Tải bản đầy đủ (.pdf) (62 trang)

(Luận văn thạc sĩ) thực trạng và một số giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu việt nam đến 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (947.39 KB, 62 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM

NGUYỄN VĂN TÁM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2000


MỞ ĐẦU
I - LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI :
Sự phát triển vượt bậc của hoạt động NGOẠI THƯƠNG, đặc biệt XUẤT
KHẨU trong 10 năm qua, theo đánh giá của nhiều chuyên gia kinh tế trong và
ngoài nước, có thể coi là một trong những thành tựu nổi bật của công cuộc đổi
mới ở Việt Nam. Nếu như năm 1976, năm đầu tiên sau giải phóng, kim ngạch
xuất khẩu mới chỉ đạt xấp xỉ 200 triệu Rúp, năm 1986 là 789 triệu Rúp và USD
thì tới năm 1999 đã tăng lên 11.525 triệu USD, tăng gần gấp 15 lần kim ngạch
năm 1986 (57,6 lần kim ngạch năm 1976). Từ chỗ đơn thuần chỉ xuất khẩu
nguyên liệu thô với một vài chủng loại như than đá, gỗ tròn, thiếc... và một số
sản phẩm thủ công mỹ nghệ đơn giản, tới nay chúng ta đã có một cơ cấu hàng
xuất khẩu khá đa dạng, trong đó có những mặt hàng đạt giá trị kim ngạch xuất
khẩu cao vào hàng thứ hai, thứ ba thế giới như gạo, cà phê. Cơ cấu hàng hóa
xuất khẩu và cơ cấu thị trường xuất khẩu cũng đã có những thay đổi theo
hướng tích cực. Tỷ trọng hàng xuất khẩu đã qua chế biến tăng nhanh. Thị trường
xuất khẩu theo chủ trương đa phương hóa của Đảng và Nhà nước , được mở rộng
và đa dạng hơn, không còn lệ thuộc hoàn toàn vào khối XHCN như trước đây
nữa. Đặc biệt, trong nhiều năm liền, xuất khẩu đã trở thành động lực chính của
tăng trưởng GDP, đồng thời xuất khẩu tăng cùng với chính sách hạn chế nhập
khẩu thích hợp làm giảm tỷ lệ nhập siêu, cải thiện cán cân thanh toán, góp phần


không nhỏ vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa.
Tuy đã đạt được những thành tựu nổi bật nhưng cho đến nay, kim ngạch
xuất khẩu của Việt Nam vẫn còn rất nhỏ bé, xét về cả giá trị tuyệt đối lẫn tương
đối. Tổng kim ngạch xuất khẩu mới chỉ đạt xấp xỉ 11,5 tỷ USD năm 1999 trong

1


khi những nước trong ASEAN, những nước có tiềm năng tương tự, đã vượt mức
này từ rất lâu. Nếu chỉ xét riêng kim ngạch xuất khẩu /đầu người thì vào năm
1996 Malaysia đã đạt mức 3.700USD, Thailand đạt mức 930USD và Philippines
đạt mức 285USD trong khi Việt nam mới chỉ đạt 96USD (151USD năm 1999).
Từ sự so sánh thực tế này đặt ra cho Việt Nam chúng ta một nhiệm vụ cấp bách
là: Cần thiết phải tăng mạnh xuất khẩu để giải quyết nhiều vấn đề cấp bách cho
nền kinh tế chúng ta như : Giảm nhập siêu tiến tới xuất siêu, xuất khẩu là một
trong những động lực thúc đẩy sản xuất nội địa tăng trưởng ... Chính vì vậy tôi
mạnh dạn chọn Đề tài "Thực trạng và một số giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất
khẩu của Việt Nam " nhằm nghiên cứu lý luận và thực trạng hoạt động xuất
khẩu của nước ta, từ đó tìm ra các định hướng và giải pháp góp phần phát triển
hoạt động xuất khẩu của đất nước nói riêng và phát triển toàn nền kinh tế nói
chung.
II - MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI :
Thực hiện đề tài này, chúng tôi xác định các mục tiêu nghiên cứu sau :
1. Nghiên cứu các vấn đề lý luận về thương mại quốc tế thông qua các
lý thuyết về thương mại quốc tế, nhằm làm rõ hơn vai trò to lớn của hoạt động
ngoại thương nói chung, hoạt động xuất khẩu nói riêng đối với nền kinh tế.
2. Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động xuất khẩu của Việt Nam
trong thời kỳ đổi mới vừa qua, qua đó tìm ra được mặt tích cực cũng như những
tồn tại và tiềm năng của đất nước trong hoạt động xuất khẩu.

