Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Vấn đề con người cá nhân trong các sáng tác thời kỳ đầu của natsume soseki

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (764.61 KB, 97 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Bùi Thanh Phương

VẤN ĐỀ CON NGƯỜI CÁ NHÂN TRONG CÁC
SÁNG TÁC THỜI KÌ ĐẦU CỦA NATSUME SOSEKI

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh - 2013


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Bùi Thanh Phương

VẤN ĐỀ CON NGƯỜI CÁ NHÂN TRONG CÁC
SÁNG TÁC THỜI KÌ ĐẦU CỦA NATSUME SOSEKI

Chuyên ngành: Văn Học Nước Ngoài
Mã số: 60 22 02 45

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS NGUYỄN THỊ BÍCH THÚY

Thành phố Hồ Chí Minh - 2009



LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành cảm ơn:
TS. Nguyễn Thị Bích Thúy, các thầy cơ tổ Văn học nước ngồi, phòng Sau đại học
trường Đại học Sư Phạm TPHCM, gia đình và bạn bè đã tạo điều kiện thuận lợi, tận tình
góp ý, giúp đỡ, động viên tác giả trong suốt thời gian học tập và hoàn thành luận văn này.
TPHCM, Ngày

tháng 09 năm 2013

Người viết luận văn

Bùi Thanh Phương
Lớp Cao học VHNN khóa 22

1


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................. 1
MỤC LỤC .................................................................................................................... 2
PHẦN MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 4
1. Lý do chọn đề tài .............................................................................................................4
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề..............................................................................................5
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu .....................................................................................9
4. Phương pháp nghiên cứu ...............................................................................................9
5. Đóng góp của luận văn .................................................................................................10
6. Bố cục của luận văn ......................................................................................................10


CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG VỀ QUAN NIỆM CON
NGƯỜI CÁ NHÂN.................................................................................................... 12
1.1 Quan niệm về Con người cá nhân .............................................................................12
1.1.1 Con người cá nhân phương Đông và phương Tây ................................................. 12
1.1.2 Con người cá nhân Nhật Bản ................................................................................. 16
1.2 Hành trình của Tiếng nói cá nhân trong văn học Nhật Bản ...................................18
1.3. Natsume Soseki và lập trường cá nhân ....................................................................24
1.3.1 Lập trường cá nhân trước xã hội ............................................................................ 24
1.3.2 Lập trường cá nhân trong sáng tác văn chương ..................................................... 26

CHƯƠNG 2: CON NGƯỜI CÁ NHÂN-NỖI LÒNG TRƯỚC THỜI CUỘC .... 28
2.1. Cá nhân cơ đơn giữa Nhóm.......................................................................................28
2.1.1 Cá nhân cơ đơn giữa tình thân................................................................................ 28
2.1.2 Cá nhân kiếm tìm sự đồng cảm .............................................................................. 31
2.2. Cá nhân lạc lõng trong xã hội hiện đại hóa .............................................................35
2.2.1. Cá nhân “khơng theo kịp” xã hội .......................................................................... 36
2.2.2. Cá nhân sợ hãi trước dư luận xã hội...................................................................... 38
2.3. Cái Tôi và sự cảnh tỉnh ..............................................................................................40
2.3.1. Cái Tơi-Tự do-Ích kỉ ............................................................................................. 41
2.3.2. Thực trạng xã hội và sự cảnh báo.......................................................................... 45
2.3.3. Thực trạng giáo dục thời kì Minh Trị và sự phản ứng .......................................... 50
2.4. Cái Tơi và sự bình tâm ..............................................................................................52
2.4.1. Tìm về triết học, nghệ thuật .................................................................................. 53
2


2.4.2. Đề cao sự công bằng xã hội .................................................................................. 60
2.4.3. Tìm sự giải thốt trong cái chết ............................................................................. 63

CHƯƠNG 3: NGHỆ THUẬT ĐẶC TẢ NHÂN VẬT CON NGƯỜI CÁ NHÂN 65

3.1. Ngôi kể “Tôi” và nhân vật tự thuật ..........................................................................66
3.2 Cá tính hóa nhân vật...................................................................................................71
3.3. Cặp đơi nhân vật ........................................................................................................74
3.4. Con người cá nhân và không gian đặc thù .............................................................78
3.4.1. Khơng gian sự kiện................................................................................................ 79
3.4.2. Khơng gian bất tồn .............................................................................................. 81
3.4.3. Khơng gian an tồn ............................................................................................... 84

PHẦN KẾT LUẬN .................................................................................................... 87
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 89

3


PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Bức tranh văn học Nhật Bản thời Minh Trị đa màu sắc, để lại những dấu ấn đặc biệt
trong lịch sử văn học Nhật Bản đầu thế kỉ XX. Tuy nhiên ở Việt Nam các bài viết và cơng
trình nghiên cứu về thời kì văn học này vẫn cịn khá khiêm tốn cả về số lượng lẫn chất
lượng. Trong Hội thảo văn học Nhật Bản (2009), GS Mitsuyoshi Numano (Đại học Tokyo)
đã đưa ra nhận định: Di sản để lại của tiểu thuyết thời Minh Trị là rất lớn, thế nhưng phần
lớn các tác phẩm dịch thuật tại Việt Nam đều thuộc về các nhà văn ăn khách thời hiện đại,
còn các nhà văn quan trọng có ý nghĩa vượt thời gian lại chưa được chú ý nhiều. Tác giả
cũng đưa ra nhiều tên tuổi nổi bật, trong đó có nhà văn Natsume Soseki.
Khảo sát tình hình nghiên cứu văn học Nhật Bản tại Hàn Quốc, đặc biệt là mảng
nghiên cứu văn học Nhật Bản cận đại, số lượng các bài nghiên cứu về các nhà văn cận hiện
đại lên đến hàng trăm bài, đứng đầu là Natsume Soseki với 240 bài nghiên cứu về các tác
phẩm kiệt xuất của ông như Nỗi lịng có 31 bài, Sanshiro 21 bài, Đêm mơ 17 bài… Như vậy
có thể nói rằng phần lớn sự quan tâm của các nhà nghiên cứu là hướng tới Soseki. (Theo

Tạp chí nghiên cứu Đơng Bắc Á số 9, năm 2007). Kết quả khảo sát này cho thấy: là một
trong những tác giả quan trọng nhất của văn học thời Minh Trị, nhưng Soseki lại xuất hiện
khá muộn và chưa được đầu tư nghiên cứu ở Việt Nam.
Soseki là một hiện tượng trên văn đàn Nhật bản, cho đến nay, những tác phẩm của ông
vẫn nằm trong danh sách những tác phẩm bán chạy nhất. Ông được đánh giá là một trong ba
trụ cột của văn học Nhật Bản hiện đại cùng với Mori Ogai và Akutagawa Ryunosuke. Chân
dung của ông in trên tờ giấy bạc 1000 yên và được phát hành trong 20 năm liền. Là một học
giả xuất sắc sang Anh du học, Soseki đã tiếp thu bài bản nhuần nhuyễn tinh hoa văn học
Anh, ông đã kết hợp vốn kiến thức rộng lớn về văn hóa phương Tây cùng sự tinh thơng
Thiền học và văn hóa cổ điển Trung Hoa. Sáng tác của Soseki là hành trình nỗ lực tìm kiếm
và khẳng định cái Tơi, đặc biệt là cái Tơi cơ đơn của người trí thức trong xã hội tư sản cịn
mang nhiều tàn tích phong kiến. Sự nghiệp sáng tác của ông dồi dào với hơn 20 tiểu thuyết
nhiều thi phẩm, phê bình, tiểu luận trong khoảng thời gian từ 1903 đến 1916. Giai đoạn đầu,
4


