Tải bản đầy đủ (.pdf) (48 trang)

(Luận văn thạc sĩ) biện pháp hoàn thiện mô hình quản lý tài chính hàng không việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (406.34 KB, 48 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM

NGUYỄN HỮU ÁI

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2000


MỞ ĐẦU

1 – Tính cấp thiết của đề tài :
Nhà nước Việt Nam chủ trương xây dựng một nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghóa,
thành phần kinh tế nhà nước chính là cơ sở sức mạnh kinh tế của Nhà nước, giúp Nhà nước phát huy vai trò điều
tiết vó mô nền kinh tế. Tuy nhiên, sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế chỉ có thể được xem là tích cực khi thành
phần kinh tế nhà nước vẫn phải nắm vai trò chủ đạo, đồng thời phải tạo điều kiện để các thành phần kinh tế
khác phát huy tiềm năng của mình.
Theo V.I.Lênin, để thực hiện nhiệm vụ cải tạo các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghóa, thì con đường
hợp lý hơn cả đối với thành phần kinh tế tư bản tư nhân là đưa nó vào kinh tế tư bản nhà nước . Sự liên doanh
giữa nhà nước và tư nhân dưới hình thức hợp vốn và tham dự cổ phần đã hình thành kinh tế tư bản nhà nước.
Kinh tế tư bản nhà nước đóng vai trò rất quan trọng trong việc thu hút vốn, hiện đại hóa công nghệ và quản lý
các nhà đầu tư tư nhân, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài.
Xuất phát từ quan điểm trên, Nhà nước Việt Nam đã thí điểm thành lập các tập đoàn kinh tế lớn trên cơ sở
những doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong những ngành quan trọng, đồng thời đẩy mạnh đa dạng hóa sở
hữu đối với các doanh nghiệp nhà nước thông qua hình thức cổ phần hóa. Thực tiễn hoạt động của các tổng công
ty nhà nước trong thời gian qua cho thấy rằng đa dạng hóa sở hữu là con đường tất yếu, nhưng tiến trình cổ phần
hóa doanh nghiệp nhà nước vẫn còn rất chậm so với dự kiến, nhất là ở các tổng công ty 91. Bên cạnh đó, mô
hình quản lý tài chính hiện nay của các tổng công ty nhà nước Việt Nam, với đặc trưng về hình thức sở hữu và
cơ chế quản lý tài chính, đã bộc lộ những nhược điểm cần phải được nghiên cứu hoàn thiện.


Những nhược điểm này càng nổi bật đối với hoạt động của Tổng công ty Hàng không Việt Nam ( sau đây
được viết tắt là TCT HKVN ) , một doanh nghiệp nhà nước quy mô lớn, có phạm vi hoạt động toàn cầu và có
quan hệ hợp tác với nhiều hãng hàng không khác trên thế giới.
Trong môi trường kinh tế toàn cầu, với xu hướng ngày càng nới lỏng chính sách điều tiết không tải và mở
rộng bầu trời, các hãng hàng không khó có thể đứng độc lập mà vẫn hoạt động hiệu quả. Sự hợp tác trong nhiều
lónh vực bằng nhiều phương thức khác nhau giữa các hãng hàng không, dù lớn hay nhỏ, đã trở thành một nhu
cầu khách quan. Sự hợp tác này hình thành các liên minh hàng không , đem lại nhiều lợi ích cho các hãng hàng
không tham gia cũng như hành khách của các hãng đó, nhưng cũng đòi hỏi các hãng hàng không tham gia phải
đáp ứng những tiêu chuẩn nhất định. Một trong những tiêu chuẩn quan trọng có ý nghóa quyết định là phải có
năng lực tài chính đủ mạnh để đầu tư phát triển sản phẩm ( mở rộng mạng đường bay, bảo đảm an toàn, cung
ứng dịch vụ chất lượng cao ). Ngoài ra, hãng hàng không phải xây dựng cho được một hệ thống quản lý tương
thích với các chuẩn mực chung của lieân minh.
1


Trong mấy năm qua, TCT HKVN đã có những bước phát triển vượt bậc. Nhưng so với các hãng hàng
không khác trong khu vực, TCT HKVN vẫn còn rất nhỏ bé về nguồn lực vật chất và non trẻ về năng lực quản lý
sản xuất kinh doanh, khả năng cạnh tranh còn hạn chế trên thị trường quốc tế. Một trong các nguyên nhân làm
ảnh hưởng đến tốc độ phát triển của TCT HKVN là những khó khăn, vướng mắc trong mô hình quản lý tài
chính hiện nay.
Nghiên cứu cải tiến công tác quản lý sản xuất kinh doanh nói chung, hoàn thiện mô hình quản lý tài chính
nói riêng là một nhu cầu bức thiết giúp TCT HKVN phát triển nhanh chóng, trở thành một tập đoàn kinh tế
hàng không đủ mạnh để có thể đứng vững trong cạnh tranh và hội nhập được với thị trường hàng không thế
giới.
2 – Mục đích nghiên cứu :
Mục đích chủ yếu của luận văn là phân tích, đánh giá một cách khái quát thực trạng công tác quản lý tài
chính của TCT HKVN với những mặt mạnh, yếu của mô hình quản lý tài chính hiện nay. Từ đó, tìm một số giải
pháp nhằm hoàn thiện mô hình quản lý tài chính của TCT HKVN, để thực hiện mục tiêu chiến lược : Xây dựng
TCT HKVN trở thành một tập đoàn kinh tế mạnh, lấy kinh doanh vận tải hàng không là cơ bản, đồng thời phát
triển đa dạng hoá ngành nghề kinh doanh, đảm bảo thực hiện kinh doanh có hiệu quả, phục vụ đắc lực sự

nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước, góp phần bảo đảm an ninh quốc phòng [25, 22 ]
3 – Phạm vi nghiên cứu :
Phạm vi nghiên cứu của luận văn giới hạn trong điều kiện cụ thể của TCT HKVN, một tổng công ty nhà
nước điển hình của Việt Nam thí điểm thành lập tập đoàn kinh tế .
4 – Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu :
Cơ sở lý luận để nghiên cứu đề tài là những lý thuyết về tài chính doanh nghiệp, những nguyên tắc cơ
bản của quản lý, những kinh nghiệm thực tế về sự hình thành các tập đoàn kinh tế trên thế giới, các văn bản
pháp lý hiện hành của Nhà nước Việt Nam có liên quan đến quy chế quản lý tài chính của doanh nghiệp nhà
nước, Luật doanh nghiệp, Luật các tổ chức tín dụng, Luật hàng không Việt Nam, những thỏa ước và những tập
quán quốc tế về hàng không …
Phương pháp nghiên cứu xuyên suốt trong luận văn này là phương pháp duy vật biện chứng. Luận văn
phân tích thực trạng mô hình quản lý tài chính hiện nay của TCT HKVN trong mối quan hệ với các yếu tố
khách quan và chủ quan ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của mô hình này. Các giải pháp để hoàn thiện mô
hình quản lý tài chính của TCT HKVN dựa trên cơ sở áp dụng một cách chọn lọc những kinh nghiệm hình
thành các tập đoàn kinh tế trên thế giới vào điều kiện cụ thể của TCT HKVN. Mô hình quản lý tài chính của
TCT HKVN phải phát huy được những mặt mạnh sẵn có của một tổng công ty nhà nước quy mô lớn, đáp ứng
được nhu cầu hội nhập quốc tế, đồng thời phải phù hợp với điều kiện của nền kinh tế Việt Nam hiện nay : neàn
2


kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, phát triển theo định hướng xã hội chủ nghóa, vận động theo cơ chế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước.
4 – Kết cấu của luận văn :
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, nội dung chính của luận văn bao gồm các phần sau :
Chương 1 : Tổng quan về tập đoàn kinh tế và tổng công ty
Chương 2 : Thực trạng mô hình quản lý tài chính của TCT HKVN hiện nay
Chương 3 : Một số giải pháp hoàn thiện mô hình quản lý tài chính của TCT HKVN

3



Chương 1 :
Tổng quan về tập đoàn kinh tế và tổng công ty
1 - Những vấn đề chung về tập đoàn kinh tế :
1.1– Khái niệm về tập đoàn kinh tế:
Tập đoàn kinh tế là một pháp nhân bao gồm nhiều công ty khác nhau có mối quan hệ sở hữu và khế ước
với nhau, hoạt động trong cùng một ngành hay nhiều ngành khác nhau trên một nước hay nhiều nước . Tập
đoàn kinh tế do một công ty mẹ lãnh đạo và các công ty con chịu sự kiểm soát của công ty mẹ thông qua quyền
biểu quyết do sở hữu một tỷ lệ khốâng chế trong tổng số cổ phần đang lưu hành của công ty con.
Trong tiếng Anh, tập đoàn kinh tế được diễn tả bằng các từ hay cụm từ sau: Group, Group of companies,
Conglomerate, Consortium. Trong đó, công ty mẹ gọi là Holding company hoặc Parent company, các công ty
con gọi là Subsidiary companies . Ngoài các Subsidiary companies của nó, Holding company còn có thể tham
dự vốn cổ phần của các Associated companies .
Trong xã hội công nghiệp, các tập đoàn kinh tế nắm giữ phần lớn nguồn lực sản xuất của mỗi quốc gia, là
trái tim của hệ thống kinh tế . Sự phát triển của các tập đoàn kinh tế và cách ứng xử của nó có ảnh hưởng to lớn
đến hệ thống kinh tế, không phải chỉ trong phạm vi một quốc gia mà còn trong phạm vi quốc tế .
1.2– Các hình thức hình thành tập đoàn kinh tế :
Tăng trưởng là một mục tiêu quan trọng của mỗi doanh nghiệp. Sự tăng trưởng được biểu hiện bởi việc phát
triển quy mô sản xuất hoặc việc điều chỉnh kết cấu, chuyển dịch ngành nghề hoạt động của doanh nghiệp. Tăng
trưởng bằng cách tự tạo doanh nghiệp mới đòi hỏi phải mất rất nhiều thời gian và công sức để mua thêm máy
móc, xây dựng nhà xưởng, đào tạo công nhân kỹ thuật, tìm thêm thị trường tiêu thụ sản phẩm…, vì vậy là một
tiến trình rất bấp bênh, lợi nhuận thấp và khó thành công. Sau nhiều cuộc nghiên cưú khác nhau, Edwin
Mansfield thuộc Trường Đại học Pennsylvania đã đưa ra kết luận : chỉ có từ 12% đến 20 % công ty tự tạo doanh
nghiệp mới dựa vào nghiên cứu và phát triển là thực sự thành công trong lợi nhuận kinh tế [14, 230 ].
Hình thức tự tạo doanh nghiệp mới thường chỉ phù hợp trong điều kiện ngành mới là kết quả của những
phát minh sáng tạo, chu kỳ sống của sản phẩm đang trong giai đoạn phôi thai hoặc tăng trưởng. Khuynh hướng
của các nền kinh tế công nghiệp là các công ty ngày càng lớn bằng cách sát nhập, hợp nhất, mua lại các công ty
nhỏ. Đây là cách làm hiệu quả và tốn ít thời gian nhất, cũng là thông lệ trưởng thành tư bản quốc tế trong giai
đoạn ngày nay.



