Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Di động điểm nhìn, trần thuật đa giọng điệu trong bộ ba tiểu thuyết Căn nhà đất của Pearl S. Buck

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.35 KB, 7 trang )

JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE

Science., 2010, Vol. 55, N◦ . 5, pp. 64-70

DI ĐỘNG ĐIỂM NHÌN, TRẦN THUẬT
ĐA GIỌNG ĐIỆU TRONG BỘ BA TIỂU THUYẾT
CĂN NHÀ ĐẤT CỦA PEARL S. BUCK

Phạm Thị Hương Giang

Trường Cao đẳng Sư phạm Huế

1.

Đặt vấn đề

Pearl S. Buck là nữ văn sĩ Mỹ đầu tiên (sau đó là Toni Morrison) nhận được
giải Nobel văn học danh giá năm 1938. Những trang viết của bà đã tạo những vệt
quang phổ gây hiệu ứng mạnh mẽ, lâu dài trên văn đàn thế giới từ thập kỉ 30 của
thế kỉ XX. Đặc biệt, với Đất lành, Những người con trai và Gia đình chia rẽ là các
tác phẩm nằm trong bộ ba tiểu thuyết Căn nhà đất (The House of Earth), bà đã
nhận được huy chương William Dean Howells của Viện hàn lâm nghệ thuật và văn
chương Hoa Kì cho sáng tác hay nhất năm 1931-1935, đồng thời nó cũng giúp tên
tuổi bà nổi tiếng thế giới. Đến nay, gần 70 sáng tác của bà vẫn có thể được tìm thấy
trong các ngơi làng và trang trại cơ lập ở Tanzania, New Guinea, Ấn Độ, Colombia
hay trong một túp lều ở Malawi. Tác phẩm Đất lành đã được dựng thành bộ phim
cùng tên và được trao giải Academy. Như vậy có thể thấy tầm ảnh hưởng của bà
đối với nền văn học đương đại vẫn còn vẹn nguyên sức hút. Đó là bởi ngịi bút tài
tình trong việc mô tả chân thực cuộc sống của người dân Trung Hoa – vốn còn xa
lạ với phương Tây – trong giai đoạn chuyển mình với sự hỗn độn, chồng chéo của
các giá trị. Khơng chỉ có biệt tài mổ xẻ, phân tích tâm lí nhân vật, nhà văn cũng đã


bước đầu xác lập phương thức trần thuật đa dạng. Theo đó, tác phẩm thường được
soi chiếu dưới các góc nhìn (điểm nhìn) khác nhau, kéo theo đó là sự đa dạng trong
giọng điệu trần thuật. Bộ ba tác phẩm Căn nhà đất – dưới hình thức saga novel –
cũng được sáng tác theo phong cách đặc trưng đó của Pearl S. Buck.

2.

Nội dung nghiên cứu

Tổ chức điểm nhìn trần thuật là một trong những yếu tố hàng đầu của sáng
tạo nghệ thuật. Theo Manfred Jahn: “Về mặt chức năng, điểm nhìn mang ý nghĩa
của sự lựa chọn và giới hạn thơng tin trần thuật, của việc nhìn các sự kiện và cấu
trúc của các sự kiện từ điểm nhìn của một người nào đó và của việc tạo ra cái nhìn
đồng cảm hoặc mỉa mai ở người quan sát” [7;41]. Với việc tổ chức điểm nhìn có dụng
64


Di động điểm nhìn, trần thuật đa giọng điệu trong bộ ba tiểu thuyết Căn nhà đất...

ý, nhà văn dễ dàng chi phối đến các tầng bậc cấu trúc của văn bản, trong đó có
giọng điệu. Trong bộ ba tác phẩm viết về dịng họ Wang, tồn bộ câu chuyện chủ
yếu được tường thuật theo cái nhìn tồn tri, đơi lúc đan xen điểm nhìn của nhân
vật xưng “tơi”. Cùng với sự di chuyển điểm nhìn theo từng cấp độ người trần thuật
là sự đa dạng hóa về giọng điệu. Sự thay đổi này tạo nên lăng kính xoay chiều cho
phép độc giả khám phá các “mẫu sự sống” dưới cái nhìn đa diện.