những sáng tác của ông đậm chất trào phúng, châm biếm dí dỏm. Càng về sau tác phẩm của
ơng đã thể hiện một bút pháp bậc thầy, khám phá, lí giải nỗi lòng của con người trước thời
cuộc.
Tên tuổi của Soseki được biết đến với tiểu thuyết đầu tay Tôi là con mèo (Wagahai wa
neko daeru) mang màu sắc trào phúng. Tiếp sau đó là sự ra đời của Cậu ấm ngây thơ
(Botchan), tác phẩm được đọc nhiều nhất của Soseki cho đến tận bây giờ, được xem là điển
hình cho thanh niên Nhật. Gối đầu lên cỏ (Kushamakura) là sự thể nghiệm độc đáo, hòa
quyện giữa thơ và văn xuôi, không giống như tiểu thuyết thông thường…Đây là ba tác
phẩm tiêu biểu trong giai đoạn đầu khởi nghiệp của Soseki. Nhưng giá trị lâu bền của những
tác phẩm này là bàn về vấn đề con người cá nhân ngay khi sự va chạm giữa Nhật Bản và
phương Tây bắt đầu. Hịa vào tiếng nói con người cá nhân bùng phát trong văn học Minh
Trị, ba tác phẩm này là những phản ánh chân thực và sinh động suy nghĩ, hành động của
con người cá nhân, không được gia công gọt giũa nhiều như những tác phẩm giai đoạn sau.
Hấp dẫn và ăn khách nhưng những tác phẩm này chưa được nghiên cứu công phu và hệ

thống bằng những tác phẩm giai đoạn sau.
Vì những lý do trên, đề tài nghiên cứu luận văn sẽ góp phần khám phá, lý giải quan
niệm về con người cá nhân của Soseki trong giai đoạn 1904-1907 một cách hệ thống và đặt
trong toàn bộ sự nghiệp sáng tác của nhà văn với mong muốn tạo tiền đề tìm hiểu vấn đề cốt
lõi trong văn học cận hiện đại Nhật Bản: Con người cá nhân.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1 Tình hình nghiên cứu tại Việt Nam
Tình hình nghiên cứu văn học Nhật Bản thời kì Minh Trị ở nước ta khá khiêm tốn. Đa
số các bài viết đều chỉ dừng lại ở mức độ khái quát và giới thiệu, các bài viết nghiên cứu về
nhà văn Natsume Soseki cũng không ngoạị lệ.
(1) Khương Việt Hà với bài viết Các khuynh hướng phản tự nhiên chủ nghĩa trong
văn học Nhật Bản đầu thế kỷ XX(Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 8 năm 2005) điểm qua
những tác phẩm nổi bật của Natsume Soseki. Tác giả nhận định Tôi là con mèo (Wagahai
wa neko de aru, 1905-1906) là kiệt tác châm biếm, đả kích sự lố lăng của thời đại với hình
tượng một con mèo nằm lắng nghe chăm chú các nhà khoa học tranh cãi trong căn phòng
5


của ông giáo Kushami, thực chất là sự thảo luận về triết học và nghệ thuật; tiểu thuyết Cậu
ấm (Botchan, 1908) kể về một giáo viên trung học vụng về trước sự thay đổi của thời cuộc.
(2) Tham luận Con đường hiện đại hóa văn học của các nước khu vực văn hóa chữ
Hán (qua tư liệu văn học Việt Nam và Nhật Bản) của PGS.TS Đoàn Lê Giang đã đề cập
đến nhà văn Natsume Soseki và gọi ông là đại tác giả của tiểu thuyết cận đại với nhận xét:
Tất cả tác phẩm của ông đều đi vào thể hiện cái tôi và sự cô đơn của con người hiện đại.
Tham luận này đã bước đầu nhận định chung về đề tài chính trong sáng tác của Soseki.
(3) Tham luận Sơ lược tiếp cận thang giá trị mới trong văn học Nhật Bản thời minh
trị Duy Tân của hai tác giả Đỗ Vạn Hỷ, Lý Hoàn Thục Trâm đã bước đầu tìm hiểu những
biểu hiện của một thang giá trị mới trong văn học buổi giao thời cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ
XX. Trọng tâm là sự xung đột cũ và mới; quan niệm về con người cá nhân. Hai tác giả đã

nhận định rằng quan niệm con người cá nhân trong văn học hiện đại Nhật Bản là một sự tiếp
biến từ quan niệm Nho học truyền thống: mỗi cá nhân là một mắt xích trong chuỗi dài quan
hệ xã hội. Tác phẩm Nỗi lòng (Kokoro) của Natsume Soseki là sự thể hiện rõ nét nhất của
một bản ngã cá nhân như vậy. Những nhân vật trong tác phẩm này khơng hề có những tên
tuổi cụ thể nhưng chính đời sống nội tâm phức tạp làm nên diện mạo con người cá nhân của
họ. Nhân vật Tiên sinh là “cái tơi” đang cố thốt ly khỏi giá trị truyền thống cịn nhân vật
Tơi lại biểu hiện kiểu “cái tôi” theo một thang giá trị mới. Đây là cơng trình đi sâu vào vấn
đề con người cá nhân trong tác phẩm của Soseki nhưng trọng tâm nghiên cứu ở tác phẩm
giai đoạn sau.
(4) Nhà nghiên cứu Nguyễn Nam Trân trong sách Tổng quan lịch sử văn học Nhật
Bản đã nghiên cứu kĩ lưỡng văn nghiệp của Natsume Soseki và so sánh ông với Mori Ogainhà văn cùng thời và có quan điểm về phương Đơng và phương Tây khác hẳn Natsume
Soseki. Ơng nhận xét về tiểu thuyết Tơi là con mèo (Wagahai wa neko dearu): con mèo
đóng vai người kể chuyện, vờ ngây thơ quan sát môi trường nhà chủ và giới trí thức, cơng
chức thời Meji. Trong đó Soseki được miêu tả khơi hài qua hình ảnh Ông giáo hắt hơi. Với
tác phẩm Gối đầu lên cỏ (Kusamakura) muốn tìm về cái đẹp của một thế giới vượt hẳn
chúng nhân cịn với Cậu ấm (Botchan), ơng đề cao lý tưởng công bằng xã hội. Qua Cậu
ấm, Soseki trình bày những nghịch cảnh và khổ não mà con người gặp phải trong cuộc sống
và quyết tâm đập tan nó. Nguyễn Nam Trân đã nhận định sâu sắc về ba tác phẩm nổi bật
trong giai đoạn đầu sáng tác của Natsume Soske.
6


(5) Một cơng trình khác tương đối kĩ lưỡng trong việc trình bày cuộc đời và sáng tác của
Natsume Soseki là Những cây bút kiệt xuất trong văn học Nhật Bản hiện đại của tác giả
Nguyễn Tuấn Khanh (Viện nghiên cứu Đông Bắc Á). Tác giả đã biên soạn và giới thiệu rất
công phu 10 tác giả nổi tiếng của văn học Nhật Bản hiện đại. Natsume Soseki được tác giả
khảo sát kĩ lưỡng từ cuộc đời, văn nghiệp với những thành tựu nổi bật về sáng tác và nghiên
cứu văn học. Những sáng tác của Soseki được Nguyễn Tuấn Khanh cung cấp nhiều nguồn
tư liệu quý báu, đặc biệt ở ý kiến của các nhà bình luận đối với từng tác phẩm. Đặc điểm
chung của ba tác phẩm Tôi là con mèo, Cậu ấm, Chiếc gối cỏ đều mang tính chất tự thuật.