Dựa vào những điểm khác biệt về kỹ thuật giao dịch , người ta phân biệt các hình thức hình thành tập

đoàn kinh tế , như sau :
1.2.1 – Sát nhập :
4


Là một hình thức giao dịch, trong đó một doanh nghiệp nhận được toàn bộ tài sản và các khoản nợ của một
doanh nghiệp khác với một giá phải trả nhất định . Doanh nghiệp bán không còn tồn tại với tư cách pháp nhân
riêng rẽ mà sử dụng pháp nhân của doanh nghiệp mua để hoạt động. Doanh nghiệp mua phải trả cho chủ sở
hữu của doanh nghiệp bán giá mua bằng tiền mặt hoặc bằng chứng khoán của chính doanh nghiệp mua .
Hình thức này thường xảy ra giữa một bên bán là doanh nghiệp nhỏ hơn, yếu thế hơn trong thị trường và
việc sát nhập vào doanh nghiệp mua sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho hoạt động của cả hai bên .
1.2.2 – Hợp nhất :
Là sự sát nhập hai hay nhiều doanh nghiệp có sức mạnh tương đương nhau để hình thành một doanh
nghiệp mới nhằm làm tăng khả năng tạo lợi nhuận do giảm chi phí quản lý, tăng hiệu năng trong sản xuất nhờ
lợi thế sản xuất quy mô lớn, xóa bỏ cạnh tranh và đa dạng hóa sản phẩm . Theo cách này, các doanh nghiệp hợp
nhất không còn tồn tại với tư cách pháp nhân của nó nữa, doanh nghiệp mới thành lập sẽ hoạt động với tư cách
pháp nhân hoàn toàn mới để thực hiện những hoạt động của các doanh nghiệp hợp nhất.
1.2.3 – Mua lại :
Là một hình thức giao dịch phổ biến trong nền kinh tế thị trường . Việc mua lại nói chung cũng dựa trên căn
bản sự sát nhập hay hợp nhất các doanh nghiệp. Trong đó, doanh nghiệp mua có thể mua toàn bộ hay một phần
quyền sở hữu doanh nghiệp bán thông qua hai hình thức sau :


Mua lại cổ phần : Doanh nghiệp mua mua lại cổ phần của doanh nghiệp bán trực tiếp từ cổ đông của

doanh nghiệp bán. Việc mua bán này không phụ thuộc vào sự đồng ý hay không của ban lãnh đạo doanh
nghiệp bán và thường khó có thể mua lại toàn bộ số cổ phần của doanh nghiệp bán.Vì vậy, thường khó dẫn đến

sự sát nhập hoặc hợp nhất hoàn toàn, doanh nghiệp bán vẫn hoạt động với tư cách pháp nhân của một công ty
riêng biệt. Quyền lợi của doanh nghiệp mua lúc này là quyền lợi của nhà đầu tư.
Sự kiểm soát và quyền lợi của doanh nghiệp mua đối với doanh nghiệp bán phụ thuộc vào tỷ lệ giữa số cổ
phần mà họ mua được trên số cổ phần của doanh nghiệp bán. Trường hợp tỷ lệ này trên mức 50% thì quan hệ
giữa hai doanh nghiệp trở thành quan hệ của công ty mẹ – công ty con .


Mua lại tài sản : Doanh nghiệp mua mua lại tài sản của doanh nghiệp bán trực tiếp từ doanh nghiệp

bán. Với hình thức này, doanh nghiệp mua không cần thiết phải đánh giá các khoản nợ của doanh nghiệp bán,
vì họ không có trách nhiệm gì đối với các khoản nợ ấy.
Nhiều trường hợp, do không còn tài sản để hoạt động, doanh nghiệp bán phải tự giải tán, sau khi phân phối
số tiền ( hoặc cổ phiếu ) nhận được từ doanh nghiệp mua cho cổ đông của nó.


Dựa vào phương thức liên kết , người ta phân biệt các hình thức hình thành tập đoàn kinh tế, như sau :
1.2.4 – Liên kết theo hàng dọc :

5


Là trường hợp các doanh nghiệp mua lại các doanh nghiệp khác trong cùng một lónh vực hoạt động, nhưng
sản xuất ra các sản phẩm ở các công đoạn khác nhau. Quan hệ giữa các doanh nghiệp thành viên chủ yếu là
theo quy trình công nghệ và cung ứng sản phẩm cho nhau. Sự liên kết dọc thường dẫn đến phát triển ngành
nghề theo chiều sâu. Liên kết dọc còn tạo điều kiện để các tập đoàn kinh tế củng cố vị thế cạnh tranh của hoạt
động chính, quản trị chất lượng tốt hơn, bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp hữu hiệu hơn .Ví dụ như : sự kết hợp
của các công ty khai thác dầu, lọc dầu và phân phối sản phẩm trong ngành công nghiệp dầu mỏ . Gần đây nhất,
việc hợp nhất hai tập đoàn khổng lồ trong lónh vực truyền thông của Mỹ là Công ty America Online - công ty
dịch vụ mạng và Time Warner - công ty báo chí truyền thông, trong đó America Online bỏ ra 162 tỷ USD để
mua lại Time Warner, sẽ cho phép mỗi loại hình tận dụng được sức mạnh của loại hình kia và kết quả là làm

tăng thêm khả năng thành công nhờ vào lượng khách hàng đông, nội dung thông tin hấp dẫn và các phương thức
truyền tải thông tin tốt.[19, 42-43 ]
1.2.5 – Liên kết theo hàng ngang :
Là sự kết hợp của những doanh nghiệp hoạt động trong cùng một ngành sản xuất kinh doanh . Sự kết hợp
này thường xảy ra trong những ngành có mức độ cạnh tranh cao và xu hướng chung là những doanh nghiệp có
ưu thế sẽ nắm vai trò chủ đạo. Các nhà sản xuất thỏa hiệp với nhau để ấn định giá cả, chia xẻ thị trường hoặc
định mức sản lượng để hạn chế cạnh tranh và tăng lợi nhuận. Ở mức độ cao hơn, các doanh nghiệp có ưu thế sẽ
bỏ tiền ra mua lại một phần hoặc toàn bộ doanh nghiệp khác đang là đối thủ cạnh tranh của nó.
Sự kết hợp này đặc biệt phổ biến trong thời kỳ suy thoái của những năm 1920-1930. Ví dụ như tại Đức, sự
kết hợp nhiều công ty thép đã thành lập liên hợp Ruhrstahl và ba công ty hoá chất lớn nhất thế giới thời đó là
Bayer, Basf, Hoechst đã sát nhập thành một công ty mẹ gọi là I.G.Farben [16, 28 ]. Mới đây, việc hợp nhất hai
tập đoàn dược phẩm Anh là Glaxo Wellcome và SmithKline Beecham để hình thành một tập đoàn dược phẩm
lớn nhất thế giới là Glaxo SmithKline có giá trị thị trường lên tới 177 tỷ USD [19, 08 ]
1.2.6 – Liên kết theo phương thức liên ngành :
Là một dạng kết hợp giữa các doanh nghiệp không cùng hoạt động trong một lónh vực kinh doanh,
không cạnh tranh với nhau mà cũng không có mối liên hệ với nhau về quy trình sản xuất hay cung ứng sản
phẩm. Đây là một hình thức kết hợp phong phú, phổ biến trong thời đại ngày nay nhằm đa dạng hóa ngành
nghề , hạn chế rủi ro. Chúng ta có thể tìm thấy hình thức liên kết này trong nhiều tập đoàn lớn ở nhiều nước . Ví
dụ như Tập đoàn Hyundai của Hàn Quốc, từ một xí nghiệp lấy ngành xây dựng là chính, tập đoàn này đã nhanh
chóng phát triển thành một tập đoàn kinh tế lớn hoạt động trong nhiều lónh vực ngành nghề khác nhau như đóng
tàu, sản xuất xe hơi, điện tử …[5, 26-35 ]
1.3– Nguyên nhân hình thành các tập đoàn kinh tế :

6


Đứng trên góc độ của chủ sở hữu, sự tập trung hóa bằng cách sát nhập, hợp nhất hoặc mua lại một doanh
nghiệp có những nguyên nhân cụ thể sau đây :
1.3.1 – Liên kết để tồn tại và tăng trưởng :
Chính sự thay đổi thường xuyên các phương pháp sản xuất, nhu cầu hoàn thiện sản xuất và mở rộng quy

mô sản xuất để duy trì sự tồn tại của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường là nguyên nhân cơ bản tạo nên
sự kết hợp các doanh nghiệp. Hiệu quả kinh tế thu được từ các hoạt động mua lại hay sát nhập để phát triển sản
xuất chủ yếu xuất phát từ lợi thế của sản xuất quy mô lớn. Khi quy mô sản xuất phát triển, sự hoạt động phối
hợp sẽ đem lại hiệu ứng cộng hưởng làm cho hiệu quả sản xuất toàn bộ lớn hơn hiệu quả riêng rẽ của từng
công ty. Điều này đúng cho sự liên kết theo hàng ngang , theo hàng dọc và cho cả sự liên kết theo phương
thức liên ngành :


Trong những ngành kinh doanh mà thị trường sản phẩm do các doanh nghiệp sản xuất ra đã gần như

được thỏa mãn thì sự mua lại hay sát nhập theo hàng ngang sẽ làm cho thế và lực của công ty sau khi hợp nhất
mạnh hơn trong cạnh tranh. Sức mạnh được tạo ra bởi sự khống chế giá cả thị trường và sự hợp lý hoá sản lượng
cung ứng. Sự kết hợp này còn tạo nên những bước phát triển mạnh mẽ về kỹ thuật và phương thức phục vụ
khách hàng, đồng thời mang lại cho các công ty nhiều lợi ích nhờ tiết kiệm chi phí nghiên cứu , phát triển và các
chi phí khác.