2.1.

Điểm nhìn tồn tri với giọng điệu triết lí


Bộ ba tác phẩm Căn nhà đất viết về cuộc đời của các người con trong dòng
họ Wang, lấy bối cảnh nước Trung Hoa những năm cuối triều Mãn Thanh vốn đang
nằm trong sự tranh giành của loạn quyền phỉ và tình trạng xâu xé của các nước liên
bang. Đối mặt với nhiều biến cố chồng chất như nạn đói, giặc cướp, chiến tranh,
hạn hán... con người vẫn vươn lên cùng người bạn tri kỉ là đồng ruộng. Trả công
cho những nỗi cơ cực của nhà nông là những vụ mùa bội thu và sự sung túc. Dù
trong bất kì hồn cảnh nào, đồng ruộng khơng bao giờ phản bội lại con người. Do
vậy, dù đi đâu, làm gì, trải qua bao biến thiên của cuộc sống thì con người chỉ tìm
thấy sự an bình khi trở về với đồng ruộng hay nói rộng hơn là trở về với q hương,
gốc gác của mình. Đây chính là sợi chỉ đỏ xuyên suốt nội dung của bộ ba tác phẩm.
Do vậy, dù có kết cấu độc lập nhưng bộ ba tác phẩm vẫn dễ dàng kết hợp với nhau
trong một thể thống nhất với biểu tượng là Ngôi nhà đất – hình ảnh đặc trưng của
nơng thơn Trung Hoa.
Điểm nhìn toàn tri trong ba tác phẩm xuất phát từ cái nhìn của người kể
chuyện có kiến thức và quyền lực vơ hạn, mang khả năng “biết tuốt” của Chúa.
Điểm nhìn này cũng thường được sử dụng trong các sáng tác của Pearl S. Buck.
người kể chuyện đóng vai trị là người thứ ba, quan sát, chú giải khách quan về nhân
vật. Gọi nhân vật với những danh xưng của ngôi thứ ba như “he”, “the old man”,
“Wang Lung”, gọi theo biệt danh “Wang the Tiger” , “Wang the Landlord” hay gọi
tên theo số thứ tự trong gia đình như “Wang the second”, “Wang the oldest”. Dù là
cách gọi nào thì cũng đều thể hiện điểm nhìn của người kể chuyện kể câu chuyện về
một người khác. Ngay từ dòng đầu tiên của tác phẩm, người kể chuyện đã xác định
vị thế đứng bên ngoài câu chuyện, làm nhiệm vụ tường thuật khách quan: “It was
Wang Lung’s marriage day” (Đó là ngày cưới của Wang Lung) [4], “Wang Lung lay
dying” (Wang Lung đang hấp hối) [5]. Thời điểm người kể chuyện kể câu chuyện
luôn là thời quá khứ (quá khứ đơn và quá khứ tiếp diễn), chứng tỏ câu chuyện đã
(đã đang) được xảy ra và hồn tồn có căn cứ sự thật. Tuy nhiên, đôi lúc như muốn
khẳng định sự tồn tại của mình, người kể chuyện tham gia trực tiếp trong tác phẩm,
“cầm tay” độc giả chỉ vào sự việc: “Here, these were the reasons that Wang Yuan,
Wang the Tiger’s son, went to the grandfather’s earth house, Wang Lung” (Đây,

những lí do đã khiến Wang Yuan, con trai của Wang the Tiger, tìm đến căn nhà đất
của ơng nội hắn, Wang Lung) [6]. Tần suất người kể chuyện xuất hiện “đột ngột”
65