3. Nêu ra các định hướng và giải pháp nhằm góp phần đẩy mạnh hoạt
động xuất khẩu của Việt Nam.
III - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU :
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng các phương pháp biện chứng,
phương pháp thống kê, phân tích, kế toán và dựa theo lý luận của các học
thuyết về thương mại quốc tế , các mô hình chiến lược phát triển kinh tế đối

2


ngoại và kinh nghiệm phát triển ngoại thương của một số nước để đánh giá bản
chất, xu hướng phát triển hoạt động xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian
qua. Trên cơ sở đó sử dụng các phương pháp dự báo để đề ra các biện pháp ,
giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian tới.
IV - PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI :
Phạm vi nghiên cứu của đề tài này là hoạt động xuất nhập khẩu của Việt
Nam trong thời kỳ Đổi mới, đặc biệt nhấn mạnh giai đoạn từø năm 1991 đến
nay, là những năm xuất khẩu của Việt Nam bắt đầu gặt hái được những kết quả
tương đối khả quan, góp phần quan trọng trong việc đẩy mạnh tốc độ tăng
trưởng của toàn nền kinh tế. Trong đó đi sâu vào phân tích một số mặt hàng và
thị trường xuất khẩu chính trong thời gian qua.
Phù hợp với mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu nêu trên, nội dung
của Luận Văn được bố cục như sau :
MỞ ĐẦU.
CHƯƠNG 1 : Cơ sở lý luận về thương mại quốc tế.
CHƯƠNG 2 : Hiện trạng xuất khẩu của Việt Nam thời gian qua.
CHƯƠNG 3 : Định hướng và những giải pháp thúc đẩy xuất khẩu của Việt
Nam đến năm 2010.
KẾT LUẬN.


3


CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
1.1 - KHÁI NIỆM VỀ NGOẠI THƯƠNG.
Ngoại thương được hiểu là hoạt động trao đổi hàng hóa thông qua mua
bán giữa một nước với các nước khác. Hoạt động Ngoại thương xuất hiện từ rất
lâu ở các nước đế quốc phương Tây và Trung Quốc, đóng vai trò cực kỳ quan
trọng trong việc phát triển kinh tế của các quốc gia. Lực lượng sản xuất ngày
càng phát triển thì nội dung của hoạt động Ngoại thương cũng được mở rộng
hơn. Lúc đầu Ngoại thương chỉ là hoạt động trao đổi, giao lưu hàng hoá giữa các
quốc gia. Ngày nay Ngoại thương còn liên quan chặt chẽ với các hoạt động đầu
tư quốc tế, hợp tác khoa học công nghệ,.… Ngoại thương góp phần đưa nền kinh
tế trong nước hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới.
1.2.

VAI TRÒ CỦA NGOẠI THƯƠNG QUA CÁC HỌC THUYẾT
THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ :

1.2.1. Lý thuyết của Phái trọng thương.
Thuyết trọng thương ra đời ở Châu u vào khoảng cuối thế kỷ XV, đầu
thế kỷ XVI và kéo dài ảnh hưởng cho đến giữa thế kỷ XVIII. Những người theo
Phái trọng thương cho rằng sự giàu có của một quốc gia được phản ánh qua
lượng vàng, bạc mà quốc gia đó nắm giữ . Xuất nhập khẩu mang lại phồn vinh
cho đất nước, tuy nhiên giao thương quốc tế theo luật trò chơi bằng không nghóa
là khi tham gia thương mại quốc tế, một quốc gia thu được lợi ích trên cơ sở lợi
ích của quốc gia khác bị thiệt hại. Do vậy duy trì xuất siêu là biện pháp quan
trọng nhất để thu được nhiều lợi ích từ thương mại quốc tế (mang về quý kim
cho đất nước). Từ đó, Phái trọng thương chủ trương Chính phủ can thiệp sâu vào
ngoại thương, tiến hành bảo hộ mậu dịch, khuyến khích xuất khẩu.