2.2 Sơ lược tình hình nghiên cứu tại nước ngoài
(1) Nhà văn đoạt giải Nobel văn học thứ hai cho Nhật Bản-Oe Kenzaburo trong tham
luận Về nền văn học Nhật Bản cận đại và hiện đại đọc tại Hội nghị văn học quốc tế San
Francisco 1990 đã ca ngợi Natsume Soseki như một người bình tĩnh trước làn sóng ồ ạt của
văn hóa phương Tây. Sự phê phán của Soseki như một tiếng chuông cảnh báo, Soseki đã
vạch ra cho người Nhật thấy sự mải mê của mình khi chạy theo mơ hình kinh tế phương Tây
nhưng ngay cả những điều kiện sống cơ bản cũng trở nên tồi tàn xuống cấp trong chính q
trình hiện đại hóa và những giá trị văn hóa bị xao nhãng, xa rời.
(2) Trong tham luận Sự hình thành các sáng tác của Natsume Soseki-Nhìn từ quá
trình ra đời của tiểu thuyết cận đại, tác giả Mitsuhiro Tokunaga đề cập đến nội dung:
“Hiện đại hóa và tự chủ bản thân” qua tác phẩm Gió mùa Đơng Bắc (Nowaki), Soseki đã
khẳng định hành động hay lối sống của cá nhân là chuyện đối phó với những sự việc này
sinh từ nhu cầu nội tại. Tuy nhiên tìm kiếm tự chủ bản thân, khơng chấp nhận thỏa hiệp mà
hành động theo ý mình là biểu hiện của sự ích kỉ. Cơng trình này đã phần nào lý giải được
bản chất vấn đề con người cá nhân trong buổi đầu sáng tác của Soseki.
(3) Bài viết Literary reponses to Death and Funerals in Modern Japan của GS
Michihiro Ama (ĐH Alaska) là một cơng trình nghiên cứu sâu sắc về ý nghĩa của cái chết
và đám tang trong văn học Nhật Bản khảo sát cụ thể qua tác phẩm của hai nhà văn Tayama
Katai và Natsume Soseki. Tác giả đã căn cứ vào cuộc đời, sáng tác của Soseki để nhận định:
“Trong suốt cuộc đời mình Soseki vừa sợ hãi vừa lý tưởng hóa cái chết” minh chứng qua
tác phẩm Tôi là con mèo.
(4) Bài diễn thuyết của Tiến sĩ Hisaaki Yamanouchi với tựa đề Feline Philosophy:
Natsume Soseki's Modern Classic Revisited đăng trên The Asiatic Society of Japan
7


(asjapan.org/web.php/lectures/2006/05) đã có sự nghiên cứu kĩ lưỡng về tác phẩm Tơi là
con mèo. Ơng chú trọng đặc biệt đến cấu trúc của tác phẩm này: như một bài renga được
cấu thành từ nhiều bài haiku. Tác giả nhận định đoạn cuối của tác phẩm này là sự hội họp
của nhiều tư tưởng, tất cả những trí thức được tập hợp lại với nhau, và các cuộc tranh luận

trong số đó dẫn đến những câu hỏi về hiện đại hóa của Nhật Bản và chủ nghĩa cá nhân là
một trong những khía cạnh của nó. Tác giả bài viết này đã đề cập vấn đề cá nhân trong tác
phẩm Tôi là con mèo tuy nhiên do trọng tâm nghiên cứu là cấu trúc tác phẩm, nên vấn đề
con người cá nhân cịn sơ lược.
(5) Một cơng trình đáng chú ý khác khi lấy tác phẩm của Natsume Soseki làm đối tượng
khảo sát là Giải phẫu cái tự ngã của TS Takeo Doi-Chuyên gia tâm thần học. Tác phẩm
Gối đầu lên cỏ và Cậu ấm ngây thơ được khảo sát ở chương 4 “Các phương thức quan hệ
giữa người với người”. Để minh họa cho mối quan hệ phức tạp của bộ đơi khái niệm
Tatemae và Honne (có thể hiểu sơ lược là tiếng nói chung của xã hội và tiếng nói cá nhân)
và nhận định rằng những thử thách trong cuộc sống mà nhân vật họa sĩ đang nói đến hầu hết
người Nhật đều đồng tình vì họ đều đã trải nghiệm sự khó khăn đối với cấu trúc bộ đôi
Tatemae và Honne. TS Takeo Doi cho rằng: Soseki đã cho chúng ta một nghiên cứu xuất
sắc về trường hợp điển hình trong nhân vật trung tâm Botchan, là hình mẫu của cá nhân
ln thất bại trong các tình huống xã hội. Vấn đề con người cá nhân-Cậu ấm đã được Takeo
Doi phân tích tỉ mỉ, tuy nhiên vì là cơng trình tâm lý học nên giá trị văn chương của Con
người cá nhân Cậu ấm còn mờ nhạt.
Trong phạm vi hẹp tài liệu chúng tôi bao quát được, việc tiếp cận nhà văn Natsume
Soseki chỉ mới là sự giới thiệu, gợi mở và nghiên cứu chung với một số tác giả khác, chưa
nhiều những cơng trình nghiên cứu riêng tác phẩm của Soseki, đặc biệt là vấn đề con người
cá nhân trong sáng tác của ông. Hầu hết những bài nghiên cứu tập trung ở tác phẩm Nỗi
lòng (Kokoro) (được xem là đỉnh cao trong sự nghiệp của Soseki). Vì vậy, đề tài luận văn
này mong muốn góp phần giới thiệu, lý giải vấn đề con người cá nhân trong các tác phẩm
giai ở đoạn đầu của Soseki (giai đoạn thử nghiệm sáng tác của ông từ 1904-1907), tạo tiền
đề để có cái nhìn so sánh đối chiếu với từng giai đoạn sáng tác, đặc biệt là giai đoạn sáng tác
chuyên nghiệp và đỉnh cao (từ 1907-1916) của Natsume Soseki.

8


3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Tiếng nói của con người cá nhân; Bản chất của con
người cá nhân; Nghệ thuật xây dựng nhân vật con người cá nhân trong sáng tác thời kì đầu
của Natsume Soseki.
Sự nghiệp sáng tác của Soseki có thể chia làm ba giai đoạn chính với các tác phẩm tiêu
biểu:
Giai đoạn thứ nhất: Tôi là con mèo (1905-1906), Gối đầu lên cỏ (Kusamakura, 1906),
Cậu ấm ngây thơ (Botchan, 1906), Bão mùa thu (Nowaki,1907)…
Giai đoạn thứ hai: Truyện chàng Shanshiro (Shanshiro, 1908), Từ dạo ấy (Sorekara,
1908), Cánh cổng (Mon,1910)…
Giai đoạn thứ ba: Qua ngày thu phân (Higan wo sugite, Người lữ khách (Kojin, 19121913), Nỗi lòng (Kokoro, 1914), Cỏ bên đường (Michikusa, 1915), Sáng và tối (Meian,
1916)…
Phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung vào ba tiểu thuyết nổi bật nhất và đã được
dịch tại Việt Nam:
_Tôi là con mèo (Wagahai wa neko de aru)
_Cậu ấm ngây thơ (Botchan)
_Gối đầu lên cỏ (Kusamakura)
Ngồi ra chúng tơi sử dụng thêm các tác phẩm khác của Soseki để so sánh các giai
đoạn sáng tác của ông.

4. Phương pháp nghiên cứu
(1) Phương pháp tự sự học:
Được sử dụng chủ yếu trong chương 3 nhằm tìm hiểu thủ pháp nghệ thuật của nhà văn.
(2) Phương pháp phân tích-tổng hợp:
Dựa trên cứ liệu khi phân tích các tác phẩm của Soseki, chúng tơi tổng hợp lại thành
những luận điểm chính, đưa ra kết luận.
(3) Phương pháp so sánh-đối chiếu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài ở những tác phẩm giai đoạn đầu, chúng tôi so sánh với
những tác phẩm giai đoạn sau của Soseki để tìm hiểu sự tiếp nối, phát triển trong mục đích
sáng tác và bút pháp của ơng. Đồng thời so sánh tác phẩm của Soseki với một số tác phẩm
9



của các tác giả khác trong và sau thời đại Minh Trị để có cái nhìn phong phú hơn về vấn đề
con người cá nhân.
(4) Hướng tiếp cận tâm lý học
Khi nghiên cứu tác phẩm của Soseki, chúng tôi nhận thấy hướng tiếp cận này đặc biệt
quan trọng. Tác phẩm của Soseki cũng được sử dụng làm cứ liệu trong các cơng trình tâm lý
học. Chúng tơi chú trọng đặc trưng tâm lý của người Nhật, dùng làm cơ sở khám phá đặc
trưng tâm lý nhân vật trong tác phẩm của Soseki.
(5) Hướng tiếp cận xã hội học
Hướng tiếp cận này rất cần thiết trong việc nghiên cứu vấn đề cá nhân và xã hội ở Nhật
Bản; tìm hiểu sự tiếp nhận của độc giả với các tác phẩm của Soseki.

5. Đóng góp của luận văn
Đề tài luận văn nghiên cứu vấn đề con người cá nhân trong tác phẩm giai đoạn đầu của
Soseki, những tác phẩm này trước nay vẫn được tập trung nghiên cứu ở các vấn đề: thống
nhất văn nói và văn viết, thi pháp tiểu thuyết…
Lý giải quan niệm lập trường cá nhân (tự chủ bản thân) còn ở dạng thử nghiệm của
Soseki trên nền tảng về Chủ nghĩa nhóm tại Nhật Bản.
Góp phần khám phá nghệ thuật xây dựng nhân vật con người cá nhân trong tác phẩm
của Soseki.

