Tải bản đầy đủ (.pdf) (133 trang)

Khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của học viên năm thứ nhất trường sĩ quan lục quân 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.58 MB, 133 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Thị Vân

KHĨ KHĂN TÂM LÝ TRONG HOẠT ĐỘNG
HỌC TẬP CỦA HỌC VIÊN NĂM THỨ NHẤT
TRƯỜNG SĨ QUAN LỤC QUÂN 2

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh - 2013


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Thị Vân

KHĨ KHĂN TÂM LÝ TRONG HOẠT ĐỘNG
HỌC TẬP CỦA HỌC VIÊN NĂM THỨ NHẤT
TRƯỜNG SĨ QUAN LỤC QUÂN 2

Chuyên ngành

:

Tâm lý học

Mã số


:

60 31 04 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. ĐỒN VĂN ĐIỀU

Thành phố Hồ Chí Minh - 2013


LỜI CAM ĐOAN
Tác giả cam đoan luận văn này do chính bản thân tác giả thực hiện, số liệu luận văn
trung thực do tác giả khảo sát các học viên năm thứ nhất và giảng viên, cán bộ quản lý học
viên năm thứ nhất Trường SQLQ2 năm học 2012 -2013. Đề tài chưa từng được cơng bố
dưới mọi hình thức. Người cam đoan xin chịu mọi trách nhiệm theo quy định của Phòng
Sau đại học, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí minh nếu vi phạm lời cam đoan
trên.
Tp. Hồ Chí Minh, 25 tháng 11 năm 2013
Tác giả

NGUYỄN THỊ VÂN

1


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tác giả xin chân thành gửi lời cảm ơn đến:

*

Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh;

*

Phịng Sau đại học, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh;

*

Khoa Tâm lý – Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh;

*

Các Thầy Cơ giáo Phịng sau đại học và Khoa Tâm lý – Giáo dục, Trường Đại học
Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh;
Ban Giám hiệu, Lãnh đạo, Chỉ huy các đơn vị trực thuộc Trường SQLQ2 (Trường

*

Đại học Nguyễn Huệ);
Các Thầy Cô giáo, Cán bộ quản lý và các học viên năm thứ nhất năm học 2012-2013

*

Trường SQLQ2;
*

PGS.TS. Đoàn Văn Điều, người hướng dẫn khoa học;


*

Đại tá, PGS.TS. Vũ Thanh Hiệp, Phó Trưởng phịng Khoa học Quân sự, Trường
SQLQ2;

*

Bố, Mẹ, Chồng, con trai, anh chị em trong gia đình;

*

Tất cả bạn bè, đồng nghiệp; các bạn học viên lớp Cao học Tâm lý học K22;

Đã tận tình giảng dạy, hướng dẫn, tạo điều kiện, giúp đỡ, động viên, khuyến khích tác giả
trong suốt q trình học tập, nghiên cứu hoàn thành luận văn này cũng như con đường phát
triển tri thức của tác giả.
.
Tp, Hồ Chí Minh, ngày 25 tháng 11 năm 2013
Tác giả

NGUYỄN THỊ VÂN

2


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................ 1
LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................. 2
MỤC LỤC .................................................................................................................... 3
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ......................................................................... 5

MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 6
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................................. 6
2. Mục đích nghiên cứu ...................................................................................................... 8
3. Nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................................................... 8
4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu .............................................................................. 8
5. Giả thuyết khoa học ........................................................................................................ 8
6. Giới hạn của đề tài .......................................................................................................... 8
7. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................... 8

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KHÓ KHĂN TÂM LÝ TRONG HOẠT
ĐỘNG HỌC TẬP ...................................................................................................... 11
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ........................................................................................ 11
1.1.1. Những nghiên cứu ở nước ngoài ...........................................................................11
1.1.2. Những nghiên cứu ở trong nước ...........................................................................15
1.2. Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu........................................................................ 21
1.2.1. Khó khăn ...............................................................................................................21
1.2.2. Khó khăn tâm lý ....................................................................................................22
1.2.3. Hoạt động và hoạt động học tập ............................................................................25
1.2.4. Khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập .............................................................29
1.3. Hoạt động học tập và khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của học viên
năm thứ nhất Trường SQLQ2. ........................................................................................ 31
1.3.1. Hoạt động học tập và môi trường sinh hoạt của học viên trong môi trường quân
sự .....................................................................................................................................31
1.3.2. Một số đặc điểm của học viên năm thứ nhất trường Quân sự...............................34
1.3.3. Khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của học viên ........................................36
1.3.4. Nguyên nhân gây ra những khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của học viên
.........................................................................................................................................39

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG KHÓ KHĂN TÂM LÝ CỦA HỌC VIÊN NĂM
THỨ NHẤT TRƯỜNG SỸ QUAN LỤC QUÂN 2 ................................................ 46

2.1. Khái quát trường Sĩ quan Lục quân 2 ..................................................................... 46
3


2.2. Tổ chức nghiên cứu.................................................................................................... 48
2.2.1. Dụng cụ nghiên cứu đề tài.....................................................................................48
2.2.2. Mẫu nghiên cứu .....................................................................................................49
2.3. Thực trạng khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của học viên năm thứ
nhất. .................................................................................................................................... 54
2.3.1. Thực trạng khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập. ..........................................54
2.3.2. Thực trạng nguyên nhân gây ra những khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập 73
2.4. Một số giải pháp góp phần giảm bớt khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập
cho học viên năm thứ nhất. .............................................................................................. 86
2.4.1. Giải pháp từ phía Nhà trường ................................................................................86
2.4.2. Giải pháp từ phía học viên ....................................................................................91
2.4.3. Các kiến nghị .........................................................................................................93

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ................................................................................... 97
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 101
PHỤ LỤC ................................................................................................................. 105

4


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CTĐ, CTCT

: Công tác Đảng, cơng tác chính trị

CTQG


: Chính trị Quốc gia

ĐHQG

: Đại học Quốc gia

ĐLTC

: Độ lệch tiêu chuẩn

ĐUQSTW

: Đảng ủy Quân sự Trung ương.