Sự kết hợp theo hàng dọc trước hết tạo điều kiện để hợp lý hoá quy trình công nghệ, giảm chi phí sản

xuất, đặc biệt là chi phí quản lý công ty. Ngoài ra, nhu cầu về hợp lý hoá cung ứng hàng hóa, nguyên vật liệu
cũng được bảo đảm, làm giảm chi phí do giảm nguyên liệu và thành phẩm tồn kho.


Đối với các công ty hoạt động đa ngành, mục tiêu của việc liên kết là điều chỉnh sự cân đối trên danh

mục vốn đầu tư của họ. Bằng cách tham gia vào một số lónh vực kinh doanh mới, các công ty mong muốn có
thêm những hoạt động tiềm năng, hoạt động sinh lợi cao, cắt giảm bớt những ngành nghề hiệu quả kém. Những
trường hợp mua lại một doanh nghiệp đang có hoạt động ổn định hoặc đang dẫn đầu ngành là cách tốt nhất để
tranh thủ thời gian chiếm lónh thị trường và tạo ra lợi nhuận . Trong nhiều trường hợp khác, các doanh nghiệp áp
dụng phương thức bỏ ra một lượng vốn tương đối nhỏ để tiếp thu những doanh nghiệp đang ở trong tình trạng

kinh doanh thua lỗ. Sau đó, lợi dụng nhân tài, thị trường, tin tức … và với ưu thế quản lý của chính mình, công ty
mua cải tạo triệt để công ty vừa tiếp quản làm cho nó hoạt động tốt lên, tiến tới giảm lỗ, tăng lợi nhuận và mở
rộng kinh doanh. Những ví dụ thành công trong việc mua lại các công ty khác theo kiểu này là Tập đoàn
Daewoo của Hàn Quốc và Tập đoàn Hanson Trust PLC của Anh .
1.3.2 – Liên kết để gia tăng lợi ích về tài chính :
Khi sát nhập hoặc mua lại một công ty, về cơ bản doanh nghiệp có thể tạo ra những lợi ích về tài chính như
sau :
7




Giảm thuế, là trường hợp doanh nghiệp mua lại một công ty đang thua lỗ. Do thua lỗ công ty bán

không thể khấu trừ lỗ vào thuế , nhưng khoản lỗ của công ty bán được cho phép trừ vào lợi nhuận của nó trong
năm tiếp theo và ngẫu nhiên phần lợi nhuận do giảm thuế sẽ thuộc về công ty mua.


Giảm chi phí phát hành chứng khoán mới do quy mô phát hành của công ty sau khi sát nhập tăng lên .



Tăng khả năng huy động vốn và giảm chi phí sử dụng vốn vay. Sau khi sát nhập hay mua lại công ty

khác, uy tín tín dụng của công ty được nâng lên, công ty có khả năng vay mượn nợ nhiều hơn và do đó khoản
tiết kiệm thuế thu nhập do tăng chi phí trả lãi vay mang lại lợi nhuận cho công ty.
1.3.3 – Liên kết do xu thế toàn cầu hóa :
Thị trường tiêu thụ sản phẩm và nguồn lực sản xuất trong phạm vi một quốc gia ngày nay đã trở thành
quá nhỏ bé đối với các công ty lớn, vì vậy phát sinh nhu cầu quốc tế hoá và toàn cầu hóa. Các công ty đa quốc
gia mở rộng hoạt động bằng cách xây dựng các chi nhánh, liên kết với các công ty khác ở nước ngoài tạo thành

những công ty liên doanh, liên kết . Sự liên kết này kết hợp khoa học – công nghệ hiện đại với những nguồn tài
nguyên thiên nhiên, nguồn vốn và lao động dồi dào ở những nước khác nhau, đó thường là sự kết hợp hàng dọc.
Còn giữa các công ty ở những nước khác nhau hoạt động cùng một lónh vực thì sự kết hợp này là do kết hợp
thương quyền khai thác trên lãnh thổ của mỗi nước và do chia xẻ thị trường để cùng tồn tại và tăng trưởng.
Quá trình sát nhập, hợp nhất, mua lại giữa các công ty của các nước khác nhau cũng theo xu thế toàn cầu
hoá ấy mà hình thành. Ví dụ như Thomson (Pháp) mua lại cơ sở sản xuất TV của General Electrics (Mỹ)[14,
392}; Công ty Sanyo (Nhật) mua lại Công ty Warwick Electronics (Mỹ)[14, 427]; mới đây, hãng xe hơi
Renault (Pháp) mua lại Samsung Motors (Hàn Quốc)[21, 09]
1.4 – Một số mô hình tập đoàn kinh tế ở các nước trên thế giới :
1.4.1 – Xét về kết cấu ngành nghề :


Các công ty đơn ngành chuyên tâm hoạt động trong một ngành kinh doanh duy nhất . Ví dụ như

Công ty chuyên doanh phần mềm khổng lồ Microsoft , Công ty Holiday Inns chuyên doanh ngành khách sạn
của Mỹ; Công ty Japex của Nhật Bản chuyên doanh thăm dò dầu khí …


Các công ty đa ngành tham gia vào nhiều lónh vực kinh doanh khác nhau. Đây là trường hợp phổ biến

hiện nay. Các tập đoàn kiểu này hình thành do nhu cầu đa dạng hoá hoạt động và hội nhập để tồn tại, phát triển
trong điều kiện kinh tế thị trường . Ví dụ như hầu hết các tập đoàn kinh tế lớn của Hàn quốc ( Hyundai,
Daewoo, Samsung …), Nhật Bản (Matoushita, Mitsubishi…), …
1.4.2 – Xét về cơ chế quản lý tài chính :


Các tập đoàn kinh tế , trong đó các công ty mẹ là những nhà tài phiệt nắm giữ ít nhất một thành viên là

ngân hàng lớn cung ứng tài chính cho các công ty con. Ngân hàng giữ vai trò thủ quỹ, tìm nguồn tài trợ ngắn hạn
cho vốn lưu động. Nguồn vốn lấy từ tiền ký gửi vào ngân hàng, vay Ngân hàng Trung ương hay vay của các

8


ngân hàng khác thông qua thị trường tiền tệ. Hình thức này thường thấy nhất ở Mỹ. Ở Nhật Bản hình thức này
phổ biến trong những năm trước Thế chiến thứ 2 , gọi là các Zaibatsu, sau Thế chiến thứ 2 các Zaibatsu bị giải
tán để thay thế bằng những tổ chứcù lỏng lẻo hơn, ví dụ như Mitsubishi.


Các tập đoàn kinh tế gồm công ty mẹ và các công ty con mà chúng không liên quan với nhau trong các

hoạt động và thị trường, gọi là các Conglomerate. Các Conglomerate thường được thành lập bằng cách sát nhập
hay thôn tính với mục đích giảm rủi ro thông qua việc kết hợp các doanh nghiệp thành một nhóm. Các công ty
mẹ không sản xuất gì cả, nhưng là tổ chức bao trùm nắm toàn bộ hay phần lớn cổ phần của các công ty con,
nắm cả quyền quyết định chiến lược kinh doanh . Còn các công ty con thì được giao quyền độc lập kiểm soát
sản xuất. Một số Conglomerate ra đời do tài năng của các nhà doanh nghiệp trong việc tiếp quản các doanh
nghiệp đang hoạt động kém hiệu quả. Các tập đoàn kiểu này là : Hanson Trust PLC ở Anh; , Hitachi ở Nhật
Bản; Hyundai, Daewoo ở Hàn Quốc…


Các tập đoàn kinh tế, trong đó công ty mẹ là công ty sản xuất một hoặc một số ngành nghề chủ đạo,

nắm quyền sở hữu khống chế một số công ty phụ thuộc , đồng thời tham dự vốn vào nhiều công ty độc lập khác
. Hình thức này phổ biến ở nhiều nước. Các ví dụ về tập đoàn theo mô hình này là :
-

Tập đoàn Hàng không Singapore ( Singapore Airlines Limited , viết tắt là SIA ) với hãng hàng không

Singapore Airlines ( viết tắt là SQ) là công ty mẹ, nắm quyền sở hữu khống chế các công ty con là SIA
Engineering Company, Singapore Airport Terminal Services, Silk Air vaø Singapore Flying College. Ngoài ra
SIA còn có Singapore Properties ( quản lý vốn góp của SIA vào các công ty khác ) [ 27, 41-45 ].