6. Bố cục của luận văn
Phần mở đầu
Phần nội dung
Chương 1: Phân biệt rõ quan niệm con người cá nhân, con người cá nhân trong văn
học Nhật Bản, giới thiệu tác giả Soseki và những lập trường cá nhân của ông, chú trọng lập
trường cá nhân trong sáng tác.
Chương 2: Chỉ ra bản chất của con người cá nhân trong sáng tác thời kì đầu của
Soseki, lý giải vì sao con người cá nhân phải tìm đến những phương cách giải thoát.

Chương 3: Khám phá một số thủ pháp xây dựng nhân vật con người cá nhân trong tác
phẩm của Soseki.
Phần kết luận
10


Tài liệu tham khảo

11


CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG VỀ QUAN NIỆM
CON NGƯỜI CÁ NHÂN
1.1 Quan niệm về Con người cá nhân
1.1.1 Con người cá nhân phương Đông và phương Tây
Con người ngay từ khi xuất hiện đã là con người cộng đồng nhưng đồng thời cũng là
con người cá nhân, con người phát triển cá tính của mình với tư cách là con người cộng
đồng đồng thời con người cộng đồng cũng chỉ phát triển với tư cách là con người cá nhân.
Đây là mối quan hệ biện chứng: Giữa con người cộng đồng và con người cá nhân không chỉ
có sự gắn bó khăng khít mà mối quan hệ đó cịn chứa đựng mâu thuẫn và xung đột
Con người với ý thức ban đầu của mình ln khát khao giải đáp những thắc mắc về
bản thân về mối quan hệ cá nhân và cộng đồng, về vũ trụ và vị trí của mình trong vũ trụ và
giới hạn của hiểu biết. Theo Iser Wolfgang (1926 – 2007) lý thuyết gia tiêu biểu của trường
phái Konstanz (Đức): “Con người “là” mình, nhưng khơng “có” được chính mình. Muốn
nắm bắt và chiếm lĩnh được hình ảnh của chính mình ln ln là một khao khát vĩnh cửu
của con người.” Chính sự khát khao bất tận đó đã thơi thúc khiến con người tách mình ra để
“nhìn lại và nhìn xa hơn” mong tìm được câu trả lời. Cịn nhà nghiên cứu A.F.Losep (19631988) thì có nhận định sâu sắc về con người trong tác phẩm Lịch sử mỹ học cổ điển
(История античной эстетики):
“Cá nhân, chủ thể con người riêng biệt, ở đây khơng cịn nảy sinh bằng con đường tự
nhiên trong đời sống xã hội và nhà nước nữa, mà đã đối lập hẳn bản thân mình với xã hội

và tự nhiên: nó đắm sâu vào bản thân nó, tự tách ra khỏi mọi cái xung quanh, chủ yếu sống
bằng những cảm xúc của mình, khép mình lại; và nếu như nó hướng tới thiên nhiên thì điều
đó diễn ra khơng phải bằng con đường tự nhiên và tự phát, hữu cơ, mà chỉ là do những nỗ
lực có ý thức của nó, những nỗ lực trí tuệ, tình cảm và ý chí, bằng cách khúc xạ những dữ
kiện thiên nhiên và xã hội qua một bộ máy cực kỳ phức tạp của đời sống độc lập bên trong
nó…”
Như vậy các ý kiến trên đều gặp nhau ở những đặc điểm về con người cá nhân: “đối
lập với xã hội và tự nhiên”, “đắm sâu vào bản thân”, “chủ yếu sống bằng cảm xúc của
mình”, “có bộ máy cực kỳ phức tạp của đời sống độc lập bên trong”…
12


Những quan niệm về con người cá nhân này đều xuất phát từ phương Tây. Nhận định
về văn hóa phương Tây, hầu hết các ý kiến đều cho rằng đặc trưng của nền văn hóa này là
lấy cá nhân làm nền tảng. Đó là nền văn hố thúc đẩy cá nhân làm chủ thiên nhiên và xã hội
và trong những thế kỷ qua chính nó thay đổi thế giới dựa trên ba khái niệm chủ đạo là tiến
bộ, khoa học và nhân quyền (Theo Phan Ngọc). Nhà sử học và xã hội học Troeltsch đã viết
như sau: “Ý tưởng Nhân cách trong hình thức của Tự do, xác định mọi thứ trong đạo lý của
lương tâm, và trong hình thức của Khách thể, xác định mọi thứ trong đạo đức học của giá
trị-ý tưởng ấy rốt cuộc là một niềm tin phương Tây, không được biết đến ở Viễn Đông, và là
định mệnh nổi bật và đặc hữu của người châu Âu” 1
F
0

Người phương Tây vẫn tôn thờ chủ

nghĩa tự do và hành xử theo phương châm cá nhân là tự do nhưng đặc tính này đối với
người phương Đơng lại khá mờ nhạt:
“Luân lý học Đông Phương nghiên cứu về gián chủ quan tính 間主観性, tức là
nghiên cứu về cộng đồng thể 共同体, nhưng luân lý học Tây Phương lại xuất phát từ nghiên

cứu về tính chủ quan, tức là tính cá thể vì thế mà quan điểm về ln lý hai bên khác nhau.
Ví dụ chúng ta có thể nhìn thấy sự khác biệt này trong khái niệm về trách nhiệm xã hội. Từ
“responsibility” trong tiếng Anh được biểu thị ý nghĩa trách nhiệm đạo lý đối với hành
động cá nhân vào cuối thế kỷ mười tám nhưng từ thời La Mã cổ đại, khái niệm cá nhân với
tư cách chủ thể của hành động đã có rồi. Theo đó, tất cả mọi người đều có nhận thức về tồn
tại luận là đều bình đẳng trước thần linh với tư cách cá nhân. Đối với điều này thì ở Nhật
Bản khái niệm trách nhiệm đã tồn tại từ thời cổ đại nhưng cá nhân nằm trong mối quan hệ
khó chia tách thân phận với cộng đồng”. [71]
Gián chủ quan tính chỉ rõ sự phụ thuộc cộng đồng bền chặt của người phương Đông,
cái chủ quan được thành lập do tác dụng của cộng đồng, không phải của riêng tự ngã mà
bao hàm cả tha ngã. Đặc tính phụ thuộc cộng đồng này cũng được nhà nghiên cứu Phan
Khôi phân tích trong Tư tưởng của Tây phương và Đơng phương (in trong Đông Pháp thời
báo). Trong bài viết này ông chỉ ra những điểm khác biệt chính giữa con người phương
Đông và phương Tây: phương Tây chuộng khoa học, phương Đông chuộng huyền học;
Phương Tây trọng tự chủ, phương Đông trọng thống thuộc; phương Tây quý tấn thủ,
phương Đông quý an phận. Đặc tính thứ hai chính là sự khác biệt giữa khái niệm con người
1

(Troeltsch, Ernst. Christian Thoughts: Its History and Application, (1923) p. 120-121. Meridian, New york, 1957).