GV-CBQL

: Giảng viên, cán bộ quản lý

HV

: Học viên

N

: Số khách thể

NQ

: Nghị quyết


Nxb

: Nhà xuất bản

SQLQ2

: Sĩ quan Lục quân 2

TB

: Trung bình

ThB

: Thứ bậc

TW

: Trung ương

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

5


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Trong thực tiễn, để tồn tại và phát triển con người phải tiến hành hoạt động. Khi tiến hành
hoạt động con người sẽ gặp phải những khó khăn ở những mức độ khác nhau. Trong những
những khó khăn đó có khó khăn tâm lý. Khi gặp khó khăn, con người thường rơi vào trạng
thái chán nản, bực bội, buông xuôi, mệt mỏi cả về thể chất lẫn tinh thần từ đó ít nhiều ảnh
hưởng tới kết quả của hoạt động. Có rất nhiều hoạt động khác nhau trong đó có hoạt động
học tập và trong những khó khăn mà con người gặp phải thì có khó khăn tâm lý trong hoạt
động học tập. Khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập xảy ra với các chủ thể khác nhau
trong đó có học viên năm thứ nhất các trường trong quân đội.
Hiện nay, trong đội ngũ sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam, lực lượng sĩ quan trẻ
ngày càng chiếm tỷ lệ cao, đây được xem là xu thế tất yếu của quá trình thực hiện trẻ hóa
cán bộ. Họ chính là lực lượng lòng cốt, bảo đảm sự chuyển tiếp liên lục, vững chắc giữa các
thế hệ cán bộ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng quân đội trong thời kỳ mới. Đội ngũ sĩ
quan trẻ của quân đội ta được trưởng thành trong sự nghiệp đổi mới đất nước, được tuyển
chọn tương đối chặt chẽ, được đào tạo cơ bản, tồn diện, có sức khỏe, có trình độ, phẩm
chất và năng lực chun mơn từng bước được hồn thiện, đã đảm nhận khá tốt chức trách,
nhiệm vụ được giao. Nghị quyết 94/ĐUQSTƯ đã đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ quân
đội, trong đó có đội ngũ sĩ quan trẻ là: “Đội ngũ cán bộ luôn trung thành tuyệt đối với Tổ
quốc, với Đảng, với nhân dân; có bản lĩnh chính trị vững vàng, có ý thức cảnh giác, tinh
thần trách nhiệm cao, khắc phục khó khăn, hồn thành nhiệm vụ trong mọi tình huống.
Trình độ, kiến thức và năng lực lãnh đạo chỉ huy, trình độ chun mơn kỹ thuật nghiệp vụ
được nâng cao. Đại bộ phận cán bộ giữ gìn được phẩm chất đạo đức cách mạng, có ý thức
tổ chức kỷ luật và lối sống trong sạch lành mạnh”[10]. Đội ngũ cán bộ sĩ quan này được đào
tạo từ nhiều trường trong quân đội, trong đó phải kể đến một ngơi trường lớn có bề dày lịch
sử là Trường sĩ quan Lục quân 2.
Trường sĩ quan Lục quân 2 (SQLQ2) là trung tâm đào tạo sĩ quan chỉ huy-tham mưu
cấp phân đội, bậc đại học ở khu vực phía Nam, là nơi cung cấp cán bộ chỉ huy binh chủng
hợp thành cấp phân đội cho các đơn vị trong toàn quân. Từ ngày thành lập, nhà trường đã
đào tạo được lực lượng sĩ quan đông đảo ở các cấp học, bậc học khác nhau, đáp ứng được

6



mọi yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và chiến đấu của quân đội cũng như sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa (XHCN).
Học viên trường SQLQ2 cơ bản là những thanh niên, học sinh và hạ sĩ quan, binh sĩ có
đủ điều kiện, tiêu chuẩn tuyển sinh của Bộ Quốc phòng, đã trúng tuyển (hoặc được cử
tuyển) vào Nhà trường. Học viên có thành phần xuất thân đa dạng, phong phú; trong học
tập, rèn luyện chịu tác động của thói quen tập tục của thành phần xuất thân và nơi cư trú.
Học viên được học tập, rèn luyện trong môi trường quân sự có sự lãnh đạo và quản lý chặt
chẽ theo đúng điều lệnh kỷ luật quân đội, chế độ quy định của Nhà trường. Những đặc điểm
này của học viên vừa là thuận lợi nhưng cũng là khó khăn thách thức của nhà trường.
Hầu hết học viên có động cơ học tập, rèn luyện đúng đắn, nhưng cũng cần rèn luyện
thêm bản lĩnh và kinh nghiệm do chưa được va chạm thực tế, chưa được tơi luyện, thử thách
trong các tình huống khó khăn, ý thức về “cái tơi” cịn q mạnh mẽ, tự đánh giá về bản
thân không ổn định và có tính mẫu thuẫn nhưng đột ngột phải sinh hoạt và học tập ở môi
trường mới đặc thù trong quân đội với nhiều khác biệt về khối lượng, nội dung tri thức,
phương pháp giảng dạy, hình thức học tập, ăn ở, sinh hoạt, yêu cầu về chấp hành kỷ luật
nghiêm ngặt, cường độ huấn luyện cao... nên ít nhiều gây ra những khó khăn tâm lý trong
hoạt động học tập như chưa an tâm tư tưởng, mệt mỏi, buồn phiền, chán nản, căng thẳng,
thụ động, lo lắng không thực hiện tốt các nhiệm vụ học rèn; tâm lý lo ngại, run sợ khi khi sử
các loại vũ khí, trang bị mang tính hủy diệt, sát thương lớn; mất bình tĩnh, lúng túng khi thi
vấn đáp; có cảm giác bị ép buộc, áp lực khi thực hiện các chế độ, thiếu tự tin khi đứng trước
tập thể; luôn cảm thấy nhớ nhà,...ảnh hưởng đến kết quả học tập của bản thân cũng như của
nhà trường. Trong khi đó, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, nhiệm
vụ xây dựng quân đội trong , thời kỳ mới … đang đặt ra những yêu cầu mới cao hơn trong
xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, sĩ quan quân đội, trước hết là đội ngũ sĩ quan trẻ cả về
phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực cơng tác, tạo ra sức mạnh giúp các sĩ quan trẻ vượt
qua khó khăn trở ngại, cám dỗ… để hồn thành nhiệm vụ.
Từ những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài“Khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập
của học viên năm thứ nhất Trường sĩ quan Lục quân 2” để thực hiện làm luận văn cao

học Tâm lý học.

7


2. Mục đích nghiên cứu
Khảo sát thực trạng khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của học viên năm thứ
nhất Trường SQLQ2 để đề xuất một số biện pháp nhằm giảm bớt những khó khăn tâm lý đó
cho học viên.

3. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Khái quát, hệ thống hóa các tài liệu làm cơ sở lý luận cho đề tài.
3.2. Khảo sát thực trạng khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của học viên năm thứ
nhất Trường SQLQ2.
3.3. Đề xuất một số biện pháp giúp học viên giảm bớt những khó khăn tâm lý đó.

4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của học viên năm thứ nhất đào tạo sĩ quan
tại Trường SQLQ2.
4.2. Khách thể nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu: 280 học viên năm thứ nhất Trường SQLQ2 và 200 giảng viên
và cán bộ quản lý nhóm học viên nêu trên của Trường SQLQ2.

5. Giả thuyết khoa học
- Đa số học viên năm thứ nhất Trường SQLQ2 gặp một số khó khăn tâm lý trong hoạt
động học tập. Các khó khăn tâm lý này có nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách
quan.
- Nếu hiểu rõ những khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập này thì sẽ giúp các học
viên học tập tốt hơn.


6. Giới hạn của đề tài
- Nguyên cứu một số khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của học viên năm thứ
nhất năm học 2012 – 2013 tại Trường Sĩ quan Lục quân 2.

7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp luận

8


Đề tài sử dụng phối hợp các phương pháp luận khác nhau, trong đó có hai phương
pháp luận đóng vai trò chủ yếu:
7.1.1. Quan điểm hệ thống cấu trúc
- Vận dụng quan điểm này để xây dựng cơ sở lý luận như khái niệm khó khăn, khó
khăn tâm lý, khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập, biểu hiện, nguyên nhân, giải pháp
giảm bới khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập. Nghiên cứu đề tài (xây dựng bảng hỏi,
bình luận thực trạng) được tiến hành trên cấu trúc đã được thiết lập.
7.1.2. Quan điểm thực tiễn
Khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên năm nhất các trường đại học
nói chung đã được một số tác giả nghiên cứu trước đó và chỉ ra rằng có khó khăn tâm lý ở
các mức độ khác nhau. Học viên năm thứ nhất Trường SQLQ2 vừa có các đặc điểm của
sinh viên năm thứ nhất nêu trên, đồng thời cũng có đặc điểm riêng, đặc thù nên cũng khơng
tránh khỏi gặp những khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của mình. Vì vậy, việc tìm
hiểu thực trạng khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của học viên năm thứ nhất nêu
trên, phân tích các nguyên nhân gây khó khăn tâm lý đó và đề xuất giải pháp nhằm giảm bớt
những khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của học viên là có ý nghĩa thực tiễn, góp
phần giải quyết những vấn đề của thực tiễn đặt ra.
7.2. Phương pháp nghiên cứu
Để tiến hành nghiên cứu đề tài này, người nghiên cứu sử dụng phối hợp các phương

pháp sau:
7.2.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Mục đích: khái qt hóa, hệ thống hóa một số vấn đề lý luận cơ bản, trên cơ sở đó xây
dựng các bảng hỏi.
Yêu cầu: Đọc tài liệu, tham khảo một số cơng trình nghiên cứu có liên quan đến đề
tài, tìm ra những cơ sở nghiên cứu.
7.2.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
* Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
Mục đích: Đây là phương pháp nghiên cứu chính của đề tài. Chúng tơi xây dựng hai
bảng hỏi cho học viên và GV-CBQL đối tượng học viên đó để tìm hiểu một số khó khăn
tâm lý trong hoạt động học tập của học viên năm thứ nhất và nguyên nhân gây ra khó khăn
tâm lý đó.
9