Phạm Thị Hương Giang

như vậy diễn ra trong suốt bộ ba tác phẩm không dưới 10 lần. Tương ứng với nó
là những lần “mách nước”, phẩm bình khá “lộ liễu” bằng các đoạn trữ tình ngoại đề
hướng dẫn độc giả: “Chẳng qua muôn việc ở đời cũng do ông Trời xếp đặt” [2;333].
Ở đây, cái nhìn khách quan đã bị lấn át nhường lời cho giọng điệu của chính người
kể chuyện – tác giả. Khảo sát bộ ba tác phẩm, đôi lúc chúng tôi thấy tồn tại hai
giọng điệu trong một đoạn văn ngắn. Một giọng mang sắc thái tâm lí nhân vật thể
hiện qua lời “nửa trực tiếp”, một giọng bình luận mang tính khách quan của người
ngồi nhìn vào: “No, his sons did not begrudge the silver, for Wang Lung took a
vast comfort in this fine coffin of his... It was a coffin to comfort any man” (Không,
những đứa con hắn khơng tiếc gì bạc, miễn sao cho Wang Lung một cỗ quan tài
hợp ý... Đó là cỗ quan tài an ủi cho bất kì ai) [5]. Sự thay đổi sắc thái giọng điệu
trần thuật này nhằm soi chiếu vào góc khuất của tình cảm nhân vật, làm phát lộ
những suy nghĩ kín đáo nhất. Đây là lối viết đậm ảnh hưởng của văn chương cổ điển
Trung Quốc, thích hợp cho truyền thống “nghe / thuật chuyện” – vốn được xem là
một phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần người dân.
Cùng với điểm nhìn “tồn tri”, người kể chuyện đã lồng ghép vào đó những
trải nghiệm của mình đúc rút từ vốn sống của những năm gắn bó máu thịt với
người dân Trung Hoa. Giọng văn “minh triết” (Per Hallstrom) với cái nhìn khách
quan chính là một sự khẳng định “ngầm” tính đúng đắn của các kinh nghiệm được
truyền đạt trong tác phẩm. Dọc theo kết cấu trung tâm bao gồm các sự kiện: chăm
chỉ lao động (gắn bó với đồng ruộng) – mất mùa đói kém – gây dựng sự nghiệp –
hưởng thụ và mải mê theo đuổi các giá trị phù du (quyền lực, tiền bạc, ăn chơi) –
tỉnh ngộ (trở về với đồng ruộng), người kể chuyện lại hướng điểm nhìn của mình

vào từng vấn đề mà mỗi loại người cụ thể phải đối mặt. Với số lượng nhân vật khá
đồ sộ tương thích với các đam mê “sân - si” ở đời, cái nhìn “tồn tri” của người kể
chuyện lại khái qt nên những qui luật ẩn mình trong lời tường thuật khách quan.
Với những cố nông như Wang Lung - cả một đời gắn bó với đồng ruộng thì đất
đai chính là linh hồn, là sự sống: “chỗ bạc này đã sinh ra từ đất. Mỗi một miếng ăn,
mỗi một xu đều sinh ra từ mảnh đất mà anh cày xới và gieo hạt” [1;30], “miệng ăn
núi lở, tiền tiêu mãi thì trước sau gì cũng sẽ hết. Nhưng nếu khơng có mưa, khơng
có nắng, đất đai sẽ khơng cho mùa màng và cái đói sẽ đến” [1;57], “nghèo hèn phát
sinh ra tội lỗi; nghèo là sự thiếu ăn; sự thiếu ăn là do đất cát bị bỏ phế, không chịu
canh tác. Sự canh tác là sợi dây vơ hình gắn liền con người vào bản thổ. Khơng có
thứ dây đó ràng buộc, con người sẽ dễ dàng bỏ quê cha đất tổ, bỏ tổ ấm đi phiêu
lưu, khác chi loài cầm thú. Thành tuy có kiên trì, hào tuy có sâu, luật pháp có
nghiêm khắc, hình phạt có nặng nề, cũng khơng thắng nổi lịng người phải phiêu
lưu mạo hiểm để tìm miếng ăn” [3;250]. Như vậy, đất đai chính là nguồn sống nuôi
dưỡng và bảo bọc con người. Ruộng đất mang lại cho người nông dân lương thực và
họ đền ơn đất đai bằng chính mồ hơi và máu của mình. Nhưng khơng phải chỉ cơng
sức con người là đủ. Đất đai cần nhiều hơn thế. Nó cịn cần “mưa thuận gió hịa” 66