-

Tập đoàn Matsoushita, có tới trên 700 công ty có quan hệ , nhưng chỉ có 70 xí nghiệp phụ thuộc tạo

thành bộ phận cơ sở của tập đoàn này, trong đó 17 xí nghiệp làm nhiệm vụ sản xuất và tiêu thụ, một xí nghiệp
làm nhiệm vụ xuất nhập khẩu và 52 xí nghiệp còn lại làm nhiệm vụ là công ty con chuyên tiêu thụ sản phẩm
của Tập đoàn Matsoushita [5, 90 ]


Các tập đoàn kinh tế , trong đó công ty mẹ là công ty sản xuất một hoặc một số ngành nghề chủ đạo và

phát triển ngành nghề theo hướng tạo ra các công ty vệ tinh thực hiện một số chức năng hỗ trợ cho ngành nghề
chủ đạo. Các công ty con phụ thuộc hoàn toàn vào công ty mẹ về quyền sở hữu tư liệu sản xuất và tất nhiên là
cũng do công ty mẹ quản lý hoàn toàn về hoạt động sản xuất kinh doanh. Đó thường là các công ty đơn ngành,
ví dụ như Sony, Toyota ở Nhật, Ford Motor Company ở Mỹ, Thomson ở Pháp, …
Ngoài ra, nhu cầu liên kết để tăng trưởng còn tạo nên các liên minh gọi là các Alliance, Cartel ( không phải
là tập đoàn kinh tế ) . Trong đó, các công ty thành viên tham gia liên minh với tính cách độc lập cả về hoạt động
sản xuất kinh doanh và về quyền sở hữu tư liệu sản xuất . Các công ty thành viên thường là những doanh nghiệp
hoạt động cùng ngành, chỉ quan hệ kết ước với nhau về giá cả, thị trường và quy mô sản xuất. Quy mô của các
liên minh kiểu này ngày nay mở rộng không chỉ trong phạm vi một quốc gia mà còn liên kết giữa nhiều quốc
9


gia trên thế giới . Ví dụ như : OPEC – Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ – được thành lập trong những năm
1970; liên minh giữa British Airways và American Airlines gây dựng nên Oneworld [23, 10 ]
2 - Mô hình tổng công ty ở Việt Nam :
2.1 – Khái niệm về tổng công ty:
Cho đến nay, trong hệ thống pháp luật của Nhà nước Việt Nam, khái niệm tổng công ty chỉ được áp dụng
cho các doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác thì có : công ty trách
nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân . Từ năm 1999 trở về trước, các

loại hình doanh nghiệp không thuộc thành phần kinh tế nhà nước hoạt động theo Luật công ty, Luật đầu tư nước
ngoài , Luật khuyến khích đầu tư trong nước. Từ ngày 01/01/2000 hoạt động của các loại hình doanh nghiệp
này do Luật doanh nghiệp điều chỉnh .
Tại Điều 43 và Điều 44 Chương VI của Luật doanh nghiệp nhà nước được Quốc hội thông qua ngày
20/4/1995, Khái niệm tổng công ty nhà nước được xác định như sau :
Điều 43 :
1 – Tổng công ty nhà nước là doanh nghiệp nhà nước có Hội đồng quản trị. Tổng công ty nhà nước được thành
lập và hoạt động trên cơ sở liên kết của nhiều đơn vị thành viên có mối quan hệ gắn bó với nhau về lợi ích kinh
tế, công nghệ, cung ứng, tiêu thụ, dịch vụ, thông tin, đào tạo, nghiên cứu, tiếp thị, hoạt động trong một hoặc một
số chuyên ngành kinh tế – kỹ thuật chính, nhằm tăng cường khả năng kinh doanh của các đơn vị thành viên và
thực hiện các nhiệm vụ của chiến lược phát triển kinh tế – xã hội trong từng thời kỳ .
2 – Tổng công ty nhà nước là tổ chức kinh doanh có tư cách pháp nhân, có con dấu, có tài sản và có các quỹ tập
trung theo quy định của Chính phủ, được Nhà nước giao quản lý vốn, tài nguyên, đất đai, và các nguồn lực khác,
có trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực được giao, thực hiện quyền và
nghóa vụ của doanh nghiệp nhà nước như quy định tại Chương II của Luật này.
3 – Tùy theo mô hình và vị trí quan trọng, tổng công ty nhà nước có hoặc không có công ty tài chính là doanh
nghiệp thành viên.
Điều 44 :
1 – Tổng công ty nhà nước có thể có các loại đơn vị thành viên sau đây :
a) Đơn vị hạch toán độc lập;
b) Đơn vị hạch toán phụ thuộc ;
c) Đơn vị sự nghiệp ;
2 – Đơn vị thành viên của tổng công ty nhà nước có con dấu, được mở tài khoản tại ngân hàng phù hợp với
phương thức hạch toán của tổng công ty nhà nước. Đơn vị thành viên hạch toán độc lập có điều lệ riêng do Hội
đồng quản trị tổng công ty phê chuẩn phù hợp với các quy định của Luật này và điều lệ tổng công ty nhà nước .
10


3 – Chế độ tài chính và hạch toán của tổng công ty nhà nước do Chính phủ quy định. [15, 102-103 ]
2.2 – Cơ sở pháp lý hình thành mô hình tổng công ty ở Việt Nam

Luật doanh nghiệp nhà nước được ban hành năm 1995 nhằm phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế quốc
doanh, tạo hành lang pháp lý vững chắc cho tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp nhà nước. Năm 1996,
Chính phủ tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới thông qua việc ban hành Nghị định 59/CP ngày 03/10/1996 để
đổi mới về cơ bản cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp nhà nước, nâng cao hơn nữa quyền tự chủ tài chính gắn
liền với trách nhiệm của doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh và trong việc sử dụng vốn và tài sản của Nhà
nước ; đồng thời đảm bảo sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ của các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền trong
công tác quản lý tài chính doanh nghiệp nhà nước.
Bên cạnh yêu cầu thiết lập hành lang pháp lý vững chắc để các doanh nghiệp phát triển, quá trình đổi mới
và hoàn thiện sự tác động của Nhà nước nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đòi hỏi Nhà nước phải tổ chức sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước. Một trong những giải pháp nhằm
tăng cường sức mạnh kinh tế, tài chính của thành phần kinh tế nhà nước là tập trung hóa, hiện đại hoá hệ thống
doanh nghiệp nhà nước. Vì vậy, ngày 07/3/1994, Chính phủ đã ban hành Quyết định 90/TTg về việc đăng ký
lại các liên hiệp xí nghiệp, các tổng công ty và các công ty lớn ; Quyết định 91/TTg về việc thí điểm thành lập
các tập đoàn kinh tế ở một số Bộ quản lý ngành kinh tế kỹ thuật.
2.3 – Phân loại tổng công ty ở Việt Nam:
2.3.1 – Căn cứ chức năng và nội dung hoạt động của doanh nghiệp :


Tổng công ty hoạt động kinh doanh :

Là loại tổng công ty nhà nước hoạt động nhằm mục tiêu lợi nhuận, do vậy phải đảm bảo sử dụng có hiệu
quả, bảo toàn và phát triển vốn cùng các nguồn lực khác do Nhà nước giao, bao gồm cả phần vốn đầu tư vào
các doanh nghiệp khác. Tổng công ty kinh doanh có quyền tổ chức, quản lý hoạt động kinh doanh sao cho đạt
hiệu quả cao nhất, nhằm mục tiêu lấy thu bù chi và có lãi, đồng thời thực hiện được những nhiệm vụ đặc biệt mà
Nhà nước giao phó . Tổng công ty kinh doanh được quyền đổi mới công nghệ, trang thiết bị; đặt chi nhánh ở
trong nước và ở nước ngoài theo quy định của Chính phủ ; mở rộng quy mô kinh doanh theo khả năng của tổng
công ty và nhu cầu của thị trường ; kinh doanh bổ sung những ngành nghề khác được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền cho phép.



Tổng công ty hoạt động công ích :

Là loại tổng công ty có nghóa vụ sử dụng vốn, kinh phí, các nguồn lực khác do Nhà nước giao để cung cấp
các sản phẩm hoặc dịch vụ công ích cho các đối tượng theo khung giá hoặc phí do Chính phủ quy định . Các
tổng công ty hoạt động công ích không nhằm mục tiêu lợi nhuận mà quan trọng là sự tác động về mặt xã hội.

11


Loại tổng công ty này thường tham gia vào các hoạt động ít mang lại lợi nhuận như trực tiếp thực hiện nhiệm
vụ quốc phòng, an ninh hoặc sản xuất sản phẩm dịch vụ công cộng … và thường được Nhà nước trợ vốn.
2.3.2 – Căn cứ theo quy mô của doanh nghiệp :
− Tổng công ty 91 :
Là loại hình tổng công ty được thành lập theo Quyết định 91/TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày
07/3/1994 về việc thí điểm thành lập tập đoàn kinh doanh . Tổng công ty 91 trực thuộc Chính phủ, phải có 7
doanh nghiệp thành viên trở lên và có vốn pháp định ít nhất 1.000 tỷ đồng . Từ năm 1994 đến nay đã có 17 tổng
công ty thuộc loại hình này ra đời trên cơ sở những công ty lớn của những ngành có vị trí quan trọng trong nền
kinh tế quốc dân, đảm bảo những yêu cầu cần thiết cho thị trường trong nước và có triển vọng mở rộng kinh
doanh ra nước ngoài.


Tổng công ty 90 :

Là loại hình tổng công ty được thành lập theo Quyết định 90/TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 07/3/1994
về việc tiếp tục sắp xếp doanh nghiệp nhà nước. Tổng công ty 90 trực thuộc các Bộ và Ủy ban nhân dân cấp
Tỉnh, phải có ít nhất 5 doanh nghiệp thành viên quan hệ với nhau về công nghệ, tài chính, chương trình đầu tư
phát triển, dịch vụ cung ứng, vận chuyển, tiêu thụ, thông tin, đào tạo và phải có vốn pháp định trên 500 tỷ đồng
(riêng những ngành đặc thù có thể ít hơn, nhưng không dưới 100 tỷ đồng) . Từ năm 1994 đến nay, đã có 74 tổng
công ty 90 được thành lập.
2.4 - Vị thế tổng công ty trong hệ thống doanh nghiệp nhà nước:

Theo Ban Đổi mới quản lý doanh nghiệp Trung ương , vị thế của các tổng công ty trong hệ thống doanh
nghiệp nhà nước có thể được mô tả như sau :[20, 13-14 ]

2.5 – Đặc trưng của mô hình tổng công ty ở Việt Nam:
100%

DNNN khac

90%

TCT 90

80%
70%

TCT 91

• VON : Vốn
• DT: Doanh thu
• LNTT: Lợi nhuận trước
thuế
• NNS: Nộp ngân sách
• SLLD: Số lượng lao động