Yêu cầu: Dựa trên cơ sở lý luận của đề tài và các phương pháp luận để xây dựng bảng
hỏi phù hợp với mục đích yêu cầu. Bảng hỏi được thử nghiệm trước khi điều tra chính thức
trên khách thể chính và khách thể bổ trợ.
* Phương pháp thống kê tốn học
Mục đích: Sử dụng phương pháp thống kê tốn học nhằm làm rõ hơn các giả thuyết
nghiên cứu
Yêu cầu: Sử dụng phần mềm SPSS for Window, phiên bản 11.5 để xử lý thống kê:
tính tần số, tỷ lệ phần trăm, trị số trung bình, độ lệch chuẩn làm cơ sở để bình luận số liệu
thu được từ phương pháp điều tra bằng bảng hỏi.

10


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KHÓ KHĂN TÂM LÝ TRONG
HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP


1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trong lịch sử nghiên cứu tâm lý, khó khăn tâm lý nói chung và khó khăn tâm lý trong
hoạt động học tập nói riêng đã được nhiều nhà nghiên cứu trong và ngồi nước nghiên cứu,
xem xét dưới nhiều góc độ, ở nhiều khách thể, nhiều lĩnh vực khác nhau.
1.1.1. Những nghiên cứu ở nước ngoài
Trong thực tiễn, để tồn tại và phát triển con người phải tiến hành hoạt động. Khi tiến hành
hoạt động con người sẽ gặp phải những khó khăn ở những mức độ khác nhau. Chính điều này
ảnh hưởng lên kết quả hoạt động. Chủ thể hoạt động khi gặp khó khăn sẽ phải nỗ lực, tích cực,
tìm ra nhiều cách thức để vượt qua, để đạt kết quả cuối cùng một cách hiệu quả nhất có thể.
Những khó khăn này có thể do mơi trường, do những hồn cảnh khách quan tác động nhưng
cũng có thể xuất phát từ chính bản thân chủ thể hoạt động gây nên và được gọi chung là những
khó khăn trong quá trình hoạt động của con người. Trong những hoạt động sống đó của con
người có hoạt động học tập.
Đối với con người, học tập là phương thức để tiếp thu tri thức, kỹ năng nhằm mục đích
nhận biết, tác động, cải tạo thế giới hiện thực, phục vụ cho lợi ích của con người. Lịch sử lồi
người đã chứng minh, chỉ thơng qua con đường học tập, thì những di sản văn hoá vật chất, tinh thần từ
thế hệ trước mới được lưu truyền cho thế hệ sau và cũng nhờ đó mà những giá trị này mới cịn tồn tại.
Tuy nhiên, học tập khơng phải là một hoạt động đơn giản. Trong quá trình biến tri thức của nhân loại
thành vốn kinh nghiệm riêng của cá nhân con người đã gặp khơng ít khó khăn, trong đó có những
khó khăn về mặt tâm lý.
Khi bàn về những khó khăn tâm lý trong học tập, các nhà tâm lý học Liên Xô (cũ) là A.I Palko,
N.V Cudơmina, L. Oxtrốpxkaia….đã chỉ ra những khó khăn trong cơng tác giáo dục trẻ mầm non
trong những cơng trình nghiên cứu của họ. Theo các tác giả này, những khó khăn thường nảy sinh
với những giáo viên chưa được đào tạo về chun mơn, họ thường gặp khó khăn trong việc
điều khiển hoạt động học tập, trong đó có liên quan đến việc phân bố thời gian cho giờ học,
sự lựa chọn phương pháp và cách thức tiến hành giờ học, sử dụng các phương tiện kỹ thuật
đồ dùng dạy học, sự chuyển tải lưu lượng thông tin tới học sinh trong giờ học. Các tác giả
11



trên cũng chỉ ra rằng: mức độ khó khăn trong cơng tác của người giáo viên liên quan đến
trình độ nghiệp vụ, thâm niên công tác, sự chuẩn bị bài giảng trước khi lên tiết học. Và để
khắc phục những khó khăn phải đồng thời có sự vận hành của cả hệ thống giáo dục như: có
sự cải cách giáo dục, tổ chức hệ thống trường, lớp đến tất cả các mặt khác nữa; các ngành
các cấp cũng cần tăng cường công tác giáo dục trẻ tuổi mầm non; các ngành công nghiệp
nhẹ chú ý trong việc sản xuất đồ chơi, đồ dùng, trang thiết bị phụ trách công tác giảng dạy
và học mầm non; việc phát hành báo chí, phim ảnh, sân khấu, tuyên truyền qua hệ thống
báo đài phục vụ công tác mầm non; đẩy mạnh việc kết hợp giữa nhà trường, gia đình và
cơng tác tổ chức xã hội trong việc giáo dục trẻ [31].
Các tác giả đã nêu ra một loạt các yếu tố gây khó khăn cho q trình giao tiếp nhưng
cụ thể khó khăn tâm lý trong giao tiếp là gì và cách phân loại nó như thế nào thì các cơng
trình này chưa đề cập đến [17].
Nhà tâm lý học Pháp Bianka Zazzo, cùng các cộng sự với cơng trình nghiên cứu:
“Bước chuyển lớn từ mẫu giáo lên lớp một” đã góp phần quan trọng làm sáng tỏ thêm vấn
đề khó khăn của học sinh lớp một ở nước Pháp. Xuất phát điểm của Bianka Zazzo là việc ở
Pháp hàng năm có khoảng 20% học sinh phải lưu ban. Tỷ lệ này đã tồn tại nhiều năm, mặc
dù ngành giáo dục Pháp đã có nhiều biện pháp giải quyết nhưng chưa có hiệu quả thực sự.
Theo nhóm tác giả, tình trạng này có nhiều nguyên nhân. Trong đó một số học sinh lớp 1
chưa thích ứng tốt và gặp nhiều khó khăn về tâm lý ở môi trường lớp một là nguyên nhân
quan trọng. Nghiên cứu đã chỉ ra “khó khăn tâm lý lớn nhất mà trẻ gặp phải đã cản trở sự
thích ứng với hoạt động học tập của trẻ là sự thay đổi môi trường hoạt động một cách triệt
để”, gọi là chuyển dạng hoạt động chủ đạo. Các tác giả chỉ ra rằng: ở lớp mẫu giáo trẻ lấy
hoạt động vui chơi làm chủ đạo, vừa học vừa chơi, hoạt động đa dạng, tính tự do tùy hứng
cá nhân nặng hơn tính chỉ đạo của giáo viên. Bước sang lớp một, hoạt động học tập là chủ
đạo, học sinh phải nghiêm chỉnh thực hiện sự chỉ đạo chặt chẽ của giáo viên, theo nguyên
tắc lớp học. Vì thế, trẻ nào vượt qua được khó khăn này thì sẽ học tốt, cịn khơng vượt qua
được thì sẽ chán học, kết quả học tập khơng cao. Cơng trình này ít giải quyết các vấn đề lý
luận mà nhằm vào giải quyết các mặt thực tiễn của vấn đề và cũng chưa xác định được khái
niệm khó khăn tâm lý [41, tr.19].

