BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
------------------------
Lê Thò Tâm Hoài
CÁI NHÌN NGHỆ THUẬT VỀ
NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG MỘT VÀI TIỂU
THUYẾT ĐOẠT GIẢI NĂM 1991 CỦA HỘI NHÀ
VĂN VIỆT NAM
.
Chuyên ngành: Lý Luận Văn Học
Mã số: 60 22 32
LUẬN VĂN THẠC SỸ: NGỮ VĂN
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN VĂN XUẤT
Thành phố Hồ Chí Minh - 2005
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Trang
1. Lý do chọn đề tài.................................................................................. 1
2. Lòch sử vấn đề....................................................................................... 3
3. Phạm vi của đề tài ................................................................................ 14
4. Phương pháp nghiên cứu....................................................................... 15
5. Đóng góp của luận văn......................................................................... 16
6. Cấu trúc của luận văn........................................................................... 16
Chương 1: BỐI CẢNH VĂN HOÁ LỊCH SỬ THẬP NIÊN 90.................... 18
1.1Bối cảnh chung về văn hoá lòch sử thập niên 90................................. 18
1.2Bối cảnh văn hoá lòch sử trong tiểu thuyết thập niên 90..................... 21
Chương 2: CÁI NHÌN NGHỆ THUẬT VỀ NGƯỜI PHỤ NỮ CỦA NHÀ VĂN
TRONG MỘT VÀI TIỂU THUYẾT ĐOẠT GIẢI NĂM 1991 (CỦA HỘI
NHÀ VĂN VIỆT NAM) ................................................................................. 25
2.1 Con người cá nhân tự nhiên................................................................ 26
2.1.1. Vẻ đẹp hình thức, vóc dáng..................................................... 28
2.1.2. Vẻ đẹp đôi mắt ........................................................................ 29
2.1.3. Sự hài hoà giữa ngoại hình và nội tâm.................................... 31
2.1.4. Vẻ đẹp cơ thể........................................................................... 32
2.1.5. Vẻ đẹp trong đời sống bản năng.............................................. 34
2.2 Con người cá nhân xã hội giai cấp và con người cá nhân nhân cách 43
2.2.1. Ý nghóa của việc tìm hiểu cái nhìn nghệ thuật về con người
cá nhân xã hội giai cấp và con người cá nhân nhân cách ................. 43
2.2.2 Con người cá nhân lệ thuộc điều kiện giai cấp ........................ 44
2.2.3. Con người cá nhân lệ thuộc điều kiện nhân cách.................... 53
2.2.3.1. Quan niệm về con người cá nhân nhân cách ................. 53
2.2.3.2. Con người tự ý thức chính là biểu hiện của con người
cá nhân nhân cách....................................................................... 55
Chương 3: THỜI GIAN – KHÔNG GIAN VÀ
GIỌNG ĐIỆU – NGÔN TỪ NGHỆ THUẬT. ......................... 82
3.1. Thời gian và không gian nghệ thuật.................................................. 82
3.1.1. Thời gian nghệ thuật................................................................ 82
3.1.2. Không gian nghệ thuật............................................................. 93
3.2. Giọng điệu và ngôn từ nghệ thuật.....................................................107
3.2.1. Giọng điệu................................................................................107
3.2.1.1. Giọng triết lý tranh biện ..................................................108
3.2.1.2. Giọng điệu thể hiện sự trải nghiệm cá nhân, tâm tình chia sẻ
112
3.2.1.3. Giọng hài hước hóm hỉnh, cười cợt nghiêm túc...............115
3.2.2. Ngôn từ: cấu trúc ngôn từ ít nhiều mang tính đa thanh đối thoại...119
PHẦN KẾT LUẬN..................................................................................135
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................140
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu:
Văn xuôi thập niên 90 đã cho ra đời những cây bút thực sự tài năng. Sự
xuất hiện của các nhà văn Lê Lựu, Chu Lai, Nguyễn Huy Thiệp, Cao Duy Thảo,
Phạm Thò Hoài … đặc biệt Nguyễn Khắc Trường, Dương Hướng, Bảo Ninh đã
thổi vào dòng văn học này một luồng tư duy mới và họ đã nhanh chóng trở thành
lực lượng chính trên văn đàn. Những nhà tiểu thuyết này đã thể hiện cách tiếp
cận mới về cuộc sống con người đầy những mâu thuẫn khó giải quyết, những
niềm vui, nỗi đau vónh hằng của nhân loại và con người mang trong mình những
xung đột nội tâm sâu sắc “hoặc to lớn hơn số phận của mình hoặc nhỏ bé hơn tính
người của mình”.
Cùng trưởng thành trong quân đội Dương Hướng, Nguyễn Khắc Trường
cũng như Bảo Ninh luôn ý thức về tác dụng của văn học đối với đời sống và con
người. Tự sâu thẳm trong nhu cầu nhận thức, ba nhà tiểu thuyết này đã tìm cách
để tiếp cận với cõi tận cùng trong tâm hồn con người, đặc biệt là người phụ nữ.
Cuộc sống đã đổi thay đương nhiên hình ảnh con người cũng thay đổi, điều này
ai cũng có thể nói được. Vấn đề là ở chỗ anh phải nêu được cách nhìn nhận đánh
giá lý giải mới về con người thì điều đó mới làm cho văn học đổi thay căn bản.
Vậy, những người phụ nữ trong tiểu thuyết thập niên 90 này như thế nào ? Họ
luôn mong đợi khát khao, hy vọng và tìm kiếm cho dù có khi họ biết cái đã qua
không bao giờ trở lại cũng như điều mong ước chắc gì đã có được trong đời.
Ngay trong cuộc sống đời thường, những bà Nhân, bà Son, cô Hạnh, cô Đào
cũng phải sống trong “chốn giáp ranh giữa đòa ngục và trần gian” chỉ vì vòng
quay chóng mặt của những tham vọng và quyền lực mà người thân của họ đang
2
khao khát. Hay Phương cô sinh viên trường Bưởi với tình yêu Kiên rực cháy một
thời cuối cùng phải sống cuộc đời buông thả, thác loạn.
Mark đã từng nói một ý khá sâu sắc rằng sự giải phóng phụ nữ chính là
thước đo sự văn minh, tiến bộ của nhân loại. Vâng, số phận con người; mà cụ
thể là người phụ nữ với những buồn vui trăn trở trên con đường kiếm tìm hạnh
phúc trong tiểu thuyết thập niên này đã để lại trong lòng người đọc nhiều ấn
tượng. Vì thế khi nghiên cứu cái nhìn nghệ thuật về người phụ nữ trên bình diện
thi pháp học hiện đại trong tiểu thuyết đã tạo ra bước đột phá mang ý nghóa triết
– mỹ học, khoa học văn hoá về sự nhìn nhận mới mẻ đối với người phụ nữ trong
nghệ thuật và trong cuộc sống. Đó là cái nhìn nhiều chiều, phát hiện ra bình
diện mới về người phụ nữ. Sự tự ý thức, tự thức nhận, soát xét lại cuộc sống của
mình và môi trường xung quanh để không ngừng vươn tới bản ngã đích thực của
mình và bản chất phức điệu vốn có của cuộc sống.