Lý thuyết trọng thương về thương mại quốc tế tuy còn mang đậm yếu tố
chủ quan, chưa có căn cứ khoa học cho việc phát triển thương mại quốc tế,

4


nhưng xét theo khía cạnh tiên phong, mở đường cho việc nghiên cứu phát triển
một lónh vực mới thì đóng góp của nó là không nhỏ.
1.2.2. Lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith.
Đến giữa thế kỷ XVIII, nhà kinh tế học lỗi lạc người Anh, Adam Smith, đã
đưa ra quan điểm mới về thương mại quốc tế tích cực hơn so với phái Trọng
Thương trước đó.
Đề cao vai trò của lợi ích cá nhân, trong tác phẩm nguồn gốc sự giàu có của
các quốc gia xuất bản năm 1776, Adam Smith đã nhận định : " sự giàu có của
mỗi quốc gia đạt được không phải do những quy định quản lý chặt chẽ của chính
quyền mang lại mà là nhờ vào tự do kinh doanh".
Dựa vào một số giả định , A.Smith cho rằng hoạt động ngoại thương sẽ mang
lại lợi ích cho quốc gia xuất khẩu sản phẩm có lợi thế tuyệt đối. A.Smith cho
rằng khi sử dụng cùng một nguồn lực vật chất, nước nào sản xuất được nhiều
hàng hóa hơn thì nước đó có lợi thế tuyệt đối trong việc sản xuất hàng hóa đó.
Và các quốc gia nên chuyên môn hóa vào sản xuất các sản phẩm mà mình có
lợi thế tuyệt đối rồi đem trao đổi với các nước khác (là các quốc gia không có
lợi thế tuyệt đối trong việc sản xuất sản phẩm đó). Trong trường hợp lợi thế
tuyệt đối đổi chiều, cả hai quốc gia tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế
đều thu được lợi ích lớn hơn là khi họ tự sản xuất - cung ứng cho quốc gia mình
tất cả các loại hàng hóa. Thương mại quốc tế không phải là quy luật trò chơi
bằng không mà là trò chơi tích cực.
Lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith được xem như là lý thuyết có cơ
sở khoa học đầu tiên về thương mại quốc tế , giải thích vì sao các nước lại quan
hệ thương mại với nhau, dựa trên cơ sở nào. Tuy nhiên, lý thuyết này lại không

trả lời được câu hỏi là nếu một quốc gia có lợi thế tuyệt đối ở hầu hết các sản
phẩm, và một quốc gia khác (hay phần còn lại của thế giới) thì lại không có lợi

5


thế tuyệt đối ở bất kỳ sản phẩm nào thì mậu dịch quốc tế có xảy ra không, và
dựa trên cơ sở nào?.
1.2.3. Lý tuyết lợi thế so sánh của David Ricardo.
Lý thuyết lợi thế so sánh được David Ricardo trình bày trong tác phẩm
" Những nguyên lý kinh tế chính trị và thuế" xuất bản năm 1817. D.Ricardo cho
rằng bất kỳ một nước nào tham gia hoạt động thương mại quốc tế đều thu được
lợi ích nhất định do họ có lợi thế tương đối chứ không nhất thiết phải có lợi thế
tuyệt đối. Như vậy một quốc gia không có bất cứ lợi thế tuyệt đối nào cũng có
thể tham gia trao đổi hàng hoá với các nước có lợi thế tuyệt đối ở việc sản xuất
hầu hết các sản phẩm mà cả hai quốc gia đều thu được lợi ích lớn hơn là đóng
cửa tự cung - tự cấp.
Thuyết lợi thế so sánh xác định các nước nên chuyên môn hóa vào sản xuất
các sản phẩm hàng hóa mà nước đó có lợi thế so sánh rồi đem ra trao đổi với
các nước khác ( những nước kém lợi thế so sánh trong việc sản xuất hàng hóa
đó), như vậy các nước tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế đều thu được
lợi ích cao hơn.
Lợi thế so sánh về một sản phẩm thể hiện khả năng cạnh tranh của một quốc
gia trên thị trường thế giới đối với sản phẩm đó. Mức lợi thế so sánh giữa hai
quốc gia hay giữa nhiều nước trong khu vực có thể được xác định theo công thức
RCA = (E1/Ec) / (E2/Ew)
Trong đó :
- RCA : Hệ số thể hiện lợi thế so sánh.
- E1 : Kim ngạch xuất khẩu sản phẩm X của quốc gia trong một năm.
- Ec : Tồng kim ngạch xuất khẩu của quốc gia trong một năm.