Khi nghiên cứu vấn đề thích ứng của học sinh lớp một, C.M. Sukina cho rằng, học
sinh lớp một có gặp khó khăn tâm lý khi đến trường phổ thông và mức độ thích ứng với
hoạt động học tập ở ba mức độ khác nhau: cao, trung bình, và thấp. Nghiên cứu cho rằng
12


những tác động khơng thuận lợi tạo ra khó khăn tâm lý cho trẻ lớp một là phương pháp giáo
dục sai lầm của gia đình, trẻ khơng được chuẩn bị tâm lý sẵn sàng đi học, trẻ không thỏa
mãn trong giao tiếp với người lớn, trẻ tự nhận thức không đúng về bản thân trong nhóm bạn,
trình độ học vấn thấp của cha mẹ, sự biểu hiện thái độ không tích cực của giáo viên đối với
trẻ. Theo tác giả, việc kế thừa phương pháp làm việc và quan hệ sư phạm đối với trẻ giữa cô
bảo mẫu và giáo viên lớp một có vai trị quan trọng trong sự thích ứng của trẻ với nhà
trường. Bởi vì theo tác giả, một trong những nguyên nhân cơ bản của việc khó thích ứng,
xuất hiện những khó khăn là sự thay đổi đột ngột quan hệ của trẻ với giáo viên.
Các tác giả khác như: E.G. Vinograi, A.A. Bônrađencô, A.M. Xmonxki chỉ rõ sự cần
thiết trong một số giai đoạn đào tạo nghề, phải hướng tới sự hình thành những kỹ năng cùng
nhau phân tích tình huống, phương pháp phân tích tình huống cụ thể là phương pháp học tập
tích cực và con đường đạt hiệu quả cao nhất trong việc đào tạo nghề. Qua thực tiễn đào tạo
mầm non rất nhiều năm ở Liên Xô (cũ) các nhà nghiên cứu đã khẳng định rằng: “Hoạt động
có hiệu quả của giáo viên mầm non không thể thiếu sự lĩnh hội những kiến thức, kỹ năng,
kỹ xảo nghề nghiệp mà đặc biệt là những kiến thức tâm lý hoạt động của giáo viên mầm
non, về các kỹ năng phân tích và xử lý các tình huống trong cơng tác”. Các nhà nghiên cứu
đã đi đến kết luận: Sự khắc phục khó khăn và lĩnh hội tay nghề sư phạm diễn ra trong quá
trình giáo viên nghiên cứu tâm lý trẻ, làm sâu sắc và giàu có kiến thức, nâng cao trình độ
văn hóa chung, hình thành kỹ năng và hiểu biết nghề nghiệp. Điều quan trọng để đạt được
những điều cơ bản trên là sự học tập, trau dồi nghiệp vụ, chuyên môn của các giáo sinh sư
phạm mầm non. Các tác giả cũng chỉ ra tầm quan trọng phải làm là phải nâng cao hiệu quả
đào tạo đội ngũ giáo viên mầm non, tổ chức việc thực tập sư phạm tốt hơn, hồn thiện hơn
cơng tác hướng nghiệp để tác động tích cực đến nâng cao tay nghề cho giáo viên [31, tr.7].
Tác giả A.V. Pêtrốpxki rất quan tâm đến sự thích ứng xã hội. Ơng cho rằng sự thích

ứng xã hội là q trình thích nghi tích cực của cá nhân hoặc tập thể (lớp, nhóm) với các điều
kiện vật chất, các tiêu chuẩn và giá trị được xác định của mơi trường xã hội. Trong đó, cá
nhân, tập thể đó phải nắm được các tiêu chuẩn và giá trị của mơi trường trong q trình xã
hội hóa, cũng như trong q trình thay đổi và cải tạo mơi trường cho phù hợp với điều kiện
và mục đích mới của hoạt động. Nghiên cứu khó khăn tâm lý trẻ em khi vào lớp một ơng đã
chia thành: Những khó khăn liên quan đến đặc điểm chế độ học tập mới; Những khó khăn
trong việc thiết lập mối quan hệ giao tiếp mới với thầy cơ giáo và bạn bè; Khó khăn với việc
thích nghi với hoạt động mới. Lúc đầu trẻ được sự chuẩn bị của gia đình, nhà trường và xã
13


hội nên có tâm lý vui thích và sẵn sàng đi học, về sau hứng thú học tập giảm dần và trẻ chán
học. Tác giả có đề cập đến những nguyên nhân dẫn đến khó khăn và ảnh hưởng của những
khó khăn nêu trên đến đời sống của trẻ, và đề xuất một số biện pháp giải quyết khó khăn
cho trẻ. Tuy nhiên khách thể nghiên cứu vẫn chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu học sinh lớp
một.[21].
Theo nhà tâm lý học Mauricé Deberse trong cơng trình nghiên cứu khó khăn tâm lý
của trẻ đã chỉ ra rằng: đứng trước ngưỡng cửa lớp một, trẻ em gặp rất nhiều khó khăn tâm
lý. Điều này đã ảnh hưởng đến sự thích ứng với hoạt động học tập, làm cho trẻ sợ học,
không muốn tới trường và kết quả học tập không cao.
Ballard và Clauchy (1985) đã chỉ ra những khó khăn tâm lý trong quá trình học tập của
từng sinh viên Châu Á khi học tại các trường Đại học của Úc. Hai tác giả đã khẳng định:
sinh viên đến từ các nền văn hóa khác nhau thường đặt ra các mục tiêu khác nhau trong cách
nghĩ và cách học của họ. Hầu hết sinh viên nghĩ và học theo cách mà họ đã được đào tạo ở
trường phổ thông và đại học vì vậy họ có thể thành cơng ở môi trường và đất nước của họ
nhưng lại gặp thất bại ở đất nước khác, môi trường học tập khác. Các tác giả kết luận: sinh
viên cần phải có một sự chuyển biến lớn giữa các nền văn hóa, kiến thức khác nhau để thích
ứng với mơi trường học tập mới [50].
Vào năm 1986, tác giả G.M. Anđreeva với việc tiến hành phân tích các chức năng
thơng tin của q trình giao tiếp ở con người đã nhận thấy ở điều kiện trao đổi thơng tin của

con người có thể xuất hiện những rào cản tâm lý. Nghiên cứu cũng chỉ ra một số nguyên
nhân làm nảy sinh những trở ngại tâm lý trong quá trình giao tiếp [5].
Năm 1987, tác giả E.V. Sukanova viết cuốn sách có tựa đề “Những khó khăn của giao
tiếp liên nhân cách” trong đó đề cập đến những vấn đề điển hình như vị trí, đặc điểm hay
nhân cách của hiện tượng giao tiếp và chủ thể giao tiếp. Nghiên cứu thiên về phân tích
những trở ngại trong giao tiếp liên nhân cách, chưa đề cập đến yếu tố cá nhân có sự chi phối
và ảnh hưởng đến quá trình giao tiếp với nhau, trong quá trình cùng tham gia giao tiếp với
người khác.
Tác giả V.A. Cancalic (1987) khi nghiên cứu nhu cầu giao tiếp sư phạm của giáo viên
đã nêu ra một số khó khăn tâm lý trong giao tiếp của sinh viên sư phạm như không biết cách
giàn xếp, tổ chức một cuộc tiếp xúc; không hiểu đặc điểm của đối tượng giao tiếp; có tâm
trạng lo lắng, sợ hãi;…Cancalic đã phân tích khá tỉ mỉ những khó khăn tâm lý trong giao
14