13


cá nhân của phương Tây và phương Đông. Rõ ràng, đặc điểm “tự chủ” thuộc về khái niệm
con người cá nhân, Phan Khơi diễn giải thêm đó là tính độc lập, tự chủ, tự do bình đẳng
với nhau và với các thiết chế xã hội trong khi người phương Đông thuộc về vua chúa, không
được tự ý quyết định, sự bất bình đẳng giữa người và người ln tồn tại. Vấn đề Con người
cá nhân của phương Đông nảy nở trên sự thống thuộc và ý thức cộng đồng vô cùng bền
chặt (người Hàn Quốc là gia đình, Trung Quốc là gia tộc, Việt Nam là làng xã và Nhật Bản
là nhóm…). Điều này có nguyên do của nó, trước hết đối với những nước phương Đông lấy

nông nghiệp làm gốc thì yếu tố tập thể ln được đề cao, sức mạnh tập thể có thể chống
chọi lại sự khắc nghiệt của thiên nhiên và cần thiết cho những công việc đồng áng yêu cầu
nhiều sức người. Cộng đồng các quốc gia Đông Á đã tiếp thu nền văn minh Trung Hoa, đặc
biệt là Nho giáo, chữ “Lễ” là nội dung căn bản để xây dựng học thuyết của Nho gia và sau
này là Nho giáo. Nho giáo chủ trương “Khắc kỷ phục lễ” tức kiềm chế bản thân của mình để
phục tùng “Lễ”. Cá nhân phải hy sinh tất cả cho sự phục tùng đó điều này giải thích vì sao
con người cá nhân phương Đơng mang đặc điểm phụ thuộc cộng đồng.
Như vậy Con người cá nhân phương Đông được hiểu như thế nào? Nhà nghiên cứu
Nguyễn Kiến Giang trong bài viết Có quan niệm về con người cá nhân ở phương Đơng
khơng? sau khi trình bày những ý kiến khác nhau về con người cá nhân dưới ánh sáng của
Đạo giáo, Khổng giáo, Phật giáo, Nguyễn Kiến Giang đã đúc kết ba đặc điểm chung: (1)
Con người cá nhân cố gắng hòa nhập với tự nhiên; (2) Cá nhân ý thức vị trí của mình và
phục tùng xã hội một cách tự nguyện chứ không phải do sự cưỡng chế; (3) Con người cá
nhân được nhấn mạnh ở đời sống tâm linh của chủ thể. Đặc điểm thứ hai đã phản ánh phần
nào bản chất của con người cá nhân phương Đơng được hình thành từ ảnh hưởng của văn
hóa Nho giáo rõ nét. Nho giáo đề cao sự kiềm chế của bản thân, không thừa nhận cái Ngã
nhưng lại yêu cầu cái Tôi “tu thân” rèn luyện đạo đức, hoàn thiện bản thân. Nếu so sánh với
Phật giáo ở sự phân biệt Vô Ngã và Hữu Ngã sẽ thấy sự tương đồng: khơng có một Ngã,
một cái gì trường tồn, bất biến, nhất quán, tồn tại độc lập nằm trong sự vật. Như thế, theo
đạo Phật, cái ngã (hữu ngã) là cái “Tôi”, cái "Tôi" cũng chỉ là một tập hợp của Ngũ uẩn,
luôn luôn thay đổi, mất mát vì vậy "Tơi" chỉ là một sự giả hợp, gắn liền với cái Khổ. Nhưng
theo quan điểm nhà Phật vẫn tồn tại một nghịch lý: càng hướng tới vơ ngã thì hữu ngã càng
mạnh, để đạt đến vô ngã con người phải tự ý thức đến tận cùng. Như vậy có thể hiểu con
người cá nhân phương Đông một mặt bị kiềm tỏa, hạn chế giữa tập thể, phải phục tùng tập
14


thể mặt khác lại được mở đường cho sự đào sâu đến tận cùng bản thân, cái Tơi của chính
mình.
Thực chất lịch sử của nhân loại là lịch sử của sự tìm kiếm tự do, tìm kiếm bản thân

mình, quay về chính mình, vì vậy đặc điểm phụ thuộc cộng đồng và chú trọng đời sống tâm
linh khiến nội hàm khái niệm Con người cá nhân ở phương Đông mang nặng giá trị tinh
thần hơn so với phương Tây. Quan niệm tự do của phương Tây chú trọng nhiều hơn ở
khơng gian vật chất, con người vẫy vùng trong đó để khẳng định quyền độc lập của mình.
Có thể hiểu khái quát, tiêu chí quan trọng để nhận diện con người cá nhân phương Tây là ở
sự tự chủ, ở phương Đông là sự độc lập về tinh thần.
Để phục vụ cho đề tài nghiên cứu, chúng tôi chú trọng đặc trưng trong vấn đề con
người cá nhân đó là tự do, tự chủ và cái Tôi với sự khu biệt Đông-Tây rõ rệt. Khái niệm
cá nhân của phương Tây nghiêng về hành động, tôn trọng tuyệt đối quyền tự do của con
người, tạo điều kiện và đề cao cá nhân nổi bật trong xã hội. Ở phương Đông Con người cá
nhân mang nặng yếu tố tinh thần, con người cá nhân phải ràng buộc trách nhiệm với cộng
đồng. Bàn về vấn đề con người cá nhân, cái Tôi được nhắc đến như là thuộc tính vĩnh cửu
đến mức chúng ta thường đồng nhất Con người cá nhân chính là cái Tơi. Vậy cái Tơi thực
ra là gì? Trong triết học, Cái tôi được hiểu là cái tôi ý thức hay đơn giản là Tơi, bao hàm
trong đó những đặc tính để phân biệt tơi với những cá nhân khác.Theo phân tâm học của
C.Frued, cái Tôi là phần cốt lõi của tính cách liên quan tới thực tại và chịu ảnh hưởng của
tác động xã hội. Cái Tôi cùng với nó và cái siêu Tơi là ba miền của tâm thức. Cái tơi được
hình thành ngay từ khi con người sinh ra và qua tiếp xúc với thế giới bên ngồi, cái Tơi học
cách cư xử sao cho kiểm sốt được những ham muốn vô thức không được xã hội chấp nhận.
Cái Tơi có vai trị trung gian hịa giải giữa những ham muốn vô thức và những tiêu chuẩn
nhân cách và xã hội.Trong triết lý Phật giáo, cái Tôi, thường gọi là Ngã, là cái Tôi được
thiết thuyết với một thể tính trường tồn, khơng bị ảnh hưởng của tụ tán, sinh tử. Đạo Phật
không công nhận sự hiện diện của một Ngã như thế. Theo quan niệm Thiền, đặc trưng duy
nhất dựa trên tâm lý của cái Tôi hồn chỉnh là việc nó chìm đắm trong sự tự trị, tự do, trong
sự tự quyết và cuối cùng là sự sáng tạo. Như vậy có thể nhìn nhận cái Tôi vừa thể hiện đạo
đức vừa thể hiện tâm lý và mang cả tính chất tơn giáo, bình diện của nó trải rộng. Cịn nói
đến Cá nhân là nói đến sự trái ngược với tập thể. Cái Tôi được thể hiện cụ thể ở nhiều khía
15



cạnh, cịn Cá nhân mang tính chất khái qt, nghiêng về đạo đức và sự ràng buộc về trách
nhiệm.
1.1.2 Con người cá nhân Nhật Bản
Trở lại với đặc tính của con người phương Đơng là sự thống thuộc và tính cộng đồng,
yếu tố này được phát triển thành đỉnh cao tại Hàn Quốc và Nhật Bản. Ở Hàn Quốc, tính
cộng đồng thể hiện rõ ở Chủ nghĩa gia đình, mối quan hệ và tính chất của nó trở thành hạt
nhân trong tất cả mọi lĩnh vực, đặc biệt là kinh tế và chính trị. Tính tơn ti trật tự và gia đình
trị là nền tảng và phương châm sống của quốc gia này. Tại Nhật Bản, chủ nghĩa nhóm là cốt
lõi xã hội.
Trong một xã hội theo định hướng nhóm như Nhật Bản, có rất nhiều từ mang nghĩa
"nhóm": グループ (guruupu); Từ gốc Trung Quốc 集団 (shuudan);球団 (kyuudan: đội);
连中 (renchuu: nhóm trong cơng ty)… Khi họ trị chuyện với người nước ngồi người Nhật
thường xưng “Chúng tơi”: “Chúng tơi khơng thích món ăn này”, “Chúng tơi thích vẻ đẹp
của tự nhiên”... Theo Eiko Takamizawa trong Group orientation in Japan: Analysis and
application to missions, một cơng trình tìm hiểu mơ hình khung của xã hội Nhật Bản thì lời
xưng"Chúng tơi" bao hàm một quan điểm đồng bộ. Nếu xem xét từ góc độ lịch đại, "Chúng
tơi" khơng chỉ là người Nhật sống trong thế kỷ này mà còn bao gồmcả tổ tiên của họ. [78]
Takeo Doi (chuyên gia tâm thần học người Nhật) khẳng định: “Ta thường nói người Nhật
có đặc trưng là chủ nghĩa nhóm, trong khi người Mỹ là cá nhân chủ nghĩa.” [9, tr.77] đồng
thời ông cũng đưa ra bộ đôi Tatemae-Hone nhằm minh chứng cho mối quan hệ giữa cá
nhân và nhóm. Từ Tatemae được định nghĩa là một loại nguyên tắc hay luật lệ đã được xác
lập là tự nhiên và hợp thức. Tatemae luôn bao hàm sự tồn tại của một nhóm người đứng sau
lưng nó, tán thành nó. Ngược lại Hone chỉ các cá thể thuộc về một nhóm, trong sự đồng
thuận với Tatemae, mỗi cá nhân vẫn có động cơ và ý kiến riêng khác với Tatemae và giữ
cái riêng đó đằng sau Tatemae. Tatemae chính xác là một sản phẩm của xã hội hóa, và
Honne là biểu hiện của sự tự ý thức.Nhật Bản đặc biệt nhấn mạnh sự hòa hợp xã hội và sự
đồng thuận nhóm.Qua những khái niệm như Wa (sự hài hòa), Giri (trách nhiệm, lòng biết
ơn và nghĩa vụ đối với cộng đồng) và Kazoku (trung thành với nhóm, cơng ty). Tính chất
nhóm cao độ dẫn đến sự thỏa mãn khi phù hợp với nhóm, cảm giác phù hợp với mọi người
rất mạnh mẽ ở Nhật Bản. Người Nhật ghét bỏ lỡ những gì mà người hàng xóm, bạn bè hoặc