60%
50%
40%
30%
20%
10%

0%
VON

DT

LNTT

NNS

2.5.1 – Quan hệ sở hữu vốn :
12

SLLD


Cho đến cuối năm 1999, ở Việt Nam mới chỉ có mô hình tập đoàn kinh tế với một hình thức sở hữu là sở
hữu nhà nước, đó là các tổng công ty 91. Quy mô vốn của các tổng công ty đều còn quá nhỏ bé so với các tập
đoàn kinh tế trên thế giới, chỉ có một chủ sở hữu nhưng lại có nhiều đại diện ( Bộ Tài chính, Chủ tịch Hội đồng
quản trị), chức năng quản lý của các đại diện và chức năng điều hành của các Tổng giám đốc, Giám đốc đơn vị
thành viên lại không được xác định rõ ràng. Vì vậy, không ai có thực quyền quyết định và chịu trách nhiệm đối
với sự thành công hay thất bại của tổng công ty.
2.5.2 – Quản lý sử dụng và bảo toàn vốn :
Vốn của các tổng công ty là tổng số vốn trên sổ sách của các thành viên gộp lại. Từ khi được thành lập ,
ngoại trừ phần tài sản đưa vào liên doanh và góp vốn cổ phần, các tổng công ty chưa được phép đánh giá lại tài
sản, nên việc xác định hiệu quả sử dụng và bảo toàn vốn chưa đúng với thực tế.
Trong số 17 tổng công ty 91 và 74 tổng công ty 90, mới chỉ có 4 tổng công ty có thành viên là công ty tài
chính được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cấp giấy phép hoạt động, nhưng các công ty này làm ăn chưa thực
sự hiệu quả. Đó là Tổng công ty Dệt may Việt Nam, Tổng công ty Cao su Việt Nam, Tổng công ty Bưu chính
viễn thông Việt Nam và Tổng công ty Tàu thủy Việt Nam [21, 04 ].
2.5.3 –Vai trò của tổng công ty đối với các đơn vị thành viên :

Theo Luật doanh nghiệp nhà nước, chưa có hình thức công ty mẹ-công ty con. Các tổng công ty chủ yếu
được thành lập bởi quyết định hành chính, theo kiểu gom một số đơn vị thành viên hạch toán độc lập và đơn vị
thành viên hạch toán phụ thuộc có liên quan về ngành nghề hoặc vùng lãnh thổ. Cho đến nay, các tổng công ty
91 chưa được tổ chức lại một cách tổng thể và cơ bản theo mô hình tập đoàn kinh tế, chưa quản lý các đơn vị
thành viên bằng quan hệ tài chính . Vì vậy, chưa thực hiện được quyền huy động và điều phối vốn cho sự phát
triển theo định hướng chiến lược chung của toàn tổng công ty.

13


Kết luận Chương 1 :
Tất cả các nền kinh tế công nghiệp phát triển đều phải trải qua quá trình tích tụ và tập trung tư bản, khuynh
hướng chung của quá trình này là các công ty ngày càng lớn bằng cách sát nhập, hợp nhất, mua lại các công ty
nhỏ . Các tập đoàn kinh tế hình thành đã phát huy thế mạnh của sản xuất quy mô lớn, một mặt đẩy mạnh sự
phát triển của nền kinh tế công nghiệp đồng thời gia tăng quyền lực của bản thân các doanh nghiệp lớn , mặt
khác tạo ra những lực lượng đối lập làm sút giảm quyền năng của nó . Đó là sự can thiệp của Nhà nước chống
lại độc quyền, là sự tập hợp giai cấp công nhân vào tổ chức công đoàn và sự xuất hiện không ngừng những
doanh nghiệp nhỏ tham gia vào cạnh tranh.
Nói chung, sự chuyển dịch cơ cấu vốn, quyền sở hữu và tất nhiên là quyền kiểm soát của các tập đoàn trên
thế giới là quá trình biến đổi không ngừng. Các hình thức tổ chức mô hình quản lý của các tập đoàn kinh tế trong
quá trình đó cũng luôn thay đổi và hoàn thiện theo hướng tập trung hoá , toàn cầu hóa nhằm mục tiêu nâng cao
giá trị của tập đoàn, đa dạng hóa ngành nghề và tận dụng ưu thế sản xuất quy mô lớn để tăng khả năng cạnh
tranh và tăng lợi nhuận.
Đối với Việt Nam, quá trình chuyển dịch kinh tế theo yêu cầu của kinh tế thị trường và yêu cầu của công
cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đòi hỏi phải có sự hợp tác giữa Nhà nước (cụ thể là các doanh
nghiệp nhà nước) và các nhà đầu tư tư nhân (trong và ngoài nước). Sự hợp tác này hình thành kinh tế tư bản
nhà nước . Đó là một quá trình xã hội hóa sản xuất chủ yếu có tính quy luật . Cũng như các mô hình tập đoàn
kinh tế ở các nước trên thế giới, mô hình tập đoàn kinh tế và tổng công ty ở Việt Nam là kết quả của quá trình
tích tụ và tập trung tư bản, nhưng nó có những đặc trưng riêng biệt : cho đến nay, các tổng công ty vẫn là những
tổ chức kinh tế đơn sở hữu, được thành lập theo ý chí của các cơ quan quản lý nhà nước, chưa có thế mạnh về

vốn để đủ sức chi phối cũng như liên kết các doanh nghiệp thành viên. Vì vậy, mô hình tập đoàn kinh tế và
tổng công ty nhà nước ở Việt Nam vẫn còn nhiều nhược điểm cần phải được khắc phục . Cùng với sự lớn mạnh
của các nhà đầu tư trong nước, sự gia tăng các nhà đầu tư nước ngoài, sự đa dạng hóa sở hữu và sự cổ phần hoá
có hiệu quả cao của các doanh nghiệp nhà nước, hệ thống pháp luật về quản lý doanh nghiệp và các văn bản
dưới luật có liên quan cần phải được sửa đổi bổ sung cho phù hợp. Sự ra đời Luật doanh nghiệp là một giải pháp
có tính pháp lý, nhằm mở ra một khả năng mới để tiến hành đa dạng hóa sở hữu và hợp tác kinh doanh giữa các
thành phần kinh tế.
Phân tích những thành tựu đã đạt được và những tồn tại cần phải khắc phục trong công tác quản lý tài chính
của TCT HKVN, một tổng công ty 91 điển hình, chúng ta thấy rằng chính sách kinh tế vó mô của Nhà nước
đóng vai trò rất quan trọng, đồng thời bản thân các tổng công ty cũng phải tự hoàn thiện về mô hình tổ chức và
cơ chế quản lý để phát triển.

14


Chương 2 :
Thực trạng mô hình quản lý tài chính của TCT HKVN hiện nay
1– Giới thiệu về TCT HKVN:
1.1 - Lịch sử hình thành TCT HKVN:
Từ năm 1986, ngành hàng không Việt Nam thực hiện kinh doanh trong sự nghiệp đổi mới của Đảng và
Nhà nước. Trước những cơ hội và thách thức mới, TCT HKVN được thành lập ( lần thứ nhất ) theo Quyết định
số 225/CT ngày 22/8/1989 của Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng, hoạt động dưới hình thức đơn vị kinh tế quốc
doanh tổ chức theo điều lệ liên hiệp xí nghiệp, trực thuộc Tổng cục Hàng không dân dụng Việt Nam. Đây là
một bước chuyển biến quan trọng của quá trình tổ chức sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước, theo đó chức
năng quản lý nhà nước và chức năng kinh doanh của doanh nghiệp được phân tách riêng. Quá trình sắp xếp này
đã phải trải qua từng giai đoạn cùng với sự chuyển mình của thành phần kinh tế nhà nước nói riêng và nền kinh
tế thị trường mở cửa nói chung.
Bước chuyển biến tiếp theo là sự phân tách TCT HKVN ra thành các đơn vị thực hiện các chức năng,
nhiệm vụ riêng biệt, trực thuộc Tổng cục Hàng không dân dụng Việt Nam, như :



Hãng Hàng không Quốc gia Việt Nam (tên tiếng Anh là Vietnam Airlines , sau đây được viết tắt là

VN ), thành lập ngày 20/4/1993, làm nhiệm vụ kinh doanh vận tải hàng không ;
15




Các Cụm cảng hàng không sân bay, làm nhiệm vụ quản lý nhà nước tại các khu vực sân bay Bắc,

Trung, Nam ;


Trung tâm Quản lý bay Quốc gia, làm nhiệm vụ quản lý và điều hành các máy bay bay qua bầu trời

Việt Nam ;


Các công ty dịch vụ hoạt động kinh doanh ngoài dây chuyền vận tải hàng không (ủy thác xuất nhập

khẩu, kinh doanh xăng dầu, …).
Trong xu thế tập trung hoá và hiện đại hóa các doanh nghiệp nhà nước, TCT HKVN được thành lập ( lần
thứ hai ) theo Quyết định 328/TTg ngày 27/5/1995 của Thủ tướng Chính phủ. Với Hãng Hàng không Quốc gia
Việt Nam ( VN ) làm nòng cốt, Nhà nước đã tập hợp một số các đơn vị thành viên hạch toán độc lập, hoạt động
kinh doanh trong những lónh vực không thuộc dây chuyền vận tải hàng không, nhưng có quan hệ hợp tác hỗ trợ
cho hoạt động vận tải hàng không, công ty cổ phần vận tải hàng không , công ty bay dịch vụ phục vụ kinh tế
quốc dân và một đơn vị sự nghiệp hàng không để lập thành TCT HKVN. Sự liên kết này nhằm mục đích củng
cố về mặt tổ chức hoạt động của TCT HKVN với tư cách là một tập đoàn kinh doanh vận tải hàng không có quy
mô lớn của Nhà nước. Tuy nhiên, trong thời gian qua, hoạt động của TCT HKVN vẫn còn mang dáng dấp của

một liên hiệp xí nghiệp. Thực tế này biểu hiện trong cơ cấu tổ chức và cơ chế quản lý tài chính của TCT
HKVN.
1.2 - Cơ cấu tổ chức TCT HKVN:
TCT HKVN là một trong những đơn vị được thành lập theo Quyết định 91/TTg của Chính phủ , do Thủ
tướng Chính phủ trực tiếp chỉ đạo. Chịu sự quản lý của Cục Hàng không dân dụng Việt Nam ( sau đây được
viết tắt là Cục HKDDVN) về các mặt : chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển; quản lý khai thác
các đường hàng không, chính sách vận tải hàng không; các quy định về an toàn an ninh, khoa học –công nghệ
hàng không và môi trường…
TCT HKVN là doanh nghiệp hoạt động toàn cầu, lấy vận tải hàng không làm lónh vực kinh doanh cơ bản,
có hai tư cách của một hãng hàng không điển hình :


Là nhà vận chuyển được cấp thương quyền khai thác vận chuyển hàng không nội địa và quốc tế ( hành

khách, hàng hóa, bưu kiện )


Là nhà khai thác được cấp chứng chỉ khai thác và bảo dưỡng tàu bay.