tiếp của sinh viên sư phạm, đặc biệt nhấn mạnh đến những nguyên nhân của những khó
khăn này [6].
P.N. Sulivan trong bài báo của mình đã tìm thấy “ảnh hưởng của văn hóa xã hội đến
những kiểu tương tác trong lớp học”, tác giả đã chỉ ra rằng: “những sinh viên Việt Nam đã
quen với kiểu học tương tác mà trong đó việc nói “đan xen và đồng thời” là chuẩn mực, khi
sang học các lớp học ở Mỹ lại “im lặng” là do khó khăn tâm lý. Ở Việt Nam, khi giáo viên
đặt câu hỏi, một sinh viên đứng lên trả lời, cịn những sinh viên khác nói lên những suy nghĩ
của mình một cách “đan xen và đồng thời” với sinh viên đó. Vì vậy, sinh viên này có thể
liên hợp các câu trả lời đúng. Cịn ở Mỹ, khi giáo viên đặt câu hỏi, sinh viên thường tự trả
lời, không trông chờ bất cứ sự giúp đỡ nào từ bạn bè. Do vậy, khi học ở Mỹ, sinh viên Việt
Nam có thể cảm thấy nhút nhát, hoặc im lặng bởi khơng khí mà trong đó có một người nói
tại một thời điểm là cưỡng bức, sinh viên Việt Nam thường coi những sinh viên khác trong
lớp là một phần cơ thể của mình, thiếu họ, sinh viên ấy thấy mất tự tin[50].
Như vậy, qua một số công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngồi kể trên, chúng
ta có thể thấy rằng khó khăn tâm lý là một hiện tượng xảy ra ở mọi hoạt động của con

người, đặc biệt trong hoạt động học tập. Khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập là một
hiện tượng tâm lý phức tạp đã được nhiều nhà nghiên cứu nước ngồi quan tâm nghiên cứu
và đã có những đóng góp nhất định trong việc phát hiện và nêu ra một số khó khăn tâm lý;
một số nguyên nhân của những khó khăn đó. Tuy nhiên, khách thể nghiên cứu còn khu trú
chủ yếu ở giáo viên mầm non và trẻ chuẩn bị vào lớp một.
1.1.2. Những nghiên cứu ở trong nước
Khó khăn tâm lý nói chung và khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập nói riêng cũng
đã được một số nhà nghiên cứu về tâm lý học, giáo dục học trong nước quan tâm nghiên
cứu nhưng chưa nhiều, khách thể nghiên cứu còn hạn chế. Một số tác giả tiêu biểu nghiên
cứu về lĩnh vực này có thể kể như Trần Trọng Thủy, Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Thị Nhất,
Phạm Thị Đức, Vũ Thị Nho.
Nguyễn Khắc Viện trong tác phẩm “Nỗi khổ của con em chúng ta” đã thống kê ra
những khó khăn tâm lý mà học sinh lớp một gặp phải như sau:
- Trẻ phải giữ kỹ luật trong lớp học, phải ngồi yên cả tiết, cả buổi, chịu áp lực, gị bó.
Vì thế mà khi hết giờ học, trẻ chạy ùa ra sân la ó, chạy đuổi, xô đẩy nhau.

15


- Trẻ phải học một chương trình nặng hơn so với mẫu giáo, thời gian học chiếm hầu
hết thời gian của trẻ. Vì thế trẻ ít được chơi nên càng “thèm” được chơi hơn.
- Trẻ ít được bố mẹ vỗ về, âu yếm hơn trước. Trẻ luôn chịu sự kiểm tra, đánh giá của
bố mẹ. Bố mẹ đặt quá nhiều kỳ vọng vào con cái, buộc chúng phải đạt được kết quả học tập
nhiều khi vượt quá sức của chúng. Kết quả là trẻ chịu đựng áp lực rất lớn khi đi học.
Ở đây, tác giả đề cập tới một số khó khăn về chế độ học tập, giao tiếp với cơ giáo và
gia đình nhưng chỉ mới dừng lại ở mức độ quan sát, định tính chứ chưa có số liệu mang tính
định lượng, đồng thời tác giả chưa đưa ra biện pháp tháo gỡ cụ thể [53].
Nhà giáo dục Nguyễn Thị Nhất trong cơng trình nghiên cứu “sáu tuổi vào lớp một” đã
phát hiện ra nhiều khó khăn tâm lý mà trẻ lớp 1 phải vượt qua [33]. Tác giả cho rằng “trong
quá trình lớn lên của trẻ em, có những bước ngoặt chuyển từ giai đoạn này sang một giai

đoạn khác, đòi hỏi trẻ em phải thay đổi phương thức sinh hoạt một cách triệt để”. Đồng thời
tác giả cũng nêu ra một số khó khăn tâm lý cụ thể mà trẻ lớp 1 phải vượt qua:
- Trẻ phải rời bỏ cuộc sống thoải mái, đa dạng, vui nhộn, hoạt động tùy hứng ở mẫu
giáo và khép mình vào kỷ luật nghiêm khắc của lớp học phổ thơng.
- Trẻ có những khó khăn trong mối quan hệ với giáo viên. Ở nhà hay ở lớp mẫu giáo,
đôi khi trẻ được bố mẹ hay cơ giáo có những hành động vuốt ve hay âu yếm, quan tâm đặc
biệt, nhưng bước vào lớp một là một thế giới khác. Ở đây cơ giáo ít quan tâm đến riêng ai, ít
vuốt ve chăm sóc riêng ai. Kết quả là trẻ sợ cô và sợ đến lớp.
- Trẻ bị “vỡ mộng” khi vào lớp một vì sự hân hoan, hồi hộp chờ đón những điều hấp
dẫn được thay bằng những điều khác xa với tưởng tượng của trẻ. Vì thế, trẻ chán học và có
những biểu hiện như lơ đãng, quấy phá, từ chối đến trường hoặc có những biểu hiện tâm lý
như nhức đầu, đau bụng, nôn ọe…
Tác giả đã nghiên cứu tương đối có hệ thống những biểu hiện bề ngoài cũng như lý
giải các nguyên nhân gây nên các khó khăn về tâm lý cho trẻ khi vào lớp một. Tuy nhiên
nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở khía cạnh các ngun nhân khách quan tạo nên khó khăn cho
trẻ và cũng chưa đưa ra các giải pháp tháo gỡ.
Tác giả Nguyễn Thanh Bình với đề tài “Một số trở ngại của giáo sinh thực tập công tác
chủ nhiệm” đã nghiên cứu về một số trở ngại tâm lý trong giao tiếp của sinh viên sư phạm
với học sinh khi đi thực tập tốt nghiệp. Tác giả đã đi sâu nghiên cứu một cách có hệ thống
các vấn đề lý luận về trở ngại tâm lý trong giao tiếp [4].
16