- E2 : Kim ngạch xuất khẩu sản phẩm X của thế giới trong một năm.
- Ew : Tổng kim ngạch xuất khẩu của thế giới trong một năm.
- Nếu RCA ≤ 1
: sản phẩm không có lợi thế so sánh.
1 < RCA<2,5
: sản phẩm có lợi thế so sánh.
RCA ≥ 2,5 : sản phẩm có lợi thế so sánh rất cao.

6


Cho đến nay, bản chất lý thuyết này vẫn không thay đổi, nó vó đại ở chỗ đã
chứng minh được rằng, các quốc gia, bất kể có lợi thế tuyệt đối hay không, đều
có lợi khi giao thương với nhau, khắc phục được nhược điểm cơ bản của lý
thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith. Vì vậy, quy luật lợi thế so sánh của
David Ricardo được coi là một trong những quy luật quan trọng nhất của kinh tế
học phát triển dù vẫn còn một số hạn chế nhất định như mới chỉ tính đến yếu tố
lao động trong chi phí sản xuất nên không giải thích xác đáng tình trạng năng
suất lao động hơn kém nhau giữa các quốc gia, cách tính toán vẫn trên căn bản
hàng đổi hàng chứ chưa phải là giá cả quốc tế. Ricardo cũng không thấy được
cơ cấu nhu cầu tiêu dùng ở mỗi quốc gia có ảnh hưởng lên quan hệ thương mại
quốc tế, nên không xác định được giá cả tương đối của sản phẩm đem trao đổi
giữa các nước với nhau....
1.2.4. Lý thuyết Heckesher - Ohlin.
Trong thế kỷ XX, hai nhà kinh tế học người Thụy Điển, Eli Hecksher và
Bertil Ohlin, với tác phẩm "Thương mại liên khu vực và quốc tế" xuất bản năm
1933, đã giải quyết được vấn đề rất cơ bản mà cả Adam Smith và David
Ricardo giải quyết chưa trọn vẹn - đó là dựa vào quy luật tỷ lệ cân đối các yếu
tố sản xuất để giải thích nguồn gốc phát sinh lợi thế so sánh.
Heckesher - Ohlin giải thích nguồn gốc lợi thế so sánh (chi phí cơ hội thấp Haberler) trên cơ sở nhận định rằng : để làm ra sản phẩm, người ta phải sử

dụng kết hợp các yếu tố sản xuất theo những tỷ lệ cân đối khác nhau nhất định.
Nhưng tỷ lệ kết hợp các yếu tố sản xuất của từng sản phẩm trong từng quốc gia
cũng như giữa các quốc gia là khác nhau. Do đó quốc gia sẽ có lợi thế so sánh
đối với sản phẩm thâm dụng yếu tố sản xuất mà quốc gia có dồi dào (dư thừa).
Từ nhận định đó, Hecksher – Ohlin đưa ra học thuyết của mình với nội dung :
một quốc gia sẽ xuất khẩu sản phẩm thâm dụng yếu tố sản xuất quốc gia dư