Di động điểm nhìn, trần thuật đa giọng điệu trong bộ ba tiểu thuyết Căn nhà đất...

vốn không thuộc vào chủ ý của con người. Do vậy, dẫu chăm chỉ nhưng người nông
dân luôn đối mặt với dự cảm mất mùa và cái đói. Giọng điệu triết lí hé mở sự ám
ảnh thường trực song hành trong các cuộc mưu sinh đầy nhọc nhằn để sinh tồn.
Tuy nhiên, để tồn tại, nhân vật trong tác phẩm không chỉ đối mặt với các vấn
đề về thiên tai mà còn phải đấu tranh với các vấn đề về địch họa do chính con người
gây ra. Bộ mặt chiến tranh xuất hiện đậm đặc trong cả ba tác phẩm. Kéo theo nó là
nạn hãm hiếp, cái đói và sự khốn cùng tàn khốc. Nó lan tràn như một nạn dịch, càn
quét sự yên bình trong cuộc sống của dịng họ Wang. Dư chấn của nó đã gây nên
sự ngớ ngẩn cho đứa con gái út của Wang Lung, lôi kéo Wang the Tiger trở thành

“lãnh chúa thời chiến” bòn rút xương máu người nông dân vốn đã chịu nhiều bất
hạnh, biến Wang the Merchant thành kẻ cơ hội cho vay nặng lãi với chủ nghĩa tơn
thờ đồng tiền. Gọi tên và chỉ đích danh nguyên nhân chiến tranh, người kể chuyện
khái quát nên qui luật của kẻ làm tướng thời chiến: “tàn nhẫn, chém giết, cái đó có
lẽ cũng là nhược điểm của người làm tướng, sự vinh quang, thành công vẫn phần
nhiều xây bằng xác chết của kẻ khác” [2;322].
Với những thanh niên đang trong tâm trạng lưỡng phân như Wang Yuan: băn
khoăn về cách chọn cho mình một cách nhìn đời và một lối sống giữa thời đại ngổn
ngang nhiều luồng tư tưởng, cái nhìn triết luận của người kể chuyện chỉ ra rằng
“Trên đời này, khơng ai nhìn một việc gì, xét đốn một vấn đề gì với cái nhìn bao
qt tất cả các khía cạnh” [3;247]. Khơng thể mãi phân vân nhìn nhận mọi mặt của
vấn đề bởi con người luôn là những giới hạn nhỏ bé bị khu biệt trong hạt cát tri
thức của loài người. Người kể chuyện ở đây đã đứng ngoài để đưa ra những dẫn giải
về đời sống tinh thần và sự khiếm khuyết trong tư tưởng của nhân vật. Trạng thái
do dự, không dám dấn thân chính là đặc trưng của tầng lớp thanh niên thuộc thế
hệ thứ ba dòng họ Wang để rồi thấy cơ đơn ngay trên chính mảnh đất ruột thịt của
mình.

2.2.

Điểm nhìn của nhân vật “tơi” với giọng điệu mỉa mai

Trong kết cấu chung của toàn bộ tác phẩm, kiểu trần thuật của nhân vật kể
lại, xưng “tôi” chiếm dung lượng khơng nhiều nhưng rất quan trọng, nó cho phép
độc giả nhìn nhận vấn đề dưới góc nhìn đa chiều. Các trường đoạn trần thuật của
nhân vật chủ yếu là bổ sung thêm mảng sự kiện bên cạnh diễn biến chính của cốt
truyện mà người kể chuyện khơng đề cập đến. Lối trần thuật này tập trung nhiều
ở văn bản Những người con trai (Sons) và Gia đình chia rẽ (A house divided) thể
hiện qua các đoạn đối thoại. Lúc này cái nhìn tồn tri đã bị “mờ hóa”, di chuyển
vào cái nhìn của nhân vật “tơi”. Nhân vật “tôi” được tự do đứng trên diễn đàn phát

ngôn. Cùng với điểm nhìn trần thuật này, tác giả đã trao quyền năng cho “tôi” tự
đánh giá, nhận xét để tăng tính khách quan, khơng áp đặt cho độc giả. Với sự thay
đổi về điểm nhìn, giọng điệu cũng có sự biến chuyển rõ rệt. Bởi theo như Manfred
Jahn, giọng điệu được qui định bởi “ngơn ngữ xã hội (lối nói đặc trưng của một
67