Năm 1995, trong bài: “Những khó khăn tâm lý trong q trình giải tốn của học sinh
tiểu học”, tác giả Nguyễn Minh Hải đã chỉ rõ những trở ngại tâm lý khi học sinh tiểu học
giải quyết các bài tập tốn trong q trình học tập, đồng thời cũng đề cập đến các nguyên
nhân khác nhau và hạn chế năng lực giải toán của học sinh tiểu học [15].
Tác giả Nguyễn Thanh Sơn trong bài viết “Những khó khăn của học sinh miền núi khi
học tác phẩm văn học cổ điển Việt Nam” đã phân tích những khó khăn của học sinh miền
núi khi học tác phẩm văn học cổ điển Việt Nam và chỉ ra những khó khăn mà học sinh gặp

phải là: hoàn cảnh giao tiếp của học sinh miền núi bị hạn chế; vốn từ ngữ của học sinh miền
núi còn thiếu và yếu; năng lực cảm thụ một câu, một đoạn thơ yếu. Theo tác giả, nguyên
nhân dẫn đến tình trạng này là do tầm văn hóa, vốn sống, vốn hiểu biết của học sinh cịn hạn
chế. Do vậy để nâng cao cảm thụ văn học ở sinh viên thì trước hết phải nâng cao tầm văn
hóa của học sinh lên, cần mở rộng tầm hiểu biết cuộc sống, xã hội cho học sinh. Những hoạt
động ngoại khóa, thăm quan, du lịch, câu lạc bộ văn học… là những hoạt động rất bổ ích
đối với học sinh [40].
Cùng năm 1998, nghiên cứu của tác giả Hoàng Thị Chiên với đề tài “Khắc phục khó
khăn của sinh viên khi sử dụng ngơn ngữ hóa học” đã chỉ ra một số khó khăn của sinh viên
dân tộc khoa hóa học trường Đại học Sư phạm như chưa hiểu hết ý nghĩa của một số thuật
ngữ, khái niệm trong hóa học; chưa nắm chắc cách gọi tên hợp chất vô cơ. Đồng thời tác giả
cũng chỉ ra những nguyên nhân của những khó khăn này [8].
Tác giả Lê Sĩ Khôi với đề tài “Nghiên cứu một số trở ngại tâm lý trong xử lý tình
huống sư phạm của sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm Thái Bình” đã nghiên cứu một cách
khá hệ thống, sâu sắc, toàn diện về trở ngại tâm lý của sinh viên sư phạm trong giao tiếp.
Tác giả Lê Sĩ Khơi đi từ góc độ lý luận đến thực tiễn, chỉ ra khái niệm cũng như bản chất
của trở ngại tâm lý trong giao tiếp đồng thời chỉ rõ những nguyên nhân và biện pháp khắc
phục chúng [20].
Tác giả Vũ Thị Nho cùng nhóm nghiên cứu đã nghiên cứu đề tài cấp Bộ “Sự thích
nghi với hoạt động học tập của học sinh tiểu học”. Trong đó, tác giả đã phân tích nội dung
sự thích nghi với hoạt động học tập ở học sinh đầu bậc tiểu học. Phân tích hiện trạng sự
thích nghi với hoạt động học tập của học sinh đầu bậc tiểu học, những yếu tố ảnh hưởng chi
phối về nó, đề xuất một số biện pháp nhằm giúp trẻ tiểu học nhanh chóng thích nghi với
hoạt động học tập. Cụ thể, tác giả đã chỉ ra ảnh hưởng của giáo dục mẫu giáo đến khả năng
thích ứng với học tập của học sinh đầu tiểu học. Tác giả đã kết luận rằng: Những trẻ được
17


đến lớp mẫu giáo sẽ thích ứng tốt hơn với lớp một; các khó khăn ở lớp một ít hơn những
học sinh không được học qua lớp mẫu giáo [34].

Tác giả Phạm Ngọc Viễn với cuốn “Tâm lý học thể dục – thể thao” khi phân tích các
biện pháp cơ bản của công tác huấn luyện tâm lý chung cho các vận động viên đã nêu ra các
khó khăn tâm lý thể hiện dưới dạng các cảm giác sợ hãi, khơng tin tưởng, do dự trong quyết
định. Những khó khăn này thường xuất hiện trong điều kiện thi đấu, bị chi phối bởi các yếu
tố như: khởi động không thành cơng, đối phương của mình có thành tích cao, trọng tài đánh
giá thiếu khách quan. Các khó khăn tâm lý rất đa dạng về nội dung, song có thể chia làm 3
dạng sau: những khó khăn về nhận thức; những khó khăn về cảm xúc và hững khó khăn về
đạo đức [52].
Trong bài viết “Một số trở ngại tâm lý của trẻ em khi vào lớp một” của tác giả Vũ
Ngọc Hà [14, tr.57-58] đã nêu ra một số trở ngại tâm lý mà trẻ thường gặp phải khi vào lớp
đó là: khó khăn với việc thích nghi với mơi trường mới; khó khăn trong các mối quan hệ;
khó khăn khi phải đến trường.
Tác giả Nguyễn Xuân Thức với các nghiên cứu “Khó khăn tâm lý của trẻ em đi học
lớp một” [43] và “Các nguyên nhân khó khăn tâm lý của học sinh khi đi học lớp một” [44]
đã cho rằng: trẻ em mẫu giáo lớn khi bước vào học lớp một gặp những khó khăn tâm lý mà
chính những khó khăn này làm cản trở sự thích ứng với hoạt động học tập của các em, dẫn
đến sợ học và kết quả học tập khơng cao. Trong đó tác giả đồng ý với quan điểm của A.V.
Pêtrốpxki cho rằng: khó khăn tâm lý của trẻ khi đi học lớp một gồm 3 loại: những khó khăn
có liên quan đến đặc điểm của chế độ học tập mới mẻ; khó khăn trong việc thiết lập quan hệ
giao tiếp với thầy cô và bạn bè, đặc biệt là giao tiếp với bạn bè; trẻ mất dần khát vọng học
tập ban đầu và chán học.
Và các khó khăn trên là do một số nguyên nhân cụ thể như:
- Các nguyên nhân chủ quan gồm: trẻ chưa hiểu rõ nội quy; trẻ được chuẩn bị quá kỹ
trước khi đến trường; trẻ không được chuẩn bị tâm lý sẵn sàng đi học; do tính cách của trẻ;
do trẻ chưa đủ tuổi đến trường; do trẻ mắc một số bệnh bẩm sinh.
- Các nguyên nhân khách quan gồm: các nguyên nhân thuộc về gia đình; các nguyên
nhân thuộc về nhà trường; các nguyên nhân thuộc về xã hội.
Theo tác giả, các nguyên nhân chủ quan là những nguyên nhân gây ra những khó khăn
tâm lý nhiều hơn cho trẻ lớp 1. Tuy nhiên, tác giả cũng chỉ nghiên cứu trên khách thể là học
sinh lớp một miền đồng bằng và dân tộc Kinh.