7


thừa và nhập khẩu sản phẩm thâm dụng yếu tố sản xuất mà quốc gia khan
hiếm.
Lý thuyết này có giá trị cao trong việc vận dụng vào thực tế phát triển ngoại
thương của các quốc gia, thể hiện như sau :
Đối với các nước đang phát triển, trong giai đoạn đầu công nghiệp hóa sẽ tập
trung xuất khẩu những sản phẩm sử dụng nhiều (thâm dụng) lao động và những
sản phẩm có nguồn gốc từ tài nguyên thiên nhiên như : nông – lâm – thủy sản,
khoáng sản … và nhập khẩu những sản phẩm công nghiệp kỹ thuật cao như :
máy móc thiết bị, vật tư, nguyên liệu cho các ngành công nghiệp…
Lợi thế so sánh về một số loại sản phẩm sẽ dần bị mất đi, đồng thời xuất
hiện những sản phẩm có lợi thế so sánh mới. Vì vậy cơ cấu xuất khẩu không cố
định mà phải chuyển đổi theo mức độ thay đổi tương quan các yếu tố sản xuất
trong nền kinh tế. Các nước đang phát triển sẽ cố giảm xuất khẩu hàng sử dụng
nhiều lao động, sản phẩm thô hoặc ít qua chế biến, nâng dần tỷ trọng xuất khẩu
hàng thâm dụng vốn và kỹ thuật công nghệ.
Dù vậy lý thuyết H-O đã không tính đến ảnh hưởng của thương mại quốc
tế đối với sự thay đổi giá cả các yếu tố sản xuất. Về sau, có Paul A. Samuelson,
nhà kinh tế học nổi tiếng người Mỹ, góp phần hoàn thiện lý thuyết Hecksher Ohlin trên căn bản xem xét tác động của thương mại quốc tế lên giá cả các yếu
tố sản xuất. Theo Samuelson, tự do hóa mậu dịch sẽ làm bình quân giá cả các
yếu tố giữa các quốc gia. Chính sự khác biệt giá cả yếu tố sản xuất giữa các

quốc gia làm phát sinh thương mại quốc tế, đến lượt nó, thương mại quốc tế làm
cho những khác biệt này giảm dần. Cụ thể, sự chuyển dịch yếu tố sản xuất giữa
các quốc gia theo chiều hướng vốn tư bản đi từ nước có lãi suất thấp đến các
nước có lãi suất cao, lao động di chuyển từ nước có giá nhân công thấp đến
nước có giá nhân công cao sẽ làm giảm sự cách biệt giá yếu tố sản xuất giữa

8


các quốc gia. Cuối cùng dẫn tới sự cân bằng tương đối và cân bằng tuyệt đối
(đồng nhất) giá cả các yếu tố sản xuất giữa các quốc gia.
1.2.5. Những bổ sung của lý thuyết mới về thương mại quốc tế :
Bên cạnh những đóng góp thiết thực vào việc phát triển thương mại quốc
tế, các lý thuyết cổ điển cũng như lý thuyết H-O vẫn có những hạn chế nhất
định trong điều kiện : khoa học công nghệ phát triển rất nhanh , Chính phủ
thường can thiệp sâu vào hoạt động ngoại thương để điều tiết quá trình phát
triển của nó. Như là : Không đề cập đến chi phí vận chuyển, mà nếu chi phí vận
chuyển quá lớn có thể ngăn cản việc xúc tiến thương mại quốc tế do giá thành
sản phẩm xuất khẩu quá cao, dẫn đến hàng hóa chỉ tiêu thụ nội địa; Ngoại trừ
phái Trọng thương, các lý thuyết khác hầu như không đề cập đến hoặc xem nhẹ
vai trò của Chính phủ trong việc điều tiết và xúc tiến xuất khẩu. Trên thực tế,
Chính phủ giữ vai trò hết sức quan trọng trong việc tạo lợi thế cạnh tranh cho
sản phẩm xuất khẩu.
Lý thuyết H-O giả định rằng tất cả các thị trường đều có tính cạnh tranh
hoàn hảo, trong mô hình không đề cập đến quy mô lợi suất kinh tế; kỹ thuật và
hiệu quả sử dụng kỹ thuật giống nhau giữa các xí nghiệp, các quốc gia; thông tin
được cung cấp đầy đủ và chỉ xem xét hai yếu tố sản xuất là tư bản và lao động;
sản phẩm thay thế hoàn hảo và quy mô xí nghiệp nhỏ giới hạn trong thị trường
nội địa. Thực tế thì quy mô kinh tế quyết định rất lớn đến giá cả sản phẩm; đa
số trường hợp, quy mô kinh tế càng lớn thì giá thành sản phẩm càng thấp.