Có lẽ chưa bao giờ số phận đời tư cá nhân, nhất là người phụ nữ lại được đề
cập một cách sâu sắc và thấm thía như trong ba tiểu thuyết (Mảnh đất lắm người
nhiều ma, Bến Không Chồng, Thân phận của tình yêu) này. Người phụ nữ với nhu
cầu làm vợ, làm mẹ, thậm chí mong muốn được hiến dâng và coi đó như niềm
hạnh phúc lớn lao. Xuất phát từ cách nhìn như vậy về người phụ nữ, ba nhà tiểu
thuyết đoạt giải năm 1991 (Nguyễn Khắc Trường, Dương Hướng, Bảo Ninh …)
đã thể hiện quan điểm nhân văn trong thái độ ủng hộ đối với những mối tình
ngang trái, trong những suy tư và hành động của nhân vật. Đặc biệt, khi cuộc
sống của họ được đặt vào một bối cảnh cụ thể (Làng Đông, xóm Giếng Chùa,
hay cuộc chiến tranh vệ quốc ….) chòu sự tác động đa chiều của xã hội thì số
phận của họ lại được miêu tả đầy biến động và phức tạp.
Các tiểu thuyết đoạt giải của Hội nhà văn Việt Nam đã trở thành sự kiện
quan trọng, tạo nên những làn sóng tranh luận trong giới phê bình nghiên cứu. Ý
3
kiến khen nhiều mà chê cũng không ít. Song, sự đánh giá ấy càng làm cho đời
sống văn học thêm phong phú cũng như vấn đề được khai phá đến cùng, chứng
tỏ nét độc đáo của ba nhà tiểu thuyết trên hành trình nghệ thuật. Với cái nhìn
bao dung, cảm thông, chia sẻ, các nhà tiểu thuyết đã tạo được sự đồng cảm đối
với những người phụ nữ, họ không chỉ biết xót thương mà thực sự cùng tham gia
vào cuộc sống, giải quyết những vấn đề hết sức đời thường nên có sức cảm hoá
lớn. Hơn nữa, trên văn đàn thế giới những năm gần đây, các nhà văn nữ liên tiếp
nhận giải Nobel về văn học. Trong tiểu thuyết “Thầy giáo dạy dương cầm”, nữ
văn só người Áo, bà Ilfriede Jelinek – người đoạt giải Nobel văn chương 2004 đã
nói rằng: “Phụ nữ không thể nở mặt với đời trong một thế giới mà hình ảnh của
họ bò đúc thành những khuôn mẫu”.
Với ý nghóa trên, người viết luận văn này sẽ đi vào nghiên cứu cái nhìn
nghệ thuật về người phụ nữ của ba tiểu thuyết gia đã đoạt giải thưởng của Hội
nhà văn Việt Nam 1991 một cách toàn diện bao quát hơn để bù lắp vào những
khoảng trống chưa được khai thác. Trên cơ sở đó, chỉ ra những bước đột phá
trong tư duy cũng như cách biểu hiện cái nhìn đa chiều của các nhà văn về hệ
thống nhân vật nữ. Đồng thời nêu được những đóng góp và hạn chế của họ trên
tiến trình hiện đại hoá văn học nói chung và tiểu thuyết Việt Nam thập niên 90
nói riêng.
2. Lòch sử vấn đề:
Ắt hẳn chúng ta đã biết, các cây bút tiểu thuyết đoạt giải năm 1991 đều
trưởng thành trong quân đội, và họ có cùng trang lứa với nhau: Nguyễn khắc
Trường (1946), Dương Hướng (1949), Bảo Ninh (1950).Với nguồn tư liệu là
vốn sống phong phú và sự từng trải, các nhà tiểu thuyết đoạt giải đã chứng tỏ sự
già dặn trong cách cảm, cách nghó của mình trước cuộc sống. Nếu “Mảnh đất
lắm người nhiều ma” và “Bến Không Chồng” có đề tài gần gũi nhau – cả hai tiểu
4
thuyết đều lấy bối cảnh là cuộc sống nông thôn ở làng Giếng Chùa và làng
Đông thì “Thân phận của tình yêu” của Bảo Ninh là đời sống của những trí thức
sau chiến tranh thông qua hai nhân vật Kiên – Phương trong nỗi ám ảnh, day dứt
khôn nguôi.
Như một quy luật tất yếu của đời sống văn học, bất kỳ một hiện tượng văn
học nào cũng dễ gây tranh luận mà các tiểu thuyết đoạt giải năm 1991 chính là
một hiện tượng có sức cuốn hút mãnh liệt không chỉ những cây bút phê bình tên
tuổi như Trần Đình Sử, Hoàng Ngọc Hiến, Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Đăng
Mạnh, Đỗ Văn Khang, Hà Minh Đức, Ngô Vónh Bình, Trung Trung Đỉnh,
Nguyễn Văn Long, Nguyễn Hữu Sơn, Võ Gia Trò, Đỗ Minh Tuấn, Trần Quốc
Huấn, mà các nhà văn, nhà thơ như Nguyên Ngọc, Hồ Phương, Đào Hiếu,
Phạm Hoa, Từ Quốc Hoài, Hoàng Hưng, Vũ Quần Phương … cũng tốn không
biết bao nhiêu giấy mực. Trong số những ý kiến đánh giá ấy thì phần lớn là khen
và chỉ ra những thành công về nhiều phương diện cũng như một số tồn tại về
mặt đề tài, kết cấu, cách sử dụng từ ngữ, xây dựng nhân vật, không gian, thời
gian … mà nếu các nhà tiểu thuyết lưu tâm hơn chút nữa thì tác phẩm sẽ tròn tròa
biết bao ?!
Mặc dù hiện tượng 3 tiểu thuyết đoạt giải 1991 được xem là một hiện tượng
văn học lớn nhưng chỉ thực sự gây tranh luận sôi nổi trong hai năm 1991, 1992,
rồi rải rác trong các năm 1995,1997 có thêm vài bài báo khác cũng là tìm thêm
những điểm độc đáo, mới mẻ của các tiểu thuyết đoạt giải năm 1991 này. Vì
vậy, khi viết phần lòch sử vấn đề, chúng tôi không đi theo trình tự thời gian mà
chia ra thành một số vấn đề chẳng hạn như : đề tài, bố cục kết cấu, hình tượng
nhân vật, không gian, thời gian, ngôn ngữ, giọng điệu…. Rất mong được sự đồng
tình và chấp nhận về cách trình bày này.
5
Trong số những ý kiến đánh giá thì đa số gặp gỡ nhau ở những điểm chung
rằng: đây là những tiểu thuyết xuất sắc cả về nội dung lẫn nghệ thuật. Hai cuốn
“Mảnh đất lắm người nhiều ma” và “Bến Không Chồng” hầu như không có ý
kiến trái ngược nào, riêng “Thân phận của tình yêu” nhiều ý kiến cũng gặp gỡ
nhau ở điểm đây thực sự là cuốn sách hay, nghệ thuật được trau chuốt hơn cả.
Nhưng Đỗ Văn Khang và Đỗ Minh Tuấn lại có ý kiến ngược lại.
Song, đề tài của người viết là “cái nhìn nghệ thuật về người phụ nữ …” vì
thế chúng tôi không đi sâu vào tranh luận vấn đề này. Có lẽ kỳ quan nào của tạo
hoá cũng có những thiếu xót nên những mặt hạn chế ấy chỉ làm cho cái nhìn của
chúng ta về cuộc sống thêm phong phú và đúng với quy luật vốn có của nó mà thôi.
