, khoa học. Sử dụng BĐTD kết
hợp với các phương pháp dạy học tích cực khác như vấn đáp gợi mở, thuyết trình,

…qua đó góp phần phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS, có thái độ
tích cực, u thích môn học Địa lý.
Đối với giáo viên, thông qua việc sử dụng BĐTD trong dạy học môn Địa
lý ở trường THCS một cách sáng tạo đã làm mới phong cách dạy học của mình,
giúp bài học trở nên hấp dẫn, sinh động; góp phần đổi mới PPDH.
Qua khảo sát thực tế trong năm học 2013-2014, ở học kỳ I khi chưa áp
dụng PPDH Địa lý sử dụng BĐTD thì tỷ lệ học sinh khá, giỏi còn thấp, HS chưa
Người thực hiện: Kim Thoa, Thùy Dương

24

Trường THCS Ninh Mỹ


Đề tài: “Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy – học mơn Địa Lý ở trường THCS”
tích cực lĩnh hội kiến thức; trong học kỳ II – sau khi đã áp dụng PPDH sử dụng
BĐTD thì tỷ lệ HS khá, giỏi đã tăng, HS đã học tập tích cực, chủ động và sáng
tạo hơn. Kết quả này được thể hiện cụ thể qua các số liệu sau:
* Trong học kỳ I:
Khối

Sĩ số

lớp

(HS)

SL

6

7
8
9

62
60
56
64

8
7
7
10

Giỏi

Khá

%
13.0
11.5
12.5
15.6

SL

%
35.5
37.0
32.1

32.8

22
22
18
21

Yếu

Trung bình
SL
30
28
30
32

%
48.0
46.7
53.5
50.0

SL

%
3.5
5.0
1.9
1.6


2
3
1
1

* Trong học kỳ II:
Khối

Sĩ số

lớp

(HS)
62
60
56
64

6
7
8
9

Giỏi

Khá

Yếu

Trung bình


SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

13
15
15
16

22.5
25.0
26.8
25.0

29
27
22

30

48.0
45.0
39.2
48.2

20
18
19
18

32.5
30.0
34.0
27.8

0
0
0
0

0
0
0
0

II. BÀI HỌC KINH NGHIỆM

Qua nghiên cứu đề tài này, chúng tôi đã rút ra được bài học kinh nghiệm

như sau:
1. Đối với HS:
Học địa lý một cách tích cực, chủ động
HS cần học bài tốt bài học cũ, soạn bài và tìm hiểu trước các nội dung có
liên quan tới bài học tiếp theo...
2. Đối với GV:
Cần nghiên cứu, tìm hiểu kỹ phương pháp lập bản đồ tư duy để vận dụng
vào q trình dạy học mơn học của mình.

Người thực hiện: Kim Thoa, Thùy Dương

25

Trường THCS Ninh Mỹ


×