TCT HKVN có Hội đồng quản trị là đại diện trực tiếp chủ sở hữu tại TCT ; có Ban Giám đốc điều hành,
đứng đầu là một Tổng giám đốc và các Phó Tổng giám đốc giúp việc. Chủ tịch Hội đồng quản trị không kiêm
Tổng giám đốc TCT.

16


Từ khi được thành lập cho đến nay, TCT HKVN gồm có : Khối hạch toán tập trung (sau đây được viết tắt là
khối HTTT), 7 đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc ( sau đây được viết tắt là đơn vị HTPT), 12 đơn vị hạch
toán độc lập ( sau đây được viết tắt là đơn vị HTĐL) và 1 đơn vị sự nghiệp ( sau đây được viết tắt là đơn vị SN).
1.2.1 - Khối hạch toán tập trung :

Vừa là các cơ quan tham mưu tổng hợp của TCT, vừa là bộ máy quản lý Hãng Hàng không Quốc gia Việt
Nam (VN).
1.2.2 - Bảy đơn vị hạch toán phụ thuộc :


Để hỗ trợ cho kinh doanh vận tải hàng không, TCT HKVN còn có các dịch vụ đồng bộ như : phục vụ

mặt đất tại sân bay cho các chuyến bay của TCT HKVN và các hãng hàng không nước ngoài ( phục vụ hành
khách, phục vụ hàng hóa tại ga, dịch vụ giao nhận hàng hóa, kinh doanh sản xuất bữa ăn trên máy bay, … ). Các
dịch vụ này do 3 Xí nghiệp Thương mại mặt đất Tân Sơn Nhất, Nội Bài, Đà Nẵng và Xí nghiệp Chế biến suất
ăn Nội Bài đảm nhiệm.


Các hoạt động bảo dưỡng máy bay do hai Xí nghiệp Sửa chữa máy bay A75 và A76 thực hiện, hiện tại

hai đơn vị này chỉ mới cung ứng một phần dịch vụ kỹ thuật cho chính VN. Tuy nhiên, sau khi nâng cấp, chuyển
giao công nghệ bảo dưỡng các loại máy bay Airbus 320 và Boing 767 (trong năm 1999-2000), các xí nghiệp
này sẽ đảm đương về cơ bản nhiệm vụ bảo dưỡng cho máy bay của VN, từng bước tiến đến bán dịch vụ cho các
hãng nước ngoài, đặc biệt là các hãng bay đến các sân bay Việt Nam.


Công ty Bay dịch vụ hàng không Việt Nam ( viết tắt là Vasco ) hoạt động trong các lónh vực chuyên

môn như : chụp ảnh hàng không, khảo sát địa chất, phục vụ ngành điện, lâm nghiệp, cứu thương, thuê chuyến
bằng trực thăng và máy bay cánh bằng …
1.2.3 - Mười hai đơn vị hạch toán độc lập :
Ngoài vận tải hàng không và các dịch vụ đồng bộ, TCT HKVN còn có 12 công ty hạch toán độc lập,
hoạt động kinh doanh trong nhiều lónh vực khác như : cung ứng xăng dầu cho máy bay; kinh doanh thương
nghiệp, ăn uống, taxi, bán hàng miễn thuế … tại 3 khu vực sân bay lớn; sản xuất các loại vật dụng bằng nhựa cao
cấp; xuất nhập khẩu vật tư, phụ tùng; kinh doanh dịch vụ in và sản xuất các loại giấy; khảo sát thiết kế; xây

dựng công trình hàng không; vận tải mặt đất; cung ứng lao động nghiệp vụ chuyên ngành hàng không.
Các dịch vụ này không thuộc dây chuyền vận tải hàng không, nhưng đều có liên quan và hỗ trợ nhiều cho
hoạt động vận tải hàng không. Bên cạnh việc kinh doanh thu lợi nhuận, các dịch vụ này đã là những hoạt động
không thể thiếu nhằm nâng cao chất lượng phục vụ hành khách, cung ứng các loại dịch vụ, nhiên liện, vật liệu …
cho hoạt động vận tải hàng không .
1.2.4 - Một đơn vị sự nghiệp :
Viện Khoa học hàng không đảm nhiệm chức năng nghiên cứu khoa học chuyên ngành hàng khoâng.
17


Ngoài ra, với mục đích tiếp thu dần khoa học – công nghệ tiên tiến trên thế giới, TCT HKVN đã tiến hành
liên doanh với các công ty nước ngoài kinh doanh một số hoạt động dịch vụ như : Công ty Sản xuất bữa ăn trên
máy bay VN/CX Tân Sơn Nhất ( liên doanh với Cathay Pacific – Hongkong ), Công ty TNHH Dịch vụ hàng
hoá Tân Sơn Nhất ( liên doanh với Singapore Airlines - Singapore), Công ty Giao nhận hàng hóa Vinako ( liên
doanh với Konoike Transportation Corporation - Nhật Bản ), Công ty Abacus Việt Nam ( liên doanh với
Abacus - Tổ chức quốc tế về hệ thống đặt chỗ tự động toàn cầu, bao gồm các thành viên là 167 hãng hàng
không và 169 khách sạn lớn trên thế giới).Công ty Khách sạn Hàng không Việt Nam - Vietnam Airlines Hotel (
liên doanh với S.M.I Travel Co.Ltd – Thái Lan )
TCT HKVN còn tham gia vốn vào các công ty cổ phần trong nước như Công ty cổ phần hàng không
Pacific Airlines, Ngân hàng Techcombank.
Cơ cấu tổ chức của TCT HKVN được mô tả bằng mô hình sau :
( Xin xem Phụ lục 1 – Cơ cấu tổ chức Tổng công ty HKVN)
2– Cơ chế quản lý tài chính của TCT HKVN :
Cơ chế quản lý tài chính của TCT HKVN được xây dựng trên cơ sở: Quy chế tài chính mẫu của tổng công
ty nhà nước ban hành kèm theo Quyết định 838 TC/QĐ/TCDN ngày 28/8/1996 của Bộ trưởng Bộ Tài chính,
Nghị định số 59/CP ngày 03/10/1996 của Chính phủ về việc ban hành Quy chế quản lý tài chính và hạch toán
kinh doanh đối với doanh nghiệp nhà nước, Quyết định thành lập TCT HKVN số 328/ TTg ngày 27/5/1996 của
Thủ tướng Chính phủ, Điều lệ tổ chức và hoạt động của TCT HKVN ban hành kèm theo Nghị định số 04/CP
ngày 27/10/1996 của Chính phủ
Quy chế tài chính của TCT HKVN đã được ban hành kèm theo Quyết định cố 349/HĐQT ngày 15/3/1997

của Chủ tịch Hội đồng quản trị. Ngoài những quy định phù hợp với các quy định chung về quản lý tài chính và
hạch toán kinh doanh trong Nghị định 59/CP và Quy chế tài chính mẫu, Quy chế này còn quy định một số nội
dung cụ thể áp dụng trong TCT, thể hiện sự phân cấp quản lý tài chính của TCT đối với các đơn vị thành viên
HTĐL và các đơn vị HTPT. Các nội dung này là sự cụ thể hóa các quy định trong Nghị định 59/CP và không
mâu thuẫn với các quy định trong Nghị định 59/CP. Theo đó , cơ chế quản lý tài chính của TCT HKVN như sau
:


TCT chịu sự kiểm tra, giám sát về mặt tài chính của Bộ Tài chính với tư cách là cơ quan quản lý nhà

nước và đại diện chủ sở hữu về vốn và tài sản nhà nước tại doanh nghiệp


Đơn vị thành viên chịu sự kiểm tra, giám sát của TCT theo nội dung đã quy định tại Điều lệ của TCT

và của Bộ Tài chính về các hoạt động tài chính, quản lý vốn và tài sản của Nhà nước.


TCT hạch toán tập trung đối với kinh doanh vận tải hàng không và hạch toán tổng hợp đối với toàn bộ

hoạt động sản xuất kinh doanh cuûa TCT.
18


2.1 - Quản lý sử dụng vốn và bảo toàn vốn :
2.1.1 – Trách nhiệm quản lý vốn :


Bộ Trưởng Bộ tài chính ký giao vốn cho TCT. Người ký nhận vốn là Chủ tịch Hội đồng quản trị và


Tổng giám đốc TCT.


Tổng giám đốc TCT giao vốn cho Giám đốc các đơn vị thành viên HTĐL và đơn vị SN theo phương

án sử dụng vốn được Hội đồng quản trị phê duyệt. Chậm nhất là 30 ngày sau khi nhận vốn của Nhà nước, TCT
phải tiến hành giao vốn cho các đơn vị thành viên.


TCT được quyền thay đổi cơ cấu vốn, tài sản phục vụ kinh doanh; điều hòa vốn nhà nước giữa các đơn

vị thành viên. Trong trường hợp này, Tổng giám đốc xây dựng phương án điều động, báo cáo Hội đồng quản trị
phê duyệt và ra quyết định điều động theo nguyên tắc ghi tăng, giảm vốn.
2.1.2- Đầu tư vốn vào các doanh nghiệp khác:


Trường hợp đầu tư vào các doanh nghiệp khác trong nước , Hội đồng quản trị phê duyệt phương án đầu

tư do Tổng giám đốc đề nghị. Trường hợp liên doanh với nước ngoài, Hội đồng quản trị báo cáo cơ quan quyết
định thành lập dự án liên doanh , trường hợp cơ quan này ủy quyền thì Hội đồng quản trị quyết định.