2.1 Về đề tài, cuộc hội thảo trên báo Văn nghệ về hai tiểu thuyết “Mảnh
đất lắm người nhiều ma” và” Bến Không Chồng” các nhà nghiên cứu đều đưa
ra ý kiến khá thống nhất. Chẳng hạn Nguyễn Đăng Mạnh cho rằng: “Đã lâu lắm
rồi mới xuất hiện một tác phẩm viết về nông thôn Việt Nam theo đúng cái mạch
của “Tắt đèn”, “Chí phèo”. Có thể nói cái làng Giếng Chùa trong “Mảnh đất lắm
người nhiều ma”, là sự cộng lại của hai cái làng Đông Xá của Ngô Tất Tố và Vũ
Đại của Nam cao “ [77;392]. Hay “Mảnh đất lắm người nhiều ma tạm coi là một
cái mốc trong đề tài nông thôn “ (Nguyễn Phan Hách) [77;396]. Đặc biệt, Thiếu
Mai đã có một ý kiến khá sâu sắc: “Trong năm 1990, sách viết về nông thôn
không ít trong đó có hai cuốn được dư luận chú ý và đánh giá cao nhất là “Bến
Không Chồng” của Dương Hướng”, “Mảnh đất lắm người nhiều ma” của nguyễn
Khắc Trường. Ý kiến khá thống nhất chứ không mâu thuẫn trái chiều như với một
số tác phẩm khác (… )vấn đề dòng họ nông thôn đã được hai tác giả quan tâm,
khai thác và khai thác khá thành công “. [77;397]. Trong khi đó, “Thân phận của
tình yêu” của Bảo Ninh lại viết về đề tài tình yêu và nghệ thuật trước, trong và
sau chiến tranh thông qua những hồi ức đầy bất trắc của Kiên. Vâng, nếu chỉ
6
dừng lại ở đề tài chiến tranh thì có lẽ người đọc sẽ thấy toàn bom đạn dữ dội và
ác liệt, nhưng Bảo Ninh đã khéo léo lồng vào đó một đề tài khá thú vò là mối
tình đôi lứa “Kiên – Phương”. Nhờ mối tình ấy mà cuốn tiểu thuyết của anh đẹp
đẽ, lãng mạn, đầy chất thơ và cũng đầy bi kòch. Lấy bối cảnh nền là cuộc chiến
giải phóng miền Nam, Bảo Ninh đã chỉ ra Thân phận của tình yêu như thế nào ?
“Tình yêu giữa Kiên và Phương là một mối tình rực rỡ, tàn nhẫn và xót xa” (Đào
Hiếu), hay “Về những nghòch lý của tình yêu, một đề tài dễ sáo mòn – Bảo Ninh
khó mà đưa ra được điều gì thực sự mới mẻ và sâu sắc. Đóng góp của tác giả là
sáng tạo được một cặp trai gái thực sự là tình nhân: Kiên và Phương bất chấp
chiến tranh kinh khủøng (và đời thường trong hoà bình còn khinh khủng hơn), bất
chấp bạo tàn và ô nhục (…) Kiên và Phương là một cặp tình nhân lãng mạn (có
tình yêu nào mà không lãng mạn) [16].
2.2. Bố cục – kết cấu- cốt truyện:
Ở một khía cạnh khác, các nhà phê bình nghiên cứu quan tâm nữa là
phương diện bố cục, kết cấu và cốt truyện của các tiểu thuyết này. Bởi vì
thông thường trong tiểu thuyết: “Các nhân vật đều bò phân đònh bằng cốt truyện,
các quan hệ do chúng tạo ra bởi cốt truyện và do cốt truyện hoàn tất (…) cốt
truyện không chỉ là trang phục mà còn là thân xác, linh hồn của chúng. Và ngược
lại, xác và hồn của chúng chỉ có thể được bộc lộ và hoàn tất trong cốt truyện”.
(M.Bakhtin). Như vậy, tầm quan trọng của bố cục, kế cấu, cốt truyện đã quyết
đònh sự thành công của tác phẩm nói chung và tiểu thuyết nói riêng, về phương
kiện này, các cây bút tiểu thuyết đoạt giải 1991 đã có những đóng góp xuất sắc.
“Tuy nội dung vẫn chỉ là một luỹ tre làng, nhưng các cuốn sách vẫn đọc chạy
trang nhờ có một cốt truyện được dàn dựng cẩn thận” (Nguyễn Phan Hách). Còn
Từ Quốc Hoài, sau khi nêu ra những nhận xét khá tỉ mỉ về không gian, thời gian
hệ thống nhân vật, ông nhận xét rằng: “Về mặt kết cấu, tiểu thuyết (Mảnh đất
7
lắm người nhiều ma) có hơi bò “phình” ra ở phần sau, song do có được vốn sống
sâu sắc, cộng với thứ ngôn ngữ tươi rói chất dân gian, tác giả đã cột chặt người
đọc từ trang đầu đến trang cuối cùng “ [77;423]. Đến với “Thân phận của tình
yêu”, Đào Hiếu lại có những nhận xét khá lí thú: “ Bảo Ninh tạo một cấu trúc
truyện “không cần cấu trúc”. Với một nhà văn ít vốn sống thì việc phá bỏ cấu
trúc như thế đòi hỏi nhiều kinh nghiệm. Nhưng với Bảo Ninh, kẻ thừa mứa vốn
sống chiến tranh thì chỉ cần cảm xúc. Chính cảm xúc đã thay anh dẫn dắt câu
chuyện, dẫn dắt kết cấu, bố cục và tạo được cho nó cái vẻ phi cấu trúc một cách
tương đối có nghề “ [19]. Còn nhà thơ Vũ Quần Phương khi trả lời phỏng vấn của
phóng viên báo Người Hà Nội đã đưa ra ý kiến mà người viết rất tâm đắc:
“Nghệ thuật viết ở cuối này (Thân phận của tình yêu) được chăm sóc hơn cả “. Và
ở “Bến Không Chồng”, chúng ta lại bắt gặp những đánh giá thật khách quan
“Bến Không Chồng” không có những tìm tòi mới lạ về nghệ thuật. Cách trần
thuật và miêu tả của Dương Hướng mộc mạc, tự nhiên có những chỗ còn đơn giản
và vụng nữa, sức hấp dẫn của cuốn tiểu thuyết là ở bố cục chặt chẽ và cách viết
chân thực, vốn hiểu biết đời sống nông thôn và cách nhìn nhân đạo với số phận
con người” (Nguyễn Văn Long). Trong khi đó, Trung Trug Đỉnh thì nhìn nhận ở
khía cạnh khác cởi mở hơn:”Cuốn sách được kết cấu hồn nhiên, thuận chiều theo
thời gian theo sự kiện chung của đất nước trong khoảng thời gian đó “[7].
Như vậy, trong ba tiểu thuyết đoạt giải, kết cấu của “Bến Không Chồng” có
lẽ là đơn giản hơn cả theo trật tự thời gian cũng như theo chiều dài của số phận
nhân vật từ thû ấu thơ, đến trưởng thành … với những thay đổi chóng mặt.