16


đồng nghiệp đang làm. Nếu một cô dâu mặc bốn chiếc váy đắt tiền khác nhau trong ngày
cưới của mình, thì các cơ dâu khác cảm thấy họ phải làm điều tương tự… Một trong những
nỗi sợ hãi tồi tệ nhất của cá nhân Nhật Bản là bị loại trừ khỏi nhóm. Một nhà tâm lý học
Nhật Bản đã phát biểu trên một tờ báo tại London rằng: Bản sắc cá nhân của người Nhật
Bản rất yếu, họ cảm thấy an tồn hơn khi ở trong nhóm của mình. Ngay từ thuở lọt lòng, trẻ
em Nhật Bản đã được dạy về tính kìm chế (Gaman) như một nghệ thuật sống. Gaman là
một yếu tố dùng gắn kết xã hội Nhật Bản. Nó ngụ ý tự kiềm chế, đau khổ trong im lặng, phủ
nhận chính mình, hài lịng và tự thể hiện để phù hợp với những điều tốt đẹp hơn. Chính sự
kìm chế này đã cho đất nước Nhật Bản những “phép màu thần kì” vượt qua sự tàn phá khốc
liệt của thiên tai và chiến tranh. Nhưng dường như nó cũng tạo sự vơ cảm của người Nhật
Bản (bởi những cảm xúc đời thường của họ đã bị “đàn áp”). Đối với người Nhật Bản bị cô
lập ra khỏi xã hội còn tồi tệ hơn cả cái chết. Yếu tố này cũng góp phần duy trì sự tồn tại
những làng hay khu phố bền chặt dẫn đến một hình thức cộng đồng gọi là “Xã hội dư luận”.
Xã hội dư luận (tiếng Nhật: Uwasa no shakai – xã hội của lời đồn đại, đàm tiếu, bình phẩm
sau lưng) được hiểu như một cộng đồng người mà hành vi của mỗi một gia đình, mỗi một
thành viên bị chi phối bởi những lời đồn đại, đàm tiếu, bình phẩm của cộng đồng nơi người
đó sống. Bản tính của người Nhật khơng thích đối kháng, đặc biệt là đối đầu cá nhân. Để
tránh điều này, họ luôn luôn làm theo sự nhất trí. Họ chú tâm gìn giữ sự hịa hợp đến mức
nhiều khi lờ di sự thật, bởi dưới con mắt người Nhật giữ gìn sự nhất trí, thể diện và uy tín là
vấn đề cốt tử. Chính vì vậy trong xã hội Nhật, có rất ít chỗ cho ý tưởng cá nhân, người nào
hịa nhập hồn tồn vào các nhóm thì sẽ được đền đáp.Trong khi Chủ nghĩa cá nhân được
đề cao ở phương Tây, thì ở Nhật sự tự khẳng định cá nhân dưới bất kỳ hình thức nào cũng
khơng được khuyến khích. Câu tục ngữ trứ danh ở Nhật: “Cây đinh nào ló lên sẽ bị đóng
xuống” khẳng định thái độ từ chối dứt khoát của người Nhật đối với Chủ nghĩa cá nhân.
Những điều này phần nào phác họa cho thấy cái nền chung về khái niệm Con người
cá nhân ở Nhật Bản, rõ ràng ở đất nước này vấn đề con người cá nhân không được khuyến
khích và phát triển. Vì vậy nội hàm của khái niệm Con người cá nhân rất đặc trưng, đậm

chất Nhật Bản. Vậy lịch sử văn học Nhật Bản có hay khơng có vấn đề con người cá nhân và
tại sao thời kì Minh Trị được coi là thời kì tiếng nói cá nhân phát triển mạnh mẽ nhất?

17


1.2 Hành trình của Tiếng nói cá nhân trong văn học Nhật Bản
“Yếu tố văn học chủ đạo ở các tác phẩm là nỗi buồn chứ không phải niềm vui, là nước
mắt chứ không phải nụ cười, bởi thế mà văn học Nhật Bản hướng tới những mưu cầu mang
tính trữ tình của nội tâm cá nhân hơn là đối diện với các yếu tố mang tính lịch sử, xã hội”
đây là nhận định của nhà nghiên cứu Numano Mitsuyosh về văn học Nhật Bản. Đọc văn học
Nhật Bản, dễ dàng nhận ra những xúc cảm thường nhật, dễ đi sâu vào lịng người, khơng
đao to búa lớn, khơng mang tầm vóc cao siêu, văn học Nhật Bản đem đến những điều bình
dị, sâu xa về nhân sinh.
Văn học Nhật Bản là một nền văn học trữ tình, từ Tanka đến Haiku, từ tiểu thuyết đến
tùy bút, tất cả đều là những nỗi niềm, những lời bộc bạch, là tâm sự mang tính cá nhân hơn
là cái nhìn về xã hội, chính trị. Văn học Nhật Bản cho đến trước thời kì Minh Trị khơng gắn
với yếu tố chính trị. Cổ sự kí (Kojiki) là huyền sử lập nước Nhật Bản, không mang nặng sự
kiện lịch sử, điểm nổi bật của Cổ sự kí là niềm vui và nỗi buồn nhân thế. Từ sự tự ái và tính
hiếu kì của nữ thần ánh sáng Amaterasu đến tâm trạng thổn thức thương nhớ người u của
hồng đế Nintoku rồi lịng ghen tng của hồng hậu Iwa… Huyền sử của dân tộc Nhật Bản
được xây dựng bằng tâm lý thường nhật của con người, vĩ đại từ những điều nhỏ nhặt, sống
động từ những gì tĩnh lặng. “Ngọn hải đăng của thơ ca Nhật Bản”: Vạn diệp tập
(Manyoshu) là thế giới của cảm xúc và tình yêu, là khởi nguồn của thơ công dân. Trong
“Vạn diệp ngũ đại gia” nhà thơ Yamanoue no Okura có một phong cách riêng, thơ ơng vang
lên âm điệu chống bất công xã hội: Trường ca Đối đáp của những người nghèo (Kinkyumondo-uta) thể hiện sâu sắc tình cảm nhân đạo u thương cảm thơng với những số phận
khốn khổ trong xã hội:
“Giá rét run cầm cập
Quấn vội mảnh vải gai
Trùm thêm áo khoác ngắn

Cho đỡ lạnh đêm dài
Rét dẫu chưa hết rét
Nhưng còn sướng hơn ai
Những người nghèo cùng cực
Cha mẹ già, sao đây?
18