Theo quyết định của Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc có thể ủy quyền cho Giám đốc các đơn vị

thành viên HTĐL nhân danh TCT để thực hiện một số hình thức và mức độ đầu tư ra ngoài TCT. Hội đồng
quản trị phê chuẩn và quản lý nhân sự của doanh nghiệp, tham gia quản lý và điều hành các liên doanh này.
2.1.3 – Quản lý sử dụng vốn khấu hao cơ bản:


Tổng giám đốc, theo ủy quyền của Hội đồng quản trị, có thể quyết định huy động khấu hao cơ bản của


các đơn vị thành viên HTĐL để phục vụ nhu cầu đầu tư tập trung của TCT hoặc của thành viên HTĐL khác.
Việc huy động thực hiện theo hình thức vay trả với lãi suất nội bộ và phải được xây dựng thành kế hoạch hàng
năm do Hội đồng quản trị phê duyệt.
Nhu cầu xây dựng đội máy bay hiện đại tiện nghi, có hiệu quả kinh tế cao trong khai thác, buộc TCT
HKVN phải tập trung nguồn vốn lớn. Vì vậy, TCT đã có chính sách quản lý tập trung khấu hao cơ bản và quỹ
đầu tư phát triển đối với hoạt động kinh doanh vận tải hàng không và các đơn vị HTPT , huy động không hoàn
lại 10% quỹ đầu tư phát triển được trích hàng năm của các doanh nghiệp thành viên HTĐL . Sử dụng toàn bộ
quỹ khấu hao máy bay và quỹ khấu hao thiết bị mặt đất tập trung để đầu tư hiện đại hóa đội máy bay. Sử dụng
quỹ đầu tư phát triển để tăng cường đổi mới trang thiết bị mặt đất phục vụ dây chuyền vận tải hàng không.
2.1.4 – Bảo toàn vốn:


Để bảo toàn vốn, TCT và các đơn vị thành viên HTĐL phải thực hiện các chế độ quản lý, sử dụng vốn

theo quy định của Nhà nước; mua bảo hiểm tài sản; hạch toán vào chi kinh doanh các khoản dự phòng giảm giá

19


hàng tồn kho, dự phòng nợ khó đòi, dự phòng giảm giá các khoản đầu tư chứng khoán trong hoạt động tài
chính.
2.1.5 – Huy động vốn:


TCT được huy động vốn dưới mọi hình thức theo pháp luật quy định, nhưng không được làm thay đổi

hình thức sở hữu nhà nước của TCT. Quyền hạn quyết định hạn mức một lần vay và tổng dư nợ được phân cấp:



Hội đồng quản trị quyết định mức tín dụng một lần vay từ 3% vốn điều lệ của TCT trở lên.



Tổng giám đốc quyết định mức tín dụng một lần vay dưới 3% vốn điều lệ của TCT.



TCT bảo lãnh cho các đơn vị thành viên HTĐL vay vốn trong nước và giao Giám đốc các đơn vị

thành viên HTĐL quyền được vay vốn với hạn mức một lần vay dưới 3% vốn điều lệ của doanh nghiệp ấy. Đối
với việc vay vốn để đầu tư xây dựng, mua sắm trang thiết bị, máy móc thì phải được Hội đồng quản trị phê
duyệt theo phương án đề nghị của Tổng giám đốc.
2.1.5 – Xử lý tổn thất tài sản và nợ khó đòi :


Quyền và trách nhiệm quyết định xử lý tổn thất tài sản và nợ khó đòi được phân cấp như sau :



Hội đồng quản trị có quyền quyết định xử lý các khoản tổn thất tài sản hoặc nợ khó đòi từ mức 100

triệu đồng trở lên.


Mức tổn thất tài sản dưới 100 triệu đồng hoặc nợ khó đòi từ 50 triệu đồng đến dưới 100 triệu đồng thì

Hội đồng quản trị ủy quyền cho Tổng giám đốc TCT quyết định.



Giám đốc các đơn vị thành viên HTĐL được quyết định các phương án xử lý nợ khó đòi dưới 50 triệu

đồng, nhưng phải báo cáo bằng văn bản cho TCT trong vòng 5 ngày sau khi xử lý.
Mọi trường hợp tổn thất tài sản , trong vòng 10 ngày sau khi xử lý, phải được báo cáo bằng văn bản cho
Chính phủ và Cơ quan quản lý vốn và tài sản nhà nước tại doanh nghiệp biết. Các trường hợp tổn thất tài sản vì
lý do bất khả kháng, Hội đồng quản trị lập phương án và quyết định xử lý sau khi tham khảo ý kiến của Cơ quan
quản lý vốn và tài sản nhà nước tại doanh nghiệp và báo cáo Chính phủ bằng văn bản.
2.2 – Quản lý doanh thu và chi phí:
2.2.1 – Báo cáo tài chính :
TCT hạch toán tập trung đối với kinh doanh vận tải hàng không (bao gồm VN và bảy đơn vị thành viên
HTPT) . Báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của TCT là tổng hợp kết quả sản xuất kinh doanh của
các đơn vị thành viên trong TCT, có phân định rõ phần hạch toán tập trung của TCT và phần tổng hợp báo cáo
quyết toán của các đơn vị thành viên HTĐL.
Như vậy, báo cáo tài chính tổng hợp hàng năm của TCT cũng giống như báo cáo tài chính tổng hợp của các
tập đoàn kinh tế trên thế giới. Trong đó các đơn vị thành viên HTĐL được xem như các công ty con có 100%
vốn là của TCT. Chỉ khác là các đơn vị SN có báo cáo riêng theo quy định của Nhà nước .
20


2.2.2 – Quản lý giá :


Chính sách kết hợp giá cước và thỏa thuận giá giảm đặcë biệt là một trong những vũ khí lợi hại của các

hãng hàng không quốc tế để chiến thắng trong cạnh tranh. Do đó, giá cước các đường bay quốc tế được xây
dựng trên cơ sở các mức cước quy định trong các Điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia ký kết, các khung giá
do Cục HKDDVN phê chuẩn. TCT HKVN được Cục HKDDVN ủy quyền quy định các mức giá cước cụ thể
trong tình hình có biến động về mật độ hành khách, mật độ các chuyến bay nhằm thu hút hành khách, tận dụng
năng lực vận chuyển, đạt doanh thu tối ưu.
Giá cước các đường bay trong nước tham gia vào cơ cấu giá chung của nền kinh tế quốc dân, mức cước giới

hạn tối đa được Cục HKDDVN quyết định sau khi thống nhất với Ban Vật giá Chính phủ, mức giới hạn này
được xem xét trong mối tương quan hợp lý với các phương tiện vận chuyển khác và phù hợp với khả năng thanh
toán của hành khách là người Việt Nam.


Các đơn vị HTPT được cấp ngân sách chi kinh doanh để cung ứng dịch vụ cho các chuyến bay của

VN, Pacific Airlines ( Công ty cổ phần hàng không có vốn góp của TCT HKVN) và các hãng hàng không nước
ngoài. Phần thu từ các dịch vụ phục vụ cho Pacific Airlines và các hãng hàng không nước ngoài được nộp toàn
bộ về TCT. Giá phục vụ cho các hãng do TCT quyết định. Tùy theo các Hiệp định hàng không giữa hai Chính
phủ mà mức độ hợp tác giữa TCT HKVN và từng hãng có khác nhau, giá phục vụ được tính trên cơ sở hai bên
cùng có lợi và tương ứng với giá phục vụ của nước đối tác.


Giám đốc các đơn vị thành viên HTĐL được quyền quyết định giá sản phẩm, dịch vụ bán ra thị trường

và cung ứng cho TCT.
Phát huy thế mạnh của TCT, Hội đồng quản trị TCT HKVN đã có Quyết định số 488/HKVN ngày
20/9/1996 ban hành Quy chế tiêu thụ nội bộ các sản phẩm, dịch vụ trong TCT HKVN. Các đơn vị tiêu thụ chỉ
được mua các sản phẩm, dịch vụ ở ngoài thị trường khi không có đơn vị nào trong TCT sản xuất kinh doanh sản
phẩm, dịch vụ cần mua hoặc các đơn vị cung ứng trong TCT không đảm bảo cung ứng đủ số lượng, chất lượng
sản phẩm theo kế hoạch. Các nhà cung ứng là đơn vị thành viên trong TCT được hưởng chế độ ưu đãi về bảo
lãnh thực hiện hợp đồng, phương thức thanh toán và giá cả, được ưu tiên về giá từ 5%-7% nếu tham gia đấu
thầu cung ứng sản phẩm, dịch vụ cho TCT.
2.2.3 – Quản lý chi phí:


Tổng giám đốc TCT xây dựng các định mức kinh tế - kỹ thuật trình Hội đồng quản trị phê duyệt làm

căn cứ điều hành sản xuất và quản lý chi phí sản xuất của TCT. TCT phải đăng ký định mức lao động với Bộ

Lao động Thương binh và Xã hội. Trên cơ sở định mức lao động đăng ký và chế độ tiền lương do Nhà nước quy
định, TCT phải xây dựng đơn giá tiền lương trên đơn vị sản phẩm và hoạt động dịch vụ trình cơ quan có thẩm
quyền quyết định.
21




Tổng giám đốc duyệt các định mức kinh tế – kỹ thuật, định mức lao động, đơn giá tiền lương của các

doanh nghiệp thành viên phù hợp với định mức, đơn giá của TCT do Hội đồng quản trị hoặc cơ quan có thẩm
quyền phê duyệt.


Để tiết kiệm chi phí và huy động tối đa nguồn lực cho sản xuất kinh doanh vận tải hàng không, bằng

Quyết định số 2150/HKVN ngày 12/12/97, Tổng giám đốc TCT đã ban hành Quy trình quản lý ngân sách trong
nội bộ khối HTTT và HTPT. Theo đó, TCT quản lý tập trung ngân sách chi kinh doanh thông qua việc phê
duyệt dự toán, giám sát tổ chức thực hiện, kiểm tra hạch toán và quyết toán ngân sách. Các đơn vị cơ sở chịu
trách nhiệm đối với phần ngân sách được giao, được phép điều chỉnh giữa các khoản mục ngân sách trong phạm
vi 10% để đáp ứng kịp thời nhu cầu sản xuất kinh doanh của VN.
2.3 – Phân phối lợi nhuận :


Lợi nhuận của TCT HKVN là tổng lợi nhuận của các doanh nghiệp thành viên.