2.3. Vấn đề con người
Đặc biệt, văn học Việt Nam nhiều thập niên gần đây với sự chối bỏ mạnh
mẽ kiểu tư duy nghệ thuật khuôn sáo, hướng văn học đi vào con người cụ thể đã
mở đường cho sự giải phóng cá tính sáng tạo và góp phần quyết đònh trong việc
8
đem lại sinh khí cho văn học. Và đi từ nguyên lý “văn học là nhân học”, chúng
ta có thể công nhận rằng: giá trò của văn học là ở chỗ nó đã hiểu, cảm nhận và
chiếm lónh con người sâu sắc đến mức độ nào. Con người vừa là chủ thể, vừa là
đối tượng của sáng tác văn học. Vì thế muốn xác đònh giá trò của bất kỳ hiện
tượng văn học nào trong lòch sử ta không thể bỏ qua vấn đề con người được
quan tâm và đề cập ở đó như thế nào ?.
Bàn về vấn đề này, các nhà phê bình, nghiên cứu về các tiểu thuyết đoạt
giải năm 1991 đã có khá nhiều ý kiến tranh luận. Đặc biệt là hệ thống nhân
vật. Song, hình ảnh người phụ nữ vẫn chưa được các nhà nghiên cứu quan tâm
đánh giá, thường chỉ điểm qua bằng một vài câu hoặc nói chung chung về nỗi
băn khoăn, sự trăn trở trên con đường kiếm tìm hạnh phúc của người phụ nữ. Họ
chính là những ẩn số làm đẹp cho đời, cho cuộc sống:”Chất thơ và hương thơm
trong tiểu thuyết “Thân phận của tình yêu” chủ yếu toả lên từ mối tình của
Phương, từ thân thể, tâm hồn Phương (…) . Người con gái 17 tuổi ấy, người con
gái lạc thời và lạc loài ấy yêu cha của Kiên hơn yêu Kiên” [18;302], hoặc Lê
Ngọc Trà, khi khai thác sự biến dạng trong tâm hồn Phương đã nói : “Cô nữ sinh
Chu Văn An hồn nhiên ngày ấy bây giờ đã trở thành người phụ nữ thả mình trong
hoan lạc. Một con người ham sống, sống quyết liệt như Phương, bây giờ chán tất
cả, không còn dám coi cái gì là thiêng liêng nữa” [59;45]. Đâu chỉ Phương,
những cô gái bên suối đêm đêm chờ đợi thấp thỏm mong được gặp lại các anh
lính trong những cuộc tình vụng trộm cũng thật đáng thương. Đó là nỗi đau của
những người phụ nữ trong chiến tranh. Còn Hạnh, Dâu, Thắm trong ”Bến Không
Chồng” lại là những cô gái nông thôn dân dã, mộc mạc, đằm thắm là thế mà
cuộc sống lại trớ trêu cay đắng: “Lời nguyền của dòng họ tưởng đã bò lãng quên
thì vẫn như một kí ức thấm sâu trong tâm thức con người, nay lại bừng dậy đến
nỗi Hạnh phải tuyệt vọng, cô gục ngã trước một sức mạnh vô hình mà nghiệt
9
ngã” (Nguyễn Văn Long) . Cùng mạch suy nghó đó, Trung Trung Đỉnh đã băn
khoăn: “ Đọc “Bến Không Chồng” không thể không nhắc đến thân phận người
phụ nữ, từ bà Nhân mẹ Hạnh đến bà Khiêm mẹ Nghóa. Từ mụ Hơn đến cô Thắm,
cô Thuỷ, cô Hạnh, cô Tí Hin.Mỗi người một hoàn cảnh, một tính cách, một khuôn
mặt nhưng lại cũng rất là người làng Đông. Tác giả đặc biệt cảm thông và ưu ái,
đặc biệt bao dung khi mô tả hoàn cảnh và tính cách của họ. Một cô Dâu đáo để
mà lại đa cảm đa tình. Một cô Thắm ngưỡng mộ chàng pháo thủ đến bỏ chồng.
Một cô Cúc không dám yêu anh Thành thương binh dò dạng. Một Thuỷ văn công,
đặc biệt là Hạnh: đằm thắm, nhu mì, trong sáng, chòu thương, chòu khó, chín chắn
và quyết liệt, trung thực và dũng cảm. Dũng cảm hi sinh và dũng cảm tự nhận mọi
hậu quả của số phận mình. Người phụ nữ hiện lên qua tác phẩm gần gũi với ta,
tựa hồ như đó là mẹ ta, chò ta, em ta, bạn ta, không phải mất công tìm hiểu lâu
mới có được “ . Cùng gặp gỡ với những suy nghó trên, Lê Ngọc Trà, Tôn
Phương Lan, Bùi Việt Thắng, Đỗ Mai Hà cũng có cách đánh giá tương tự về
thân phận người phụ nữ…
Nếu ở tiểu thuyết “Thân phận của tình yêu” là hình ảnh người phụ nữ trí
thức, cô giao liên… trước giông bão chiến tranh, ở “Bến Không Chồng” là hậu
quả của lời thề nguyền cay đắng của hai họ tộc thì đến “Mảnh đất lắm người
nhiều ma”, người phụ nữ bò trở thành con bài cho những kẻ có quyền thế lợi
dụng. Quả thật, trừ ông Hàm khi đứng độc lập vẫn hoàn chỉnh một chân dung
đầy tính cách thì bà Son “nổi bật ở thân bận bi ai của người vô tội biến thành nạn
nhân chiến tranh của cả hai phe“ (Thanh Phước) [49]. Ngay cả một người ngoại
quốc, bà Lady Borton nữ nhà văn kiêm dòch giả Mỹ, người hiệu đính bản tiếng
Anh tiểu thuyết này nhận xét ở báo Thể thao – Văn hoá rằng: “Tính cách nhân
vật Son để lại ấn tượng khá sâu trong lòng người đọc, Son âm thầm như một cái
bóng, đó là tính cách của nhân vật không có được niềm tin vào cuộc đời. . Trong
10
tiểu thuyết, ngoài bà Son còn có chò Bé, cô Lạc, cô Đào … mỗi nhân vật đều
được các nhà nghiên cứu nói đến, tiếc rằng, họ chỉ có ý đònh xem những nhân
vật nữ này trong mối quan hệ là phương tiện cho hai thế lực tranh giành quyền
lợi dòng họ mà chưa đi vào khai thác chiều sâu trong tâm hồn họ.