18


Trong những năm gần đây cịn có một số luận văn thạc sĩ quan tâm nghiên cứu vấn đề
khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của học sinh và sinh viên như sau:
Năm 1999, luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Văn Kính “Tìm hiểu khó khăn tâm lý
trong quá trình giải bài tập hình học của học sinh phổ thông trung học cơ sở” [22, tr. 66-69],
tác giả đã chỉ ra nguyên nhân gây ra những khó khăn tâm lý trên như: do phương pháp giải
dạy của một giáo viên, do tính chất mơn học; do khả năng tư duy của học sinh trung học cơ
sở đặc biệt là khả năng khái quát hóa và suy luận hóa của học sinh cịn nhiều thiếu sót, khả
năng hiểu các định luật, định lý của học sinh chưa được khái quát.
Năm 2001, tác giả Nguyễn Thị Nhân Ái với đề tài “Tìm hiểu khó khăn tâm lý trong
q trình giải bài tập hình học của học sinh lớp 11 trung học phổ thông [1].
Năm 2002, tác giả Nguyễn Thu Huyền với đề tài “Thực trạng khó khăn tâm lý trong
quá trình giải bài tập thực hành các thao tác kỹ thuật của sinh viên trường Cao đẳng Sư
phạm Kỹ thuật Vinh” [19] cũng có nghiên cứu và nêu ra một số khó khăn tâm lý cơ bản của
người học trong q trình học các mơn khoa học tự nhiên như: do vốn kiến thức cơ bản của
người học, do khả năng suy luận.
Trong luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Xuân Thức (2005) “Khó khăn tâm lý trong
hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất Đại học Sư phạm Hà Nội” đã tìm hiểu một số
biểu hiện khó khăn tâm lý, nguyên nhân và ảnh hưởng của chúng đến nhân cách người sinh
viên [42].
Năm 2006, tác giả Cao Xuân Liễu với nghiên cứu “Một số khó khăn tâm lý trong hoạt
động học tập của học sinh lớp 1 người dân tộc K’ho ở Lâm Đồng” [27]. Trong nghiên cứu
này tác giả đã chỉ ra những khó khăn tâm lý của học sinh dân tộc K’ho là: khó khăn tinh
thần chi phối việc tiếp thu tri thức, khó khăn ngơn ngữ, khó khăn trong giao tiếp.
Trong luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Thị Thiên Kim (2007) “Khó khăn tâm lý
trong hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ
Chí Minh” [21, tr. 91-92]. Theo tác giả, sinh viên năm thứ nhất trường Đại học Sư phạm
Thành phố Hồ Chí Minh thường gặp phải một số khó khăn tâm lý tiêu biểu trong hoạt động

học tập như: tâm lý e ngại, sợ mắc sai lầm trong học tập, chán nản khi học những mơn khó
và lo lắng quá mức về việc học, chưa kịp thích ứng với môi trường và cuộc sống mới ở
trường đại học. Những khó khăn tâm lý đó ảnh hưởng đến hiệu quả học tập của sinh viên
như sau: không hiểu rõ nội dung bài học; không vận dụng được những kiến thức đã học vào
thực tiễn; lượng kiến thức tiếp thu được ít, khơng hệ thống; khơng hồn thành hoặc hồn
19


thành không tốt nhiệm vụ học tập giáo viên giao cho; không tham gia vào bài học trên lớp
được. Nguyên nhân do bản thân chưa có phương pháp học tập hợp lý, do khối lượng kiến
thức lớn và khó, do môi trường học tập ở đại học khác biệt quá nhiều so với bậc học phổ
thơng, do tính cách cá, do thiếu giáo trình, tài liệu tham khảo.
Năm 2007, tác giả Lê Xuân Trường với đề tài: “Những khó khăn tâm lý trong hoạt
động học tập của sinh viên dân tộc thiểu số năm thứ nhất Trường Cao đẳng Sư phạm Sơn
La”. Trong nghiên cứu này, tác giả chỉ ra sinh viên khoa Tự nhiên gặp nhiều khó khăn hơn
khoa Nhạc - Họa; mức độ khó khăn tâm lý khơng đồng đều giữa sinh viên nam và sinh viên
nữ, sinh viên nữ gặp nhiều khó khăn hơn. Sinh viên năm thứ nhất gặp khó khăn nhiều nhất
về mặt nhận thức, tiếp đến là hành vi và cuối cùng là thái độ.
Năm 2011, tác giả Vũ Kim Xuyến khi nghiên cứu “Một số khó khăn tâm lý trong hoạt
động học tập của học viên Phân viện Miền Nam, Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam”
cũng chỉ ra một số khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập điển hình của học viên, chỉ ra
được những nguyên nhân chủ quan và khách quan của những khó khăn đó, đồng thời cũng
đã đưa ra một số giải pháp để giảm bớt những khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của
học viên Phân viện Miền Nam [55, tr. 98-102].
Nhìn chung, khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập là một hiện tượng tâm lý phức
tạp đã được một số nhà nghiên cứu quan tâm. Các cơng trình nghiên cứu về vấn đề này đã ít
nhiều xây dựng được cơ sở lý luận và đưa ra được những dữ kiện thực tế. Các cơng trình
nghiên cứu đã tập trung làm rõ nhiều vấn đề xung quanh khái niệm trở ngại tâm lý. Đó là
việc là rõ khái niệm, bản chất, vạch ra những trở ngại, khó khăn tâm lý đồng thời làm rõ
nguyên nhân và trên cơ sở đó có những giải pháp tác động thích hợp nhằm làm hạn chế và

tiến tới loại bỏ những tác động tiêu cực này. Trong thực tế, khách thể nghiên cứu của các
cơng trình đó giới hạn ở một số học sinh phổ thơng, sinh viên ở một số trường đại học, và
nghề giáo viên mà chưa chú ý đến những khách thể và ngành nghề khác.
Trong thực tế, khó khăn tâm lý ln tồn tại trong tất cả các loại hình hoạt động của con
người. Do đó, việc nghiên cứu làm rõ những khó khăn tâm lý trong các hoạt động khác nói
chung và khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập nói riêng về lý luận cũng như thực tiễn
biểu hiện và nêu các giải pháp hạn chế là hết sức quan trọng và cần thiết. Đồng thời cũng
cần mở rộng khách thể nghiên cứu đối với những khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập
của con người. Với việc tiến hành nghiên cứu đề tài “Khó khăn tâm lý trong hoạt động
học tập của học viên năm thứ nhất Trường Sĩ quan Lục quân 2”, chúng tôi hy vọng mở
20


rộng phạm vi đối với khách thể nghiên cứu. Qua đó, chúng tơi mong muốn tìm hiểu thực
trạng, ngun nhân của những khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của học viên năm
thứ nhất đào tạo sĩ quan tại một trường quân đội, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm giảm bớt
những khó khăn đó, giúp cho hoạt động học tập của học viên đạt kết quả cao hơn.

1.2. Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu
1.2.1. Khó khăn
Trong cuộc sống, có những hoạt động của con người không thể đạt kết quả như dự
kiến thậm chí khơng thể thực hiện do gặp phải những rào cản, những khó khăn chủ quan
hay khách quan tác động. Hoạt động của con người đa dạng và phong phú bao nhiêu thì
những khó khăn, trở ngại cũng phong phú và đa dạng bấy nhiêu.
Về mặt ngôn ngữ, theo “Từ điển tiếng Việt” của Viện ngơn ngữ học: “khó khăn” có
nhiều trở ngại hoặc thiếu thốn; đời sống khó khăn; khắc phục khó khăn”[49]
“Từ điển từ và ngữ tiếng Việt” của tác giả Nguyễn Lân: “khó khăn là có nhiều trở ngại
hoặc chịu điều kiện thiếu thốn, đời sống khó khăn” [23].
Theo Nguyễn Như Ý trong Từ điển tiếng Việt thơng dụng: “khó khăn” là có nhiều trở
ngại hoặc chịu điều kiện thiếu thốn, đời sống khó khăn [56, tr.906].