Phạm Thị Hương Giang

nhóm người), ngữ vực (phong cách cá nhân hoặc phong cách ngữ vựng), ngơn ngữ
giới tính (phong cách đặc thù của giới mà đàn ông hoặc đàn bà ưa dùng, riêng cho
từng người)” [7;40]. Với số lượng đông đảo và đều mang giọng điệu mỉa mai nhưng
với ngữ điệu khác nhau, mỗi nhân vật “tơi” lại góp thêm tiếng nói đơn âm vào bản
nhạc đa âm của tác phẩm.
Giọng điệu của các tên lính thường cợt nhả, bơng đùa xuất phát từ cái nhìn
mang tính tầm thường, dung tục “Tao trông bọn đàn bà con gái ốm nhom, như gà
trụi lơng, trơng khơng có gì là hứng thú cả” [2;323]. Khi tường thuật lại hành động
mang tính trải nghiệm của mình, cũng nhân vật “tơi” này lại thể hiện giọng điệu
mỉa mai mang tính chân chất của người vốn xuất thân từ bần nơng ít học: “Tơi
rình mị ngay trang trại cũ chỗ mình ở trước, tơi lấy bùn và phân bị trát đầy mặt,
đầy người, khơng ai có thể nhận ra được, tơi lài nhài xin bố thí, để ý xem xét nghe
ngóng. Cả trại rối loạn, lão già la hét om sòm, hắn lia lịa ra lệnh, hết lệnh nọ đến
lệnh kia rồi lại hủy bỏ liền. Hắn nói gì nhiều lắm, mặt đỏ tía tai, phùng mang trợn
mép. Tôi mon men lại gần nghe hắn nói: “tao khơng ngờ thằng quỉ sứ, lơng mày sâu
róm lại dám chơi xỏ tao thế này. Thế mà ai cũng bảo tụi dân miền Bắc thật thà,
tử tế lắm. Tao muốn đâm cho nó một nhát mới hả giận. Quân ăn cướp” ” [2;130].
Theo nguyên bản, khuôn mặt tên tướng già được miêu tả qua cái nhìn của tên lính
là “his face is all purple and swollen” (cả khn mặt hắn đều màu tím và sưng lên)
[5]. Giọng điệu trần thuật mỉa mai của thằng Rỗ khi đi do thám căn cứ Tám Beo
lại mang nét tự phụ, khoa trương, khoác lên lối kể chuyện mang màu sắc huyền

ảo. Chất giọng châm biếm của người nông dân lại hướng về tầng lớp “chăn dân”
và những anh học trò “trói gà khơng chặt” với hai cấp độ sắc thái khác nhau: bỡn
cợt và mỉa mai khinh rẻ. Qua điểm nhìn của người quen lao động, bức chân dung
biếm họa về các cậu học trò được vẽ nên bởi những nét nguệch ngoạc mang tính
hài hước: “Những cậu học sinh khác, nom thấy ngán, người gì ốm nhom, cà khẳng,
cậu nào cũng cặp kính, hai tay như hai cẳng gà, ngoe nguẩy, răng vàng, cặp giò như
hai ống sậy, lồng trong chiếc quần ngoại quốc. Nói thật, nếu tơi có cái mẽ như thế,
tơi xấu hổ, trùm chăn kín mít” [3;140]. Thế nhưng giọng điệu ấy lại nhanh chóng
trở nên mỉa mai chua cay khi “chĩa mũi nhọn” vào nhiều đối tượng: bọn con buôn
chuyên hút máu người để sống, bọn lính tráng chuyên bắt nạt dân nghèo, bọn quan
lại chun “ăn rận nên người ln béo tốt”. Cái nhìn cận cảnh của người trong cuộc
như một pô ảnh, chụp lại những khuất tất vẫn đang từng ngày diễn ra ngồi xã hội.
Khơng hề có bình luận trữ tình ngoại đề của tác giả, nhân vật đối thoại với nhau
và dường như đối thoại với độc giả, dắt tay độc giả chứng thực cho những điều họ
nói là sự thật hiển hiện. “Kìa kìa, chú coi, thằng cha to lớn như vâm, ngồi trong
chiếc xe hơi, coi bộ hách dịch, oai vệ lắm. Thằng này vào hạng sét ty, hay tư bản,
ít nhất cũng là chủ hãng. Nom cái điệu bộ hắn, tơi đốn khơng sai, nó có biết đâu
đang ngồi trên Hỏa diệm sơn, không biết lửa sẽ phụt lên lúc nào, chết mất ngáp”
[3;109]. Giọng điệu mỉa mai tự trào của kẻ làm tướng thì chứa đựng sự chua chát
68