2.4. Về không gian, thời gian nghệ thuật
Điều dễ nhận thấy trong các tiểu thuyết đoạt giải là họ đã tạo được những
khoảng không gian rất đặc biệt. Đó là không gian của những mảng hồi ức,
những huyền thoại triền miên không dứt “Tiểu thuyết Bảo Ninh là một giấc mơ
dài, một huyền thoại của thời đại “ [18;298] hoặc “Mưa và đêm chiến tranh và
sáng tác, khùûng khiếp và hồn hoang . Len lỏi, bao trùm và dẫn dắt tất cả các biến
động của tiểu thuyết”.[18;298]. Còn đối với “Mảnh đất lắm người nhiều ma” thì
Hà Minh Đức cho rằng “không cuộn lên trong các phong trào đấu tranh yêu
nước, cải cách, hợp tác mà sôi lên những nguyên nhân bên trong, những chuyện
làng xóm” [77;387]. Như vậy, ở đây có thể Nguyễn Khắc Trường thiên về tìm
kiếm những vùng không gian của chuyện làng xóm , chuyện cư xử của lãnh đạo
… Còn Nguyễn Đăng Mạnh lại thấy ở đây kiểu “không khí âm dương lẫn lộn, quỷ
ở với người” [77;392] hoặc “Âm khí còn nặng nề nhưng dương khí đã bắt đầu
phát triển” [77;393]. Ở một phương diện khác, các nhà phê bình còn chú tâm
đến bầu không khí nghệ thuật của các tác phẩm “không khí oi nồng vô cùng xưa
cũ mà hết sức hôm nay ở những làng quê bao lần ta thờ ơ đi qua chẳng biết và
bỗng hiểu ra rằng, trong cái “không khí” ấy thì ắt mọi chuyện nhất thiết phải diễn
ra như vậy” [77;401]. Hầu như chưa thấy các nhà phê bình nghiên cứu tỉ mỉ vấn
đề không gian nghệ thuật cũng như kiến trúc về thời gian, việc tạo ra những thời
điểm khủng hoảng, điểm ngưng thời gian đầy tính nghệ thuật cũng chưa được
nhắc đến. Người viết ở chương này sẽ cố gắng đi vào khám phá một số đặc sắc
nghệ thuật trong việc sử dụng không gian và thời gian.
11
2.5. Ngôn từ và giọng điệu
Có thể nói, ngôn từ và giọng điệu là yếu tố quan trọng của văn học nói
chung và tiểu thuyết nói riêng. Khi đánh giá về ngôn từ, “Thân phận của tình
yêu” của Bảo Ninh được xem trọng hơn cả do tác giả đã “dẫn dụ được người
đọc”, “bút pháp Bảo Ninh đã truyền được sức mạnh cho ngôn ngữ. Bút pháp của
anh khi lạnh lùng, khi cháy bỏng, lúc uể oải, lúc dồn dập, câu ngắn xen lẫn câu
dài, lối dẫn chuyện lấp lửng, hé một chút rồi đóng lại, lửng lơ “ [19;73], hoặc
“Trong ba cuốn tiểu thuyết đoạt giải thì nghệ thuật cuốn Nỗi buồn chiến tranh
được chăm sóc hơn cả” (Vũ Quần Phương) . Còn ở “Bến Không Chồng” các nhà
bình luận thấy Dương Hướng hầu như chỉ dùng một lối trần thuật tự nhiên, giản
dò, gần gũi với ngôn ngữ đời thường “Cách trần thuật và miêu tả của Dương
Hướng mộc mạc, tự nhiên có những chỗ còn đơn giản và vụng nữa. Sức hấp dẫn
của cuốn tiểu thuyết là ở sự chân thực, ở vốn hiểu biết đời sống nông thôn và một
cách nhìn cảm thông, nhân đạo “ (Nguyễn Văn Long). Trong khi đó, Mảnh đất
lắm người nhiều ma lại có khá nhiều ý kiến: “ngôn từ rất phong phú, sinh động,
các thành ngữ, tục ngữ, các ngôn ngữ “bộ đội” được sử dụng linh hoạt làm cho
lời trần thuật tươi tắn và có duyên” [77;391]; “Tác giả Mảnh đất lắm người nhiều
ma hoà vào các nhân vật, hoà vào từng nhân vật và thế giới riêng của nó, bằng
tiết tấu của chính nó”ù ( Hoàng Ngọc Hiến) [77; 395]; “Nguyễn Khắc Trường rất
chú tâm đến việc miêu tả chi tiết, trau chuốt ngôn ngữ … đó là điều đáng khen”
(Nguyễn Phan Hách)… Ở vấn đề giọng điệu, hầu hết các nhà phê bình nghiên
cứu đều cho rằng giọng điệu chủ đạo trong Mảnh đất lắm người nhiều ma là
giọng hài hước “Từ sử dụng độc đáo và đích đáng các khẩu ngữ, thành ngữ đến
việc ẩn giấu, lẩn quẩn một giọng điệu bi hài để soi xét và nghiền ngẫm tận tâm
can của con người “ (Lê Thành Nghò) [77;415]. “Thực chất tình huống bi lòch lại
12
được giải thích dưới hình thức châm biếm hài hước”. [77;436]… Các ý kiến của
Trần Đình Sử, Phong Lê, Trung Trung Đỉnh đều thống nhất như vậy. Ngược lại,
“Thân phận của tình yêu” thì : ”với lối hành văn hết sức có văn hoá, vừa tỉnh táo,
giàu chất suy nghó, vừa say đắm trữ tình làm cho cuốn tiểu thuyết của Bảo Ninh
trở thành tác phẩm hay nhất, vượt lên giải thưởng văn xuôi năm nay “ [59; 48].
Rải rác trên một số bài báo khác cũng bàn luận về vấn đề này nhưng chỉ có tính
sơ lược, “cưỡi ngựa xem hoa” chứ chưa có được một sự trình bày nghiên cứu tỉ
mỉ.
Như vậy, thông qua vấn đề đánh giá về các tiểu thuyết đoạt giải năm 1991
của giới phê bình nghiên cứu, chúng ta thấy ý kiến đánh giá về sự thành công
chiếm đa số. Song bất kỳ một tác phẩm nào dù thành công đến đâu cũng sẽ có
một vài hạn chế. Đó là quy luật tất yếu của cuộc sống, nói những điểm hạn chế
của các tiểu thuyết đoạt giải, giới phê bình không có ý hạ thấp tác phẩm hay tên
tuổi nhà văn mà chỉ có ý muốn đóng góp những ý kiến tỉnh táo của mình để giúp
cho bộ mặt văn học ngày càng hoàn thiện hơn. Chẳng hạn, trong kết cấu của
“Mảnh đất lắm người nhiều ma“. Đọc tới chỗ bà Son chết, giá mà tác giả chỉ làm
thêm chút vó thanh giống như cái điếu văn cho lũ ma sống thì vừa. Diễn giải thêm
bao nhiêu, nhạt bấy nhiêu”.(Trung Trung Đỉnh) [7;15]. Hoặc Trần Đình Sử trăn
trở khi gập quyển sách lại “vẫn cảm thấy dư ba chưa nhiều, những xung đột tày
đình như vậy đang xảy ra ở nông thôn, vậy mà tác giả vẫn chưa làm cho người
đọc thấy day dứt, đau đớn“. Bên cạnh thành công về việc tạo giọng điệu hài
hước cho tác phẩm, dựng dậy một không gian “người ma lẫn lộn” kiểu “quỷ ở
với người” thì cấu trúc – theo Thanh Phước – là cái dở nhất của tiểu thuyết
“Mảnh đất lắm người nhiều ma”. Vâng việc đổi mới tư duy nghệ thuật đã làm
cho hiện thực cuộc sống không chỉ được nhìn từ nhiều góc độ mà nó còn được
thể hiện theo từng cách khác nhau. Song, chính sự đổi mới tư duy ấy đã làm cho
13
nhà văn thấy lúng túng, đôi khi tạo ra một hệ thống nhân vật mà họ lại không có
đất diễn.