Bỏ qua vốn nhân lực mà hiện nay được xem là yếu tố riêng biệt của sản
xuất. Trên phương diện này, nếu các giả định về cạnh tranh hoàn hảo không đổi
thì lợi thế cạnh tranh sẽ tác động lên sự tích lũy kỹ năng lao động của quốc gia
(qua giáo dục và huấn luyện) giống như tác động của vốn và lao động. Từ đó,
việc sử dụng vốn nhân lực hiệu quả sẽ luôn tạo ra lợi thế cạnh tranh cho nền
kinh tế.

9


Để khắc phục nhược điểm và hoàn thiện lý luận về thương mại quốc tế, các
nhà kinh tế học tân cổ điển và hiện đại đã có những bổ sung cần thiết như sau:
Lý thuyết mới cho rằng quy mô kinh tế và học tập kinh nghiệm đóng vai trò
chủ yếu trong việc xác định lợi thế cạnh tranh (Krugman 1986). Do những thất
bại của thị trường, Chính phủ phải có những can thiệp mang tính chiến lược để
điều tiết sự phát triển của nền kinh tế (vẫn dựa trên nền tảng kinh tế thị trường).
Điều này có thể làm cho các doanh nghiệp của họ có lợi thế cạnh tranh và trở
thành những công ty hàng đầu khi đạt đến quy mô kinh tế nhất định.
Các nhà kinh tế còn đưa ra giả định về sự học tập ứng dụng công nghệ mới.
Các nước đang phát triển (cả các nước phát triển) ứng dụng những thành tựu
công nghệ tiên tiến từ các nước phát triển sẽ tốt hơn cho vị trí thương mại của
họ, thông qua khuyến khích thương mại tự do, thu hút vốn đầu tư nước ngoài
(đặc biệt hình thức đầu tư trực tiếp) để tiếp nhận công nghệ hiện đại nhằm đẩy
nhanh tốc độ tăng trưởng và rút ngắn quá trình phát triển.
Bên cạnh đó, sự tác động của Chính phủ vào nền giáo dục để nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực cũng sẽ góp phần rất quan trọng thúc đẩy tiến trình phát
triển toàn diện của quốc gia.
Qua nghiên cứu các học thuyết căn bản về thương mại quốc tế như trên, ta
thấy là một quốc gia hoàn toàn có thể dựa vào các lợi thế so sánh của mình để
xây dựng chiến lược phát triển cho phù hợp. Nhưng cũng phải thấy rằng lợi thế

so sánh nào, của bất kỳ quốc gia nào , rồi cũng giảm dần, thay đổi theo thời
gian (do tính chất chi phí cơ hội gia tăng và sự giảm dần cách biệt về giá cả các
yếu tố sản xuất giữa các quốc gia quy định). Cho nên, trong thực tế phải biết
khai thác và sử dụng lợi thế so sánh của đất nước thông qua con đường thương
mại quốc tế sao cho hợp lý và hiệu quả nhất. Đồng thời cũng phải tính toán, dự
liệu những vấn đề nằm ngoài lónh vực quan hệ thương mại quốc tế mà các quốc