Con thơ và vợ dại
Kêu réo miếng ăn hồi
Làm gì cho bớt khổ?
Thử trả lời ta hay! [43, tr.58]
Thời kì Heian phát triển rực rỡ với văn học cung đình, đặc biệt là văn chương nữ lưu,
tiểu thuyết và tùy bút nảy nở. Đời sống cung đình, cuộc sống của quý tộc qua các thể loại
thơ ca, tiểu thuyết, tùy bút ghi nhận những tâm sự, cảm xúc cô độc cá nhân, đạt đến sự
thăng hoa với Aware. Tiểu thuyết vĩ đại Truyện Genji hấp dẫn ở hệ thống nhân vật nữ xoay
quanh người tình lý tưởng của mn đời-hồng tử Genji. Mỗi nhân vật nữ là một chân dung
riêng biệt, không đồng nhất. Murasaki đã khắc họa diện mạo tầng lớp quý tộc Heian. Trong
Truyện Genji (Genji monogatari) mẫu số chung của tầng lớp quý tộc được tô đậm, số phận
và đời sống luyến ái của hoàng tử Genji nhập vào vịng tuần hồn của cuộc đời, hịa vào
dịng chảy chung của thời đại. Thời kì này cũng đã xuất hiện tập truyện ngắn đầu tiên:
Truyện quan trung cố vấn bên bờ đê (Tsutsumi chunagon monogatari) gồm 10 truyện
ngắn, những nhân vật trong các tập truyện này có tính cách kì quặc khơng giống như những
nhân vật ln thưởng ngoạn và nao lòng trước cái đẹp ở các sáng tác khác. Họ thích nhìn
trộm qua khe cửa, nghe trộm người khác nói chuyện, phạm nhiều lỗi lầm, gặp những tình
huống dở khóc dở cười. Và đặc sắc hơn cả là truyện Tiểu thư yêu sâu bọ (Mushi mezuru
himegimi) tính cách và hành động của tiểu thư yêu sâu bọ vượt ra khỏi lề lối giả tạo của xã
hội thời kì đó. Tập truyện này chống lại thị hiếu về cái Đẹp đã được tôn thờ trong suốt một
thời gian dài, đánh dấu cho “ráng chiều” của thời đại Heian, những giá trị được tôn thờ qua
bao năm tháng giờ đây bắt đầu tẻ nhạt. Tác phẩm này “ngấp nghé” ngưỡng cửa cho những

đề tài thực tế, khám phá hiện thực “trần trụi” của con người. Đỉnh cao của văn học Heian
còn được đánh dấu ở sự nở rộ của thể loại tùy bút và nhật kí, với thể loại này tâm tư tình
cảm của con người được biểu lộ chân thật nhất, rõ ràng nhất. Chính những tập tùy bút này
lại khắc họa rõ nét chân dung của tác giả, trong khi những tư liệu về họ chẳng còn lại được
bao nhiêu. Tùy bút Chẩm thảo tử (Makura no Soshi) của Sei Sonagon là đỉnh cao của thể
loại này, cách viết của Chẩm thảo tử rất tự do, đề tài bao gồm tất cả kinh nghiệm, những
điều mắt thấy tai nghe, cảm tưởng về cuộc sống xung quanh. Tác phẩm này có 300 đoạn in
đậm dấu ấn cảm xúc và thẩm mỹ nhạy bén của tác giả… Thể loại tùy bút và nhật kí với đặc
19


trưng theo dõi những biến chuyển nội tâm, khả năng tự chiếu đã tạo điều kiện cho con
người “bật ra” tiếng nói cá nhân mạnh mẽ và nhạy bén.
Văn học thời cận đại (thời kì Edo) là văn học bình dân, thời kì của văn chương phù thế
nổi tiếng với Ihara Saikaku (Tiểu thuyết), và Chikamatsu Mozaemon (Múa rối Joruri và ca
kịch Kabuki)…Đề tài nổi bật trong các tác phẩm của Chikamatsu là sự xung đột giữa Ninjo
và Giri. Ninjo (nhân tình) là những tình cảm và đam mê của con người, trong khi đó giri
(nghĩa lí) là những bổn phận và đạo lí. Mối xung đột giữa cá nhân và xã hội đó rất khó hịa
giải, dẫn đến cái chết bi thảm của các nhân vật chính. Giri của mỗi người tùy thuộc vào
hồn cảnh: gia đình, thị tộc, giai cấp, xứ sở, thời đại, tư tưởng….Trong khi đó Ninjo là
những tình cảm cuồng nhiệt, say đắm của con người muốn vượt ra ngồi những ràng buộc
đó. Tác phẩm tiêu biểu của đề tài này là Tự sát đôi ở Sonezaki, Tự sát đôi ở Amijima, Cây
thông bật rễ, Cuộc chiến Kokusenya…), trong đó nổi bật tư tưởng của Chikamatsu muốn
nhân tình và nghĩa lí bổ sung lẫn nhau, quân bình trong cuộc sống. Dù nhân tình thường
phải hi sinh nhưng chính vì vậy mà nghĩa lí trở nên khoan dung hơn. Đóng góp lớn nhất của
thời kì Edo đối với văn học Nhật Bản là đã sản sinh ra thi sĩ-thiền sư kiệt xuất Basho với thể
thơ Haiku thâu tóm “vũ trụ trong một hạt cát”:
Ta nhìn sâu xa

Đóa hoa nở ở vết nứt trên tường


Bên hàng giậu nở

Tôi nhổ hoa ra khỏi vết nứt kia

Cành nazuna.
(Basho)

Giữ cả rễ lẫn thân trong tay tôi,
Này hoa nhỏ nếu tôi có thể hiểu được
Hoa là gì cả rễ lẫn thân, tất cả mọi thứ,
Tơi có thể biết được Chúa trời và con người là gì.
(A.Tennyson) 1 [39, tr7-9]
F
1

Tiến sĩ D.T.Suzuki chuyên gia nghiên cứu Thiền học của Nhật Bản sử dụng ví dụ này
để phân biệt sự khác nhau căn bản giữa tư duy phương Đông và phương Tây, ở đây chúng
1

Alfred Tennyson (1809-1892) là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất của Anh, đề tài nổi bật trong thơ
ông là truyền thuyết cổ, vấn đề xã hội, sự quan sát thiên nhiên nhạy bén…

20


tôi sẽ xem xét kĩ hơn ở sự bộc lộ của con người cá nhân trong hai bài thơ này. Chúng ta vẫn
cho rằng người phương Đông yêu thiên nhiên và hiểu thiên nhiên hơn người phương Tây,
bằng chứng là Basho khơng “thơ bạo” như Tennyson, ơng lặng lẽ nhìn ngắm bơng hoa trong
sự sống của nó, trong sự hịa nhập của nó với đất trời bằng tình cảm đắm say của một người

yêu quý thiên nhiên rất mực, còn Tennyson thì ngắt bơng hoa ra khỏi sự sống của nó, xem
xét nó từng “đường gân thớ thịt” bằng con mắt của lý trí, lối tư duy khoa học…Nhưng rõ
ràng tư thế và khát vọng trước thiên nhiên của Tenyson là sự chủ động, dứt khoát và ham
học hỏi khác hoàn toàn so với Basho. Thiền sư Basho ngắm cành hoa trong sức sống của nó,
ơng như một người bạn rất đỗi dịu dàng của hoa. Nhưng có lẽ sâu xa hơn là sự tôn sùng tự
nhiên và cảm nhận mình là một phần tự nhiên của Basho. Người phương Tây nhận thức,
khám phá và chinh phục tự nhiên còn người phương Đơng thì dừng ở sự nhận thức, khám
phá. Họ luôn trong tâm trạng nương theo thiên nhiên để đạt đến trạng thái hòa hợp cùng vũ
trụ.
Tennyson muốn từ bơng hoa để hiểu hoa, hiểu mình, hiểu Chúa trời hay nói cách khác
là muốn truy nguyên về nguồn cội. Nhà thơ tách mình ra, độc lập hồn tồn với đối tượng
đang tìm hiểu để nghiên cứu. Con người cá nhân ở đây khao khát hiểu mình, hiểu người và
muốn hiểu cả vũ trụ bao quanh mình, đó là sự ham muốn vô cùng vô tận của một người tự
chủ, tự tin, độc lập và khơng bị ràng buộc. Cịn Basho thì lại tìm sự giải thốt ở một bơng
hoa, con người cá nhân tìm sự đồng cảm, đồng thuận để cùng ngẫm nghĩ và thâm nhập.
Không như Tenyson, để hiểu được bông hoa, Basho đã trở thành bông hoa và từ bơng hoa
Basho thẩm thấu bí mật của vũ trụ rồi quay trở lại chiêm nghiệm bản thân mình. Đặc điểm
của con người cá nhân Nhật Bản hiển hiện rõ ràng qua bài Haiku của Basho.
Về thực chất, Con người cá nhân trong văn học truyền thống Nhật Bản được hiểu
như thế nào? Đó khơng phải là con người thức tỉnh (trong xã hội Việt Nam thời trung đại)
vốn đã quen làm theo, nghe theo tiếng nói của một cộng đồng. Đó cũng khơng phải con
người cá nhân mạnh mẽ, dứt khốt của phương Tây ln tìm cách vượt trội so với cộng
đồng và cộng đồng tôn trọng điều đó như một giá trị thuộc về quyền và tư cách con người,
do đó con người được phát huy tự do và năng lực cá nhân một cách tối đa. Ở Nhật Bản đó là
tự do trong phụ thuộc, cá nhân vẫn có mong muốn riêng, vẫn làm những điều mình thích
nhưng họ vẫn nhìn về nhóm của mình. Nữ thi sĩ Komachi thổn thức với tình yêu của mình
21