Đối lập với những cách nhìn nhận đánh giá của nhiều nhà nghiên cứu, Đỗ
Văn Khang, Đỗ Minh Tuấn kòch liệt phê phán cuốn “Thân phận của tình yêu“
mà các ông cho là “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh chẳng có gì đáng làm ta
kinh hãi, vì nếu nó cũ mòn và lạc hậu về tư tưởng thì nó cũng như trăm ngàn cuốn
tiểu thuyết xoàng xónh quanh ta. Cái làm ta kinh hãi là việc người ta ngộ nhận về
giá trò của nó, giao giải thưởng cho nó, tiếp tục đưa nó lên mây xanh để dễ bề
khai thác nó. Một điều “chập chờn bất đònh” nữa là thật khó mà biết được những
bản dòch cuốn truyện này đã xa nguyên tác đến đâu” [71;19]. Nói như thế có
nghóa là ông phủ nhận sạch trơn những giá trò của cuốn sách và còn xuyên tạc sự
thật nghệ thuật. Theo ông, “Nhà văn là người tiên tri, anh ra sẽ cảm thấy xấu hổ
biết bao khi biết mình đã đưa ra câu trả lời cũ hơn lòch sử”. [70;17]. Song thời
gian quả là một sự sàng lọc lớn, và cho đến nay, ngót 15 năm, đủ để chúng ta
bình tónh nhìn lại những hiện tượng văn học này một cách thật công bằng bởi xưa
nay những giá trò nghệ thuật đích thực vẫn luôn trường tồn cùng thời gian.
Hầu hết các bài viết của các nhà nghiên cứu, phê bình tập trung vào những
vấn đề khá bức xúc: sự đổi mới trong tư duy nghệ thuật qua việc thể hiện cái
nhìn nghệ thuật về con người, những cách tân trong nghệ thuật thể hiện; tranh
luận lý giải xung quanh các sáng tác của một số cây viết đã tạo ra nhiều luồng
tiếp nhận khác nhau.
Qua những nét phác thảo, các nhà nghiên cứu đã để lại một ấn tượng về sự
hấp dẫn riêng biệt của thể loại tiểu thuyết nói chung và ba tiểu thuyết đoạt giải
năm 1991 của Hội nhà văn Việt Nam nói riêng. n tượng này gợi sự yêu thích
nơi bạn đọc và thôi thúc các nhà nghiên cứu đi sâu tìm tòi, khám phá trên những
mảnh đất đã và đang được cày xới. Khám phá những nét đặc trưng tạo ưu thế
14
cho thể loại đi đầu trong các thể loại của văn học trên tiến trình hiện đại hoá
văn học. Đồng thời qua đó, chúng ta cũng thấy được tài năng và tâm huyết của
các nhà Văn Bảo Ninh, Nguyễn Khắc Trường, Dương Hướng . Họ đã phát hiện
ra không phải một kiểu con người mới mà là một bình diện mới về người phụ
nữ trong cuộc sống hôm nay.
3. Giới hạn vi phạm nghiên cứu:
3.1. Với đề tài “Cái nhìn nghệ thuật về người phụ nữ trong một vài tiểu
thuyết đoạt giải năm 1991 của Hội nhà văn Việt Nam”, chúng tôi mong muốn
tìm ra những đặc sắc nghệ thuật mà các cây bút tiểu thuyết đoạt giải đã có công
tạo tác, sinh thành.
Dưới góc nhìn văn hoá lòch sử, trên bình diện thi pháp học hiện đại, chúng
tôi tập hợp những yếu tố cấu thành, tạo nên những nét vừa quen thuộc, vừa mới
lạ trong 3 tiểu thuyết này. Hơn nữa, trong nghiên cứu văn học, vấn đề con người
thường được xem xét dưới nhiều góc độ: đề tài, chủ đề, cách xây dựng nhân vật,
tính cách và hoàn cảnh … Đó là những cách nghiên cứu con người trên bình diện
xã hội và kỹ xảo nghệ thuật. Song, sự cách tân văn học không chỉ dừng lại ở nội
dung xã hội mà còn phải đề cập đến con người trong chiều sâu của sự miêu tả
của hình tượng nghệ thuật – tức là đề cập đến vấn đề có tính chất triết học, thẩm
mỹ, văn hoá … Hơn nữa “con người trong sự miêu tả của nhà văn là một trong
những trung tâm điểm từ đó toả ra các sợi dây chi phối cơ chế nghệ thuật của tác
giả. Là một tiêu điểm mà qua đó phong cách nhà văn được thể hiện một cách
sáng rõ hơn bao giờ hết … Và cũng chính những nguyên tắc miêu tả con người ấy
đã cung cấp chìa khoá để giúp ta hiểu được những phương pháp sáng tạo của nhà
nghệ só” (“Văn học Nga cổ” I.P.Êrêmin ) [79;12]. Thấy được tính trọng tâm của
vấn đề, chúng tôi đi vào tìm hiểu cách cắt nghóa lý giải và nhìn nhận về con
người, nhất là người phụ nữ trong ba tiểu thuyết đoạt giải, chúng tôi cũng so
15
sánh đối chiếu với một số tác giả và tác phẩm hữu quan để có thể chỉ ra một vài
nét đặc sắc chỉ trong giới hạn về người phụ nữ.
3.2. Về tư liệu: chúng tôi chọn ba tiểu thuyết đoạt giải năm 1991 của Hội
nhà văn Việt Nam “Mảnh đất lắm người nhiều ma” (Nguyễn Khắc Trường),
“Bến Không Chồng” (Dương Hướng); “Thân phận của tình yêu” (Bảo Ninh) để
khảo sát chính. Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng một số sách, báo, tạp chí và tiểu
thuyết có liên quan về người phụ nữ để nghiên cứu.
Như vậy, với luận văn này, chúng tôi không có tham vọng chỉ ra được tất cả
những nét đặc sắc cũng như quan niệm nghệ thuật của các nhà văn về con
người, cuộc sống … mà chỉ mong đưa ra được một số vấn đề sâu sắc và mới mẻ
về cách nhìn nhận, cách cảm và cách nghó của các nhà văn về người phụ nữ
trong ba tiểu thuyết nói riêng và tiểu thuyết thập niên 90 nói chung. Chúng tôi
mong sẽ nhận được những ý kiến đánh giá tương tự cũng như những nhận đònh
bổ sung để chúng tôi có điều kiện tu sửa hoàn thiện hơn trong cách nhìn nhận và
đánh giá về hiện tượng văn học này.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Cơ sở phương pháp luận nghiên cứu của đề tài luận văn là triết – mỹ học
Mac-xit và các tư tưởng lý luận triết – mỹ học về nghề thuật, tâm lý học sáng
tạo văn học có liên quan. Và chúng tôi cũng vận dụng những hiểu biết về thi
pháp học hiện đại dưới góc độ văn hoá thẩm mỹ để cảm thụ và lý giải. Đồng
thời thẩm đònh quan niệm đã cảm nhận qua tham khảo những nhận xét, nghiên
cứu của những người đi trước để có một cái nhìn toàn vẹn, thấu đáo hơn.
Khi khảo sát nghiên cứu, chúng tôi chỉ đi vào tìm hiểu những yếu tố liên
quan và tác động mạnh mẽ đến cuộc đời và số phận người phụ nữ, vì vậy, chúng
tôi chọn phương pháp loại hình và so sánh để tìm ra những nét độc đáo mà các
16
nhà văn đã có công tìm tòi thể hiện. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng xem xét vấn
đề để phân tích theo chiều rộng và chiều sâu trong tâm hồn nhân vật.