Di động điểm nhìn, trần thuật đa giọng điệu trong bộ ba tiểu thuyết Căn nhà đất...

xuất phát từ những trải nghiệm do cuộc đời chinh chiến bèo bọt mang lại. Giọng
điệu của tầng lớp cha mẹ thuộc thế hệ cũ thì chứa đựng rõ rệt sự ngán ngẩm trước
thuần phong mỹ tục đang dần bị đánh mất trong lối sống của bọn thanh niên mới
lớn thích hưởng thụ. Cùng là mỉa mai nhưng mỗi loại người lại có cách nhìn và cấp
độ bộc lộ khác nhau. Tính chất mỉa mai khu biệt trong điểm nhìn của nhân vật
được hịa quyện vào nhãn quan triết lí, thương cảm của người kể chuyện. Mỉa mai

để thấy, để hiểu, để xót xa cho các giá trị tốt đẹp đang dần mai một, để cảm thông
cho tầng lớp dân nghèo phải “một cổ nhiều trịng”. Giọng mỉa mai, do vậy, ln song
hành cùng giọng triết lí, thể hiện cái nhìn thương cảm của văn sĩ với kiếp người.
Hiệu quả của việc xây dựng điểm nhìn trần thuật từ vai nhân vật xưng “tơi”
trong tác phẩm, theo Manfred Jahn là thu hút sự chú ý tới ý nghĩ của nhân vật người phản ánh và bỏ qua người kể chuyện cùng quá trình sắp xếp trần thuật. Nó
giảm bớt sự hiện diện tràn lan của người kể chuyện, mở ra cánh cửa cho phép sự
tiếp nhận trực tiếp suy nghĩ của nhân vật. Nói cách khác, nó gợi cảm giác về tính
“trực tiếp”, “cơng khai”. Người đọc bị lôi cuốn vào câu chuyện và cùng trải nghiệm,
tựa như một tham thể đặc biệt trong các sự kiện đang diễn ra. Điều này cho phép
thể hiện thực tại trong tất cả các mâu thuẫn mang tính chất đa chiều, ẩn kín mà
người kể chuyện “tồn tri” khó nắm bắt. Đây chính là dụng ý của Pearl S. Buck
nhằm tạo nên tính đối thoại, liên hệ giữa độc giả với nhân vật và giữa nhân vật với
nhau.
Sự di động điểm nhìn và tính đa giọng điệu, với tiểu thuyết ngày nay, không
phải là một khám phá mới mẻ. Nhưng đặt trong bối cảnh ra đời của bộ ba tác phẩm
thì phương thức thử nghiệm ấy đã đánh dấu một bước chuyển khá rõ, làm thay đổi
tư duy tiểu thuyết. Theo như Herman Broch đã từng cho rằng: “Khám phá ra cái
mà chỉ có tiểu thuyết mới khám phá được, đó là lẽ sống duy nhất của tiểu thuyết.
Cuốn tiểu thuyết nào không khám phá ra thêm được một mẫu sự sống trước nay
chưa từng biết là một cuốn tiểu thuyết vơ đạo đức.” [8;12]. Có thể nói, cái mới mà
Pearl S. Buck đã đem lại cho nền văn học thế giới chính là cái nhìn sâu sắc về cuộc
sống, suy nghĩ của người Á Đông, dẫn đường cho sự cảm thông của con người trên
nhiều miền đất. Nhờ vậy, đến nay văn học nhân loại có thêm nhiều dịng hợp lưu
của các con sơng mang trong mình phù sa văn hóa, tạo nên một thế giới phẳng của
sự hiểu biết và lòng tin.