trong bài thơ Tanka, là đang hòa vào dòng chảy chung của những vần thơ trữ tình, của trào

lưu thời đó. Sei Shonagon với tùy bút Chẩm thảo tử mang những suy tư và nhận xét riêng
của mình, là đang ghi chép lại cuộc sống của bộ phận quý tộc cung đình. Họ ln có một
nhóm mà mình thuộc về và nhóm này khơng chiều theo những ham muốn cá nhân, vì thế cá
nhân khơng có điều kiện vượt lên trên nhóm (vượt lên khơng mang nghĩa tài năng nổi trội
mà là suy nghĩ và hành động chệch ra ngoài sự cho phép của nhóm). Xung đột giữa Giri và
Ninjo được xem là biểu hiện rõ rệt nhất cho tính chất của con người cá nhân Nhật Bản, khi
mối quan hệ này trở nên “vơ cùng mệt mỏi” thì Nhật Bản va chạm với làn sóng tự do cá
nhân của phương Tây, những tưởng sẽ dung hịa vì tìm được lối đi mới nhưng con người cá
nhân Nhật Bản về bản chất vốn đã khác biệt, lại chịu đựng thêm những xung đột mới vì
khơng đạt được tự do theo mong muốn.
Hai khái niệm Ninjo và Giri (biểu hiện cho sự xung đột giữa cá nhân và xã hội của
Nhật Bản) biểu hiện rõ rệt trong thời kì Edo và bùng phát mạnh mẽ ở thời kì Minh Trị.
Trong số các khái niệm từ phương Tây, các nhà văn Nhật Bản tiếp thu nhiều nhất chính là
Chủ nghĩa cá nhân, được thể hiện rõ rệt nhất trong thể loại tiểu thuyết tự thuật
(shishosetsu). Sự cô đơn của cá nhân tự ý thức đã trở thành chủ đề xuyên suốt của văn học
thời kì này:
“Cuộc Canh tân đã đặt nước Nhật vào bối cảnh quốc tế. Đến nỗi, cả trên mặt bằng
trong nước cũng như trong quan hệ với nước ngoài, Nhật Bản đã phát triển mạnh mẽ và
cũng phải đương đầu với một cuộc khủng hoảng nặng nề. Những nhà trí thức thời đó cảm
thấy cần có một nền văn học tiểu thuyết tạo cho người Nhật ở thời đại mới đó một tiếng nói
riêng, và họ ra sức đi tìm nó. Đây chính là bước đầu của cái mà người ta gọi là nền văn học
Nhật Bản hiện đại. Những người tiên phong của nền văn học này là những trí thức được
giao một sứ mệnh, đều có một giọng nói và cách cảm nhận ăn sâu trong hiểu biết về những
nhà văn cổ điển Trung Hoa. Họ thêm thắt vào đó các nghiên cứu khác, đặc biệt là về văn
học Nga, Đức, Pháp, Anh…Họ dịch riêng lẻ các tác phẩm châu Âu và dùng nó như bàn đạp
để tạo nên viễn cảnh của thời đại mới, khi đã cắt được ràng buộc với những qui ước của
nền tảng văn học cũ. Trong số đó có Shimei Futabatei, chuyên về văn học Nga, Sôseki
Natsume, quen thuộc với văn học Anh, Ogai Mori, nghiên cứu tiếng Đức và Pháp. Vậy là ở
Nhật Bản đã tồn tại một dòng tiểu thuyết từ cách đây hơn một thế kỷ đã làm cầu nối giữa
những trí thức thời Minh Trị với những nhà văn hiện đại.”[63]

22


Sau hơn ba trăm năm đóng cửa tuyệt giao với thế giới bên ngoài, Nhật Bản ngủ kĩ đã
thức dậy trước làn gió mới từ phương Tây thổi tràn vào trên tất cả mọi lĩnh vực. Nền văn
học hiện đại, được xây dựng trên cơ sở chủ nghĩa tự do, chủ nghĩa cá nhân. Văn học truyền
thống, cổ đại của Nhật Bản, khi tiếp nhận ảnh hưởng văn học và tư tưởng mới của Tây Âu,
thay đổi đặc thù thành nền văn học tơn trọng tính cá nhân và việc miêu tả con người, miêu
tả cá tính trở thành mục tiêu lớn nhất, được gọi là phương pháp tả thực, tiểu thuyết trở thành
trung tâm của nền văn học hiện đại. Vào thời kỳ này, văn học Nhật Bản đã hiện đại hóa với
vai trị là nền văn học của nhân dân (từ văn học chính trị đến văn học của quần chúng nhân
dân). Các trào lưu văn học nở rộ cùng nhiều trường phái lý thuyết khác nhau đã tạo nên bức
tranh phong phú đầy màu sắc cho văn học thời kì này.
Tiểu luận Bản chất của tiểu thuyết (Shosetsu shinzui) của Tsubouchi Shoyo (18591935) xuất bản năm 1885, đã đặt nền móng cho nền lý luận văn học hiện đại: phủ nhận lập
trường luân lý “khuyến thiện trừ ác” của những tác phẩm thời kì trước, chủ trương tôn trọng
thái độ tâm lý khách quan, đề cao cảm xúc của con người. Vì vậy nó cịn được gọi là Chủ
nghĩa tả thực, tác phẩm tiêu biểu theo khuynh hướng này là Phù vân (Ukigumo) của
Futabatei Shimei. Tác phẩm này diễn tả ảnh hưởng đậm nét của phong trào Âu hóa lên đời
sống tình cảm của con người, đặc biệt là những thanh niên, đồng tiền và sự hào nhống có
sức mạnh vơ cùng chi phối tính cách của con người.
Chủ trương của chủ nghĩa tả thực là nội dung của cuộc tranh luận văn học đầu tiên vào
những năm 1890 khi một số nhà phê bình khác như Ozaki Yukio (1858-1954) và Shimada
Saburo (1852-1923) nêu cao vai trò của một nền “văn học khai hóa” mang nặng tính giáo
dục và xem cảm xúc con người như là biểu hiện của một loại văn học suy đồi. Cuộc tranh
luận giữa Kitamura Tokoku (1868-1894) và Yamaji Aizan (1864-1917) về những cá nhân
kiệt xuất và con người bình thường trong văn học. Trong khi Aizan quan niệm những con
người bình thường cần được giáo hóa những vấn đề ln lý thơng qua sự ngưỡng vọng
những cá nhân kiệt xuất thì Tokoku lại ý thức sâu sắc về sự cảm thông của những cá nhân
kiệt xuất hướng tới đám đông vô danh, và nhấn mạnh giáo dục không thể thực hiện được
nếu thiếu sự cảm thông.

Một khuynh hướng quan trọng khác được hình thành sau chiến tranh Nhật-Thanh là
khuynh hướng lãng mạn. Những tác phẩm thuộc khuynh hướng này đả phá truyền thống
(hình thức và đạo đức cũ) để tìm sự giải phóng của bản ngã về mặt tình cảm qua đại diện là
23


×