5. Đóng góp của luận văn.
5.1. Thông qua việc phân tích, lý giải kết hợp với sự cảm thụ, trải nghiệm,
thẩm đònh, so sánh … luận văn đã tổng hợp được những thành công xuất sắc của
các tiểu thuyết đoạt giải. Đó là một cái nhìn mới mẻ về người phụ nữ rất cá
tính, đầy bản lónh và luôn tự ý thức về mình và thế giới quanh mình để không
ngừng vươn tới bản ngã đích thực của con người và bản chất phức điệu vốn có
cuộc sống.
5.2. Trong quá trình nghiên cứu khám phá phân tích và lý giải, người viết
luận văn luôn có ý thức tìm tòi và chỉ ra những nét đặc trưng làm cho các tiểu
thuyết được đoạt giải và trở thành một hiện tượng văn học trong thập niên 90
này. Tuy nhiên, trong khi tìm hiểu vấn đề, ở mỗi chương người viết chỉ đi vào
một số vấn đề tâm đắc chứ không mong mỏi sẽ khám phá hết tất cả các khía
cạnh nảy sinh trong tác phẩm. Do đổi thay cách nhìn (hệ quy chiếu)đã dẫn tới sự
đổi mới về nhãn quan ngôn từ, tính phức hợp “nhiều bè” trong giọng điệu tác
phẩm, sự đa dạng trong sắc thái (biến thể) cảm hứng và nhân vậât trở thành chủ
thể (chứ không phải khánh thể) của sự miêu tả nghệ thuật.
6. Cấu trúc luận văn.
Luận văn gồm 3 chương và 2 phần (Mở đầu – kết luận)
Phần Mở đầu: nêu những vấn đề bao quát chung: Lý do chọn đề tài – Lòch
sử vấn đề – Giới hạn phạm vi nghiên cứu – Phương pháp nghiên cứu – Đóng
góp của luận văn – Cấu trúc luận văn.
Chương 1: Bối cảnh văn hoá lòch sử thập niên 90.
17
1.1 Bối cảnh chung về văn hoá lòch sử thập niên 90.
1.2 Bối cảnh văn hoá lòch sử trong tiểu thuyết thập niên 90.
Chương 2: Cái nhìn nghệ thuật về người phụ nữ của ba nhà văn trong
một vài tiểu thuyết đoạt giải năm 1991 (của Hội nhà văn Việt Nam).
2.1. Con người cá nhân tự nhiên.
2.1.1. Vẻ đẹp hình thức, vóc dáng.
2.1.2. Vẻ đẹp đôi mắt.
2.1.3. Sự hài hoà giữa ngoại hình và nội tâm.
2.1.4. Vẻ đẹp cơ thể.
2.1.5. Vẻ đẹp trong đời sống bản năng.
2.2. Con người cá nhân xã hội giai cấp và con người cá nhân nhân cách.
2.2.1. Ý nghóa của việc tìm hiểu cái nhìn nghệ thuật về con người cá
nhân xã hội giai cấp và con người cá nhân nhân cách.
2.2.2. Con người cá nhân lệ thuộc điều kiện giai cấp.
2.2.3 Con người cá nhân lệ thuộc điều kiện nhân cách.
2.2.3.1. Quan niệm về con người cá nhân nhân cách.
2.2.3.2. Con người tự ý thức chính là biểu hiện của con người cá nhân nhân cách.
Chương 3: Thời gian – không gian và giọng điệu – ngôn từ nghệ thuật
3.1. Thời gian và không gian nghệ thuật.
3.1.1. Thời gian nghệ thuật.
3.1.2. Không gian nghệ thuật.
3.2. Giọng điệu và ngôn từ nghệ thuật.
3.2.1. Giọng điệu.
3.2.1.1. Giọng triết lý tranh biện.
3.2.1.2. Giọng điệu thể hiện sự trải nghiệm cá nhân, tâm tình chia sẻ.
3.2.1.3. Giọng hài hước hóm hỉnh cười cợt nghiêm túc.
3.2.2. Ngôn từ: cấu trúc ngôn từ ít nhiều mang tính đa thanh đối thoại.
18
Phần kết luận
Tài liệu tham khảo.
19
Chương 1:
BỐI CẢNH VĂN HOÁ LỊCH SỬ THẬP NIÊN 90
CỦA THẾ KỶ XX
1.1 Bối cảnh chung về văn hoá lòch sử thập niên 90.
Sau khi giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, một kỷ nguyên mới đã
mở ra cho dân tộc. Đó là kỷ nguyên của trí tuệ, lương tâm con người. Một kỷ
nguyên mà vai trò mới của người phụ nữ được khẳng đònh xứng đáng. Chính vì
thế mà một số tiểu thuyết thập niên 90 (Bến Không Chồng, Mảnh đất lắm
người nhiều ma, Thân phận của tình yêu) trong đó có những mảng viết về số
phận người phụ nữ thật trớ trêu, cay đắng… và đã đoạt giải nhất của Hội nhà văn
Việt Nam. Từ đây, một nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc trở thành động lực,
mục tiêu đònh hướng cho mọi sự phát triển trong đó có sự phát triển của văn học.
Khi khúc ca khải hoàn vừa kết thúc, khi cảm xúc mãnh liệt về chiến công
tạm lắng xuống thì thực trạng của đất nước sau chiến tranh với tất cả những đổ
nát, ngổn ngang, bộn bề, nhức nhối đã xuất hiện, đòi hỏi một sự nhận thức, sự
đối mặt những vấn đề phức tạp đang diễn ra. Suốt ba mươi năm tắm mình trong
thực tiễn chiến tranh, dường như nhà văn chưa có điều kiện, chưa có thì giờ để
nghiền ngẫm suy tư, để quan sát hiện thực từ nhiều phía. Khi chiến tranh đã lùi
lại phía sau, họ mới tìm được một khoảng cách thích hợp để ngắm nghía, nghó
suy và nhận diện nó trong tính tổng thể toàn vẹn và tính nhiều mặt của sự kiện.
Những gì trong chiến tranh chưa bộc lộ, chưa được nhận thức, chưa tiện nói ra thì
nay đã phơi bày trước mắt. Trong niềm vui sum họp Bắc Nam, sum họp gia đình,
dòng họ, quê hương có cả những nỗi buồn do hi sinh mất mát. Trong cái được
lớn của đất nước, non sông, có cái mất của mỗi con người, mỗi gia đình. Trong
20
cái vinh quang tuyệt đỉnh của mỗi chiến công có cái bi đát, thảm khốc của nó…
Với cái nhìn đạo đức thế sự, thực tại chiến tranh đã bước đầu được lí giải bổ
sung, lý giải theo tinh thần phân tích sâu sắc. Tuy thái độ thận trọng và những
chiêm nghiệm sâu lắng của các nhà văn trong thời kỳ này có làm cho văn học
chững lại, thiếu đi cái khí thế của thời ra trận nhưng hình như đó lại là khoảng
lặng cần thiết sau chiến tranh để chuẩn bò cho sự ra đời của những tác phẩm
chứa đựng những quan điểm mới, cái nhìn mới về hiện thực.