3.

Kết luận


Với việc đi sâu tìm hiểu, phân tích các điểm nhìn trần thuật cùng tính đa
giọng điệu trong tác phẩm, chúng tơi nhận thấy để chuyển tải các bức thơng điệp
mang tính nhân văn sâu sắc, tác giả đã rất khéo léo xoay chuyển các góc nhìn để
mổ xẻ các lớp sự kiện và nhân vật. Theo đó, mỗi góc nhìn lại bộc lộ khả năng tối
ưu theo chủ đích của tác giả. Gắn với cái nhìn tồn tri, người kể chuyện – tác giả
69


Phạm Thị Hương Giang

dễ dàng bày tỏ trực tiếp sự cảm thương mang tính nhân bản sâu sắc và lồng ghép
vào đó những triết lí đúc rút từ kinh nghiệm bản thân. Điểm nhìn của nhân vật
lại khai phá những ẩn ngữ tồn tại bên trong mỗi cá thể. Giọng điệu mỉa mai song
hành cùng chất giọng triết lí là cảm quan về thế thái nhân tình, thể hiện sự xót xa
cho những thân phận người nhỏ bé trong vịng xốy ln đổi chiều của các hệ tư
tưởng. Đây cũng chính là những điểm nhấn tạo nên văn phong Pearl S. Buck khơng
hề nhịe lẫn trong mn mặt nhà văn Mỹ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Pearl S. Buck, 2001. Đất lành, (Hồng Qn dịch). Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí
Minh.
[2] Pearl S. Buck, 2001. Mấy người con trai Vương Long, (Nguyễn Thế Vinh
dịch). Nxb Văn nghệ, TP. Hồ Chí Minh.
[3] Pearl S. Buck, 2001. Vương Nguyên, (Nguyễn Thế Vinh dịch). Nxb Văn
nghệ, TP. Hồ Chí Minh.
[4] Pearl S. Buck, the Good Earth zip – Winrar (evaluation copy), http://www.
truly-free.org/fiction
[5] Pearl S. Buck, Sons zip – Winrar (evaluation copy), />[6] Peter Conn, 1996. Pearl S. Buck: A Cultural Biography. Cambridge University Press. />[7] Manfred Jahn, 2005. Trần thuật học, (Nguyễn Thị Như Trang dịch). Tài
liệu lưu hành nội bộ trường ĐHSP, Hà Nội.
[8] Milan Kundera, 2001. Nghệ thuật tiểu thuyết, những di chúc bị phản bội.
Nxb Văn hóa thơng tin & Trung tâm văn hóa ngơn ngữ Đơng Tây, Hà Nội.

[9] Nguyễn Hiến Lê (2006), Sử Trung Quốc. Nxb Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh.
ABSTRACT
Moving the point of view to multiple tone of voice in narrative
in the trilogy The House of Earth by Pearl S. Buck
By moving the point of view in the trilogy The House of Earth Pearl S. Buck
has created the multiple point of view about “the archetypes of life” which has not
been exploited in Western literature yet. Combining the “total” point of view with
the point of view of the first narrator, the author has composed the accord of many
voices which concentrate on the main voice of the philosophical and the ironical.
These voices describe the characteristics, aspects of the overlapping characters and
events in the works. All show the reality of many conflicts in the Chinese society at
the whirl of the old and the new. The exceptional style of Pearl S. Buck has been
built on these materials.
70



×