Trong từ điển Anh-Việt “difficulty hoặc “hardship” đều dùng để chỉ sự khó khăn, gay
go, khắc nghiệt, địi hỏi phải có nhiều nỗ lực, cố gắng để khắc phục [54, tr. 278].
Theo N.V. Cudơmina trong tác phẩm: “Sơ thảo tâm lý lao động của người giáo viên”
đã định nghĩa “khó khăn” là trạng thái của cảm giác căng thẳng, nặng nề khơng thỏa mãn do
các nhân tố bên ngồi và bên trong của hoạt động tạo nên và phụ thuộc vào: tính chất của
chính các nhân tố bên ngồi của hoạt động; sự chuẩn bị về trình độ văn hóa, chun môn,
đạo đức và thể chất của con người đến với hoạt động; quan hệ của con người với hoạt động
[9].
L.Ia.Lecne cũng chỉ ra rằng “khó” là một phạm trù chủ quan, mức độ “khó” phụ thuộc
vào khả năng và trạng thái của chủ thể. Một hành động như nhau về mức độ phức tạp có thể
có mức độ “khó” khác nhau đối với người này hay người khác [24].
Như vậy, từ các định nghĩa trên có thể hiểu “khi nói đến “khó khăn” có nghĩa là nói
đến những gì cản trở, trở ngại, rào cản, sự khắc nghiệt, muốn vượt qua địi hỏi chủ thể
hoạt động phải có nhiều nỗ lực và ý chí”.

21


1.2.2. Khó khăn tâm lý
Trong thực tiễn cuộc sống, mọi hoạt động của con người đều có thể gặp phải khó
khăn, kể cả những hoạt động đã được coi là đã trở thành kỹ năng, kỹ xảo. Những khó khăn,
đặc biệt là những khó khăn tâm lý, làm xuất hiện những hiện tượng tiêu cực, gây sốc,
choáng, mệt mỏi, mất phương hướng và những điều đó làm ảnh hưởng khơng tốt đến chất
lượng và hiệu quả công việc, đặc biệt đối với lứa tuổi mới lớn cũng làm ảnh hưởng tiêu cực
đối với sự định hình về nhân cách. Những yếu tố gây nên khó khăn cho hoạt động của con
người có thể là những yếu tố bên ngồi hoặc có thể là những yếu tố bên trong.
Những yếu tố bên ngồi hay cịn gọi là yếu tố khách quan là mơi trường sinh sống và
làm việc, có thể là điều kiện, phương tiện hoạt động,…Con người tồn tại và tác động trong
những mơi trường đó và chịu tác động một cách trực tiếp hay gián tiếp của nền văn hóa, các
yếu tố địa lý, điều kiện kinh tế - xã hội. Những yếu tố này tồn tại xung quanh con người,

bên ngồi con người, khơng hoặc chịu rất ít tác động từ con người, đây là những yếu tố có
ảnh hưởng gián tiếp đến tiến trình hoạt động của con người.
Những yếu tố chủ quan hay còn gọi là những yếu tố bên trong, đó là những khó khăn,
trở ngại nảy sinh do đặc điểm sinh lý, đặc điểm cơ thể hay do chính đặc điểm tâm lý tạo ra
như tính tích cực, vốn kinh nghiệm, năng lực tư duy, ngơn ngữ, tâm thế, tình cảm, thái độ,
thao tác kỹ năng tiến hành hoạt động,…của chính bản thân chủ thể. Những yếu tố đó nằm
bên trong con người – chủ thể tâm lý, do đặc điểm tâm lý tạo ra, nên có thể coi là những trở
ngại tâm lý trong hoạt động của con người. Xét theo phương diện nguồn gốc xuất phát, các
yếu tố bên trong có thể chia làm hai loại: yếu tố sinh học và yếu tố tâm lý. Những khó khăn
do đặc điểm tâm lý như: nhận thức, thái độ, năng lực riêng của cá nhân, vốn kinh nghiệm
sống của chủ thể gây ra gọi là những khó khăn tâm lý. Chính những yếu tố bên trong này
ảnh hưởng đến tiến trình và kết quả hoạt động của con người.
Chúng ta cũng có thể tìm thấy một số thuật ngữ tương đương với “khó khăn tâm lý” là
“trở ngại tâm lý”, “hàng rào tâm lý”, “áp lực tâm lý”. Theo sổ tay tâm lý học, cơ chế tình
cảm của rào cản tâm lý là sự gia tăng những mặc cảm và tâm thế tiêu cực như: mặc cảm, hổ
thẹn, cảm giác lỗi lầm, sợ hãi,...trong hành vi của con người.
Từ những nghiên cứu về khó khăn tâm lý, chúng ta thấy rằng, khó khăn tâm lý xuất
hiện khi cá nhân thể hiện tính thụ động, lúng túng trong việc thích ứng với các yếu tố mới
của ngoại cảnh do năng lực trí tuệ, tình cảm, ý chí của họ khơng phù hợp với đối tượng hoạt
động.
22


Theo tác giả Cao Xuân Liễu: “Khó khăn tâm lý là tổ hợp các thuộc tính, các trạng thái,
các đặc điểm nhân cách không phù hợp với đối tượng hoạt động làm cho q trình hoạt
động gặp khó khăn, làm cho chủ thể không phát huy được khả năng của mình, dẫn đến kết
quả hoạt động bị hạn chế” [27, tr.9].
Theo tác giả Nguyễn Thị Thiên Kim: “Khó khăn tâm lý là những nét tâm lý cá nhân,
nảy sinh trong quá trình hoạt động của chủ thể, gây trở ngại, ảnh hưởng tiêu cực đến quá
trình và hiệu quả hoạt động của chủ thể” [21, tr. 24-25].

Theo Vũ Kim Xuyến: “Khó khăn tâm lý là những đặc điểm tâm lý cá nhân nảy sinh
trong quá trình hoạt động của chủ thể, gây ra những trở ngại làm ảnh hưởng tiêu cực đến
quá trình và hiệu quả hoạt động của chủ thể” [55].
Tập hợp các nghiên cứu về vấn đề khó khăn tâm lý, chúng ta có thể khái quát lại thành
ba nhóm ý kiến sau:
Nhóm ý kiến thứ nhất cho rằng: Khó khăn tâm lý là tổ hợp các thuộc tính, các trạng
thái, các đặc điểm nhân cách khơng phù hợp với đối tượng hoạt động làm cho quá trình hoạt
động gặp khó khăn, làm cho chủ thể khơng phát huy được khả năng của mình dẫn đến kết
quả hoạt động bị hạn chế.
Nhóm ý kiến thứ hai cho rằng: Khó khăn tâm lý là trạng thái tâm lý cá nhân thể hiện
tính thụ động, lúng túng của chủ thể khi gặp những tình huống, những điều kiện làm thay
đổi, làm cản trở quá trình hoạt động và làm sai lệch kết quả hoạt động. Trong từ điển Tâm lý
học, tác giả Vũ Dũng nêu ra “hàng rào tâm lý là trạng thái tâm lý thể hiện ở tính thụ động
quá mức của chủ thể, gây cản trở trong việc thực hiện hành động”. Cơ chế diễn tiến của
hàng rào tâm lý là sự gia tăng những mặc cảm và tâm thế tiêu cực: hổ thẹn, cảm giác tội lỗi,
sợ hãi, lo lắng, tự đánh giá thấp bản thân mình. Trong hành vi xã hội của con người, hàng
rào tâm lý xuất hiện như những ngăn cách trong giao tiếp [12].
Tác giả B.D. Parưghi thì cho rằng: rào cản tâm lý được hiểu ngầm như là các quá
trình, các thuộc tính, các trạng thái của con người nói chung bao bọc tiềm năng trí tuệ, tình
cảm của con người [27, tr.8].
Nhóm ý kiến thứ ba cho rằng: Khó khăn tâm lý là sự thiếu thích ứng, thiếu linh hoạt
của chủ thể trong quá trình hoạt động và trong việc thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ. Điều này
khiến cho chủ thể không kịp thời huy động được những đặc điểm cá nhân phù hợp với yêu
cầu, nội dung, đối tượng và hồn cảnh cơng việc. Trong đó tác giả V.Ph. Galưgin cho rằng:
hàng rào tâm lý là những chướng ngại có tính chất tâm lý cản trở đến q trình thích ứng
23


×