Hoà bình lặp lại, những quy luật của đời sống chiến tranh tỏ ra không còn
hiệu lực. Một quy luật khác đã hình thành và chi phối tiến trình lòch sử. Nhưng
sự thay đổi đó không diễn ra một cách mau lẹ, chóng vánh, có khi còn kín đáo,
âm thầm. Cho nên việc nhận thức nó cũng không phải là việc một sớm một
chiều, không ít những quán tính, những kinh nghiệm đã trở nên lỗi thời, không
phù hợp, thậm chí còn cản trở sự phát triển của xã hội đã không được nhận thức.
Tiêu biểu là việc duy trì cơ chế điều hành xã hội theo kiểu hành chính, tập trung
quan liêu bao cấp, gia đình trò, vấn đề họ tộc … kéo dài gần 10 năm. Với cơ chế
này lực lượng sản xuất bò kìm hãm nặng nề, kinh tế hàng hoá chậm phát triển,
đời sống nhân dân vô cùng khó khăn, cơ sở kỹ thuật hạ tầng không được xây
dựng, những vấn đề chính trò, xã hội hậu chiến không tìm được hướng giải quyết
thoả đáng.
Mặt khác, trên lónh vực đạo đức tinh thần của xã hội, những vấn đề nhức
nhối do hậu quả của chiến tranh không những không được giải quyết mà còn
bùng lên ở những bình diện khác nhau. “Cái nông thôn hợp tác xã hoà thuận và
yên bình” tất cả cho tuyền tuyến” ngày nào giờ đã bộc lộ những bê bối, lủng
củng, thậm chí rệu rã trước những cố gắng ràng buộc, trước sự kìm hãm của
những chính sách lỗi thời không còn đáp ứng được đòi hỏi của quy luật vận động
và phát triển. Bên cạnh sự nỗ lực của ý chí, một thực tại khác đã nhen nhóm và
21
hình thành. Đây chính là mầm móng đầu tiên, là cơ sở để đất nước thức tỉnh tư
duy sau những nỗ lực sai lầm” (Phan Trọng Thưởng – TCVH – số 10-2003).
Chưa bao giờ kòch tính của sự phát triển lại thu hút sự quan tâm của toàn xã
hội như thời kỳ này. Nhiều mâu thuẫn tiềm ẩn trong cuộc sống và trong quá
trình sản xuất đã đến lúc chín muồi, đòi phải được bộ lộ và giải quyết. Vấn đề
quan hệ của người nông dân với ruộng đất, hay vấn đề quyền lợi cá nhân, họ tộc
… Ý thức về gia đình, dòng họ, quyền hành là những thí dụ. Mới nghe tưởng là
vấn đề nhỏ nhưng thực chất nó là vấn đề trung tâm tác động đến cơ chế quản lý
xã hội, đến đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Nhiều người nhận xét
rằng đây là thời kỳ của những mâu thuẫn, xung đột không chỉ bề ngoài mà cả
bên trong nội dung của mỗi hiện tượng, mỗi vấn đề.
Hơn nữa, đời sống xã hội từ khi chuyển qua cơ chế thò trường càng trở nên
phức tạp và căng thẳng “hằng ngày hằng giờ diễn ra cuộc đối chứng giữa hai mặt
nhân cách và phi nhân cách, giữa cái hoàn thiện và chưa hoàn thiện, giữa ánh
sáng và bóng tối vẫn còn rơi rớt bên trong tâm hồn mỗi con người – miếng đất
nương nấu và gieo mầm nhiều lỗi lầm và tội ác” (Nguyễn Minh Châu “Bến quê”
Nxb Tác phẩm mới – HN 1985 tr144). “Cái nhất thời trong cái muôn đời, cái độc
ác nằm ở giữa cái nhân hậu, cái cực đoan nằm giữa cái tinh thầàn xởi lởi, cởi mở;
cái nhảy cẫng lên lấc láo giữa cái dung dò, thái độ bình thản chòu đựng và tinh
thần trách nhiệm đầy suy nghó “ (Nguyễn Minh Châu “Hãy đọc lời ai điếu cho
một giai đoạn văn học minh hoạ”. Văn nghệ số ra ngày 5-12-1987). Hiện thực
đã khơi gợi ở nhà văn những dằn vặt, trăn trở về số phận bi kòch của con người.
Vì thế, văn học thập niên 90 đã cho ra đời một thế hệ nhà văn trưởng
thành, có sự đổi mới về tư duy nghệ thuật, thể hiện trong tác phẩm của họ những
vấn đề bức xúc từ ngót chục năm về trước. Mà vấn đề con người với những buồn
vui trăn trở, vốn là vấn đề trung tâm của một nền văn học. Con người trong văn
22
học dù là sản phẩm sáng tạo của nhà văn, bao giờ cũng vẫn là con đẻ của thời
đại. Và con người của thập niên 90 là con người với những bi kòch số phận mà
nhà văn là người thường nhạy cảm, thấm thía hơn, dễ giải bày bà chia sẻ hơn về
nỗi đau của bản thân và đồng loại. Nói như Nguyễn Khải, bi kòch là tình huống ,
trạng thái phổ biến và thường trực trong xã hội, vào mọi thời kỳ: “Đã gọi là một
kiếp người thì không chỉ có vui mà còn có buồn, thường là buồn nhiều hơn, không
chỉ có thắng mà còn có bại, thường là bại nhiều hơn, không chỉ có đúng mà còn
có lầm lẫn, thường là lầm lẫn nhiều hơn. Có những kiếp người một đời đau buồn,
một đời thất bại, một đời lầm lẫn, những tiếng kêu thống thiết của họ vẫn còn
vang vọng tới tận hôm nay. Họ chòu bao nhiêu cái buồn để chúng ta vui thêm một
chút, chòu bao nhiêu là lạnh lẽo để chúng ta biết sống ấm áp hơn, chòu bao nhiêu
là thất bại để chúng ta dám tin vào một thành công dầu còn mong manh nào đó “
(Nguyễn Khải “Nghề văn, nhà văn và Hội nhà văn”. Văn nghệ số ra ngày 30-4-
1988). Đây cũng là vấn đề ý thức, quan niệm của nhiều nhà văn trong cao trào
đổi mới văn học. Ý thức này trở thành tình cảm, hứng thú, thúc giục họ cầm bút
viết thêm những tấn bi kòch của con người, kiếp người, đặc biệt là con đường đi
tìm hạnh phúc cá nhân của những người phụ nữ trong cuộc sống bộn bề hôm
nay.
1.2 Bối cảnh văn hoá lòch sử trong tiểu thuyết thập niên 90.
Quả thật, hậu quả chiến tranh là khôn lường, nhưng sau chiến tranh, người
mất mát, thiệt thòi hơn cả vẫn là chò em phụ nữ. Hàng loạt tiểu thuyết ra đời với
mảng đề tài này mà tiêu biểu hơn cả có lẽ là “Thời xa vắng” (Lê Lựu), “Mảnh
đất tình yêu” (Nguyễn Minh Châu), ”Lời nguyền hai trăm năm” (Khôi Vũ), “Một
cõi nhân gian bé tí” (Nguyễn Khải), “Ăn mày dó vãng” (Chu Lai), “Đám cưới
không có giấy giá thú” (Ma Văn Kháng), “Nước mắt đỏ” (Trần Huy Quang),
“Người mẹ tội lỗi” (Xuân Thiều
). Đặc biệt là : “Bến Không Chồng” (Dương