Ngoài lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh vận tải hàng không, TCT trích lập các quỹ tập trung của TCT


từ các quỹ được trích lập hàng năm của các doanh nghiệp thành viên HTĐL theo phương thức sau : huy động
không hoàn lại 10% quỹ đầu tư phát triển, điều động 5% quỹ dự trữ tài chính, 5% quỹ phúc lợi, 3% quỹ khen
thưởng .


Quỹ nghiên cứu khoa học và đào tạo của TCT được hình thành từ : huy động 3% quỹ đầu tư phát triển

của doanh nghiệp thành viên HTĐL ; huy động 10% chênh lệch thu-chi từ các hoạt động nghiên cứu khoa học,
đào tạo do Viện Khoa học hàng không ký với các đơn vị trong và ngoài TCT; kinh phí nghiên cứu khoa học,
đào tạo do ngân sách Nhà nước hỗ trợ ( nếu có ).
3– Bộ máy quản lý tài chính của TCT HKVN:
Bộ máy quản lý tài chính của TCT HKVN hiện nay được phân thành 2 cấp :
3.1 – Cấp Tổng công ty :


Ban Tài chính kế toán ( vừa là đơn vị kế toán cấp TCT vừa là đơn vị kế toán cấp cơ sở đối với hoạt

động kinh doanh vận tải hàng không ) là cơ quan tham mưu cho Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc trong lónh
vực tài chính, kế toán và thông tin kinh tế , được tổ chức thành 8 phòng chuyên môn : phòng Kế toán, phòng Tài
chính – đầu tư, phòng Chế độ, phòng Bảo hiểm, phòng Quỹ két, phòng Doanh thu vận tải, phòng Thanh toán
quốc tế, phòng Thống kê và quản lý dữ liệu .


Phòng Kiểm toán là cơ quan kiểm toán nội bộ của TCT, chịu sự quản lý trực tiếp, toàn diện của Tổng

giám đốc, chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Kế toán trưởng theo Pháp lệnh kế toán – thống kê .
3.2 – Cấp cơ sở :
Phòng hoặc tổ Tài chính kế toán của các đơn vị trực thuộc Tổng công ty (bao gồm các đơn vị HTĐL, các
đơn vị HTPT, các Văn phòng khu vực, các Văn phòng đại diện ở nước ngoài và Cơ quan TCT )
22



Bộ máy quản lý tài chính của TCT HKVN và mối quan hệ giữa các cấp được thể hiện trong mô hình sau :
( Xin xem Phụ lục 2 – Mô hình tổ chức bộ máy quản lý tài chính TCT- HKVN )
4 – Thực trạng công tác quản lý tài chính của TCT HKVN :
4.1 - Về quản lý sử dụng và bảo toàn vốn :
4.1.1 – Quy mô vốn và tài sản :
Tình hình vốn và tài sản của TCT HKVN từ năm 1993 đến 1998 thể hiện trong kết quả kiểm kê vốn và tài
sản qua các năm, như sau :
( Xin xem Phụ lục 3 - Tình hình vốn và tài sản của TCT – HKVN 1993 - 1998 )


Vốn và tài sản của TCT HKVN vẫn còn rất nhỏ bé, không tương xứng với quy mô sản xuất và mất cân

đối trong cơ cấu vốn . Tình trạng chung trong toàn TCT là thiếu vốn, đặc biệt là vốn đầu tư phát triển đội máy
bay. Hầu hết nguồn vốn kinh doanh của TCT HKVN được bổ sung từ lợi nhuận, tổng số vốn ngân sách Nhà
nước giao chỉ là 269,2 tỷ đồng, chiếm 14,8 % vốn kinh doanh, trong đó của VN là 225, 4 tỷ đồng tương đương
17% vốn kinh doanh. Với nguồn vốn ít ỏi, quỹ khấu hao và quỹ đầu tư phát triển chưa đủ đáp ứng nhu cầu đầu
tư phát triển. Vì vậy, bên cạnh việc huy động nguồn vốn nội lực, TCT còn tập trung nguồn vốn vay trung và dài
hạn thông qua bảo lãnh của các tổ chức tín dụng xuất khẩu cho đầu tư mua máy bay và các thiết bị chuyên
dùng. Cơ cấu vốn của TCT HKVN từ năm 1995 đến cuối năm 1998 có thể được mô tả như sau :

3,000,000
2,500,000
2,000,000

VV

1,500,000


VTBS

1,000,000

VNSNN

500,000
0
31/12/95

31/12/96

31/12/97

31/12/98

( VNSNN : Vốn ngân sách nhà nước, VTBS : Vốn tự bổ sung, VV : Vốn vay )


Tài sản chính phục vụ kinh doanh vận tải hàng không là máy bay. Với nguồn vốn đầu tư hạn chế, TCT

phải kết hợp việc mua máy bay mới với việc thuê các loại máy bay hiện đại bằng hình thức thuê hoạt động để
đáp ứng nhu cầu vận chuyển tăng nhanh . Tình hình tăng trưởng đội máy bay từ năm 1993 đến năm 1999 được
thể hiện trong phuï luïc sau :
( Xin xem Phuï luïc 4 – Tình hình tăng trưởng đội bay từ 1993 đến 1999 )
VN hiện đang khai thác 20 máy bay ( 3 Boing 767 , 10 Airbus 320 , 5 ATR 72 và 2 Fokker ) , trong đó có 6
máy bay sở hữu ( 4 ATR 72 và 2 Fokker ) và 14 máy bay thuê . Tổng trị giá thị trường của số máy bay khai thác
23



là 800 triệu USD ( kể cả động cơ dự phòng và phụ tùng khí tài ) , phần TCT HKVN sở hữu chỉ khoảng trên 100
triệu USD . Đội máy bay sở hữu bao gồm cả vay mua chỉ chiếm 18,7% khi quy đổi theo tổng số ghế , hoặc chỉ
chiếm 30% nếu tính theo số chiếc , tỷ lệ này của các hãng khác trong khu vực là 70-80%. Tỷ lệ vốn vay dài
hạn trên vốn chủ sở hữu thấp, cao nhất là vào thời điểm 31/12/1997 (khi TCT mua 2 máy bay Fokker) thì cũng
chỉ tương đương 71,26%, tỷ lệ này của hầu hết các hãng hàng không trong khu vực là khoảng 200% .
Với quy mô và cơ cấu vốn tài sản như trên , TCT HKVN ở trong tình trạng không chủ động trong kinh
doanh và bất lợi trong cạnh tranh với các hãng hàng không khác trong khu vực .


Vốn lưu động của hầu hết các đơn vị thành viên trong TCT HKVN thiếu trầm trọng. Tổng nhu cầu vốn

lưu động, với quy mô sản xuất hiện nay khoảng 600-700 tỷ đồng, trong khi đó nguồn vốn lưu động thực có chỉ
xấp xỉ 250 tỷ đồng. Với uy tín của một doanh nghiệp quy mô lớn trong nước, TCT HKVN đã tạo lập vốn lưu
động cho hoạt động sản xuất kinh doanh bằng cách tận dụng vị thế của mình đểø vay và bảo đảm cho các doanh
nghiệp thành viên HTĐL vay ngắn hạn và trung hạn các ngân hàng thương mại trong nước và nước ngoài với
lãi suất tương đối ưu đãi. Bên cạnh đó, TCT HKVN đã tận dụng tối đa nguồn vốn chiếm dụng của người mua
trả tiền trước để cân đối nhu cầu vốn lưu động trong kinh doanh vận tải hàng không.
4.1.2 – Những tồn tại trong cơ chế quản lý sử dụng và bảo toàn vốn :


Vấn đề huy động và điều phối vốn nội bộ :



Từ khi thành lập đến nay, TCT HKVN chưa tổ chức được một cơ quan chuyên phân tích hiệu quả kinh

tế của các hoạt động đầu tư để tham mưu cho Tổng giám đốc và Chủ tịch Hội đồng quản trị trong việc huy
động, điều phối vốn giữa TCT và các đơn vị thành viên HTĐL, giữa các đơn vị HTĐL với nhau và đầu tư vào
các doanh nghiệp khác. Tính chất hỗ trợ về vốn giữa các đơn vị thành viên HTĐL chưa thực sự có hiệu quả,
chưa phát huy được sức mạnh tổng thể của toàn TCT.



Từ năm 1997 mới phát sinh việc huy động vốn dưới hình thức vay, nhưng chỉ là ngắn hạn và trong

trường hợp cấp bách. Chủ yếu là TCT cho các công ty thành viên HTĐL vay vốn lưu động để sản xuất kinh
doanh từ quỹ đầu tư tạm thời nhàn rỗi của khối HTTT. Việc cho vay được thực hiện khi có yêu cầu của đơn vị
cần vốn, nhiều khi không có kế hoạch trước. Đối với các dự án vay vốn lưu động, lãi suất nội bộ được xác định
trong khung lãi suất trần của Ngân hàng Nhà nước và tương đương với mức bình quân lãi suất tiền gửi ngắn hạn
của các ngân hàng thương mại có vốn góp của TCT tại thời điểm cho vay. Đối với các dự án cho vay vốn đầu
tư, lãi suất cho vay tương đương với mức lãi suất ưu đãi của Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia dành cho các dự án đầu
tư .
(Xin xem Phụ lục 5 – Tình hình cho vay vốn nội bộ của Tổng công ty các năm 1997, 1998, 1999 )
TCT ưu tiên cho vay trực tiếp đối với các đơn vị thành viên cung ứng sản phẩm nội bộ hoặc các dự án đầu
tư nhằm cung ứng sản phẩm nội bộ cho TCT. Trường hợp công ty vay không có khả năng thanh toán thì TCT
24


×