10


gia đang và có thể sẽ áp dụng để duy trì lợi thế so sánh của mình, nhất là đối
với những nước có quy mô nhỏ.
1.2.6. Đường lối phát triển xuất khẩu của Việt Nam :
Tất cả các lý thuyết về thương mại quốc tế đều có một điểm chung là : các
nước tham gia vào hoạt động Thương mại quốc tế bao giờ cũng thu được lợi ích
cao hơn thay vì những nước này thực hiện chính sách đóng cửa, tự cung cấp
trong nội bộ quốc gia mình. Mỗi quốc gia nếu biết chuyên môn hóa vào sản
xuất những sản phẩm mà mình có lợi thế rồi đem trao đổi với các nước khác thì
tất cả đều có lợi. Vì vậy, Đảng và Chính phủ Việt Nam đã chọn con đường phát
triển kinh tế đất nước trên cơ sở mở rộng sự giao lưu trao đổi hàng hóa với các
nước, khai thác và sử dụng có hiệu quả hơn các nguồn lực của quốc gia.
Tình hình kinh tế chính trị thế giới trong những năm qua đã có nhiều thay đổi
đáng kể, ảnh hưởng lớn đến chiến lược, chính sách phát triển kinh tế của rất
nhiều các quốc gia. Thời kỳ chiến tranh lạnh chấm dứt, mở ra một kỷ nguyên
mới hòa bình và hợp tác cùng phát triển. Tuy nhiên, cũng có nhiều vấn đề mới
nảy sinh, đối đầu quân sự trở thành đối đầu kinh tế gay gắt diễn ra giữa các
cường quốc, các khu vực, các quốc gia có chính kiến chính trị khác nhau, và cả
giữa các nước, các khu vực có cùng quan điểm chính trị. Cách mạng khoa học và
công nghệ tiếp tục phát triển với trình độ ngày càng cao, tăng nhanh lực lượng
sản xuất, đồng thời thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới,

quốc tế hóa nền kinh tế và đời sống xã hội.1
Các quốc gia có tiềm lực kinh tế nhỏ bé đứng trước những thách thức to lớn,
chênh lệch giàu nghèo giữa các nước ngày càng mở rộng, cạnh tranh kinh tế,
thương mại, khoa học, công nghệ diễn ra gay gắt. Đặc biệt Việt Nam chúng ta
gặp rất nhiều khó khăn vì vốn dó là một nước có nền kinh tế nông nghiệp lạc

1

Tài liệu nghiên cứu văn kiện đại hội VIII của Đảng – NXB Chính Trị Quốc gia - T.24

11


hậu, trước đây phụ thuộc nhiều vào viện trợ giúp đỡ từ các nước xã hội chủ
nghóa anh em.
Trước tình hình đó, cùng với xu hướng chung của thời đại và kinh nghiệm
một số nước trong khu vực cho thấy: để ổn định và phát triển kinh tế, không còn
con đường nào khác là phải mở rộng quan hệ kinh tế thương mại với các nước,
kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại để phát triển. Văn
kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII khẳng định : "Việt nam sẵn sàng là bạn của tất
cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát
triển".
Đường lối đa phương hóa quan hệ, đa đạng hóa sản phẩm của Đảng và
Chính phủ nhằm khai thác tối đa các lợi thế của chúng ta. Bởi vì mỗi quốc gia
đều có những lợi thế tuyệt đối và tương đối nhất định và được xác định trên cơ
sở so sánh với các quốc gia khác. Điều đó có nghóa, khi so sánh với quốc gia,
vùng lãnh thổ khác nhau, thì chúng ta sẽ có những lợi thế khác nhau. Lợi thế
của Việt nam sẽ đạt tối đa khi chúng ta đa phương mối quan hệ. Đa phương mối
quan hệ dẫn tới đa dạng lợi thế, kết quả là Việt Nam sẽ có một hệ thống các
sản phẩm có lợi thế. Đây là cơ sở và nguồn gốc cho sự tồn tại và phát triển

ngoại thương của Việt Nam.
Là một quốc gia nhỏ bé về kinh tế so với thế giới, tiềm năng, mặt hàng có
thể xuất khẩu của chúng ta không nhiều, để thực hiện mục tiêu mở rộng giao
lưu thương mại với các nước, bắt buộc Việt nam phải tìm kiếm một chiến lược
xuất khẩu phù hợp, cân đối với nhu cầu nhập khẩu để phát triển. Đảng và Chính
phủ Việt nam đã đưa ra định hướng phát triển kinh tế đối ngoại nói chung, ngoại
thương và xuất khẩu nói riêng là :
Thứ nhất : Phục vụ nhiệm vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong điều kiện nước ta
hiện nay là biến đổi một nền kinh tế nông nghiệp phân tán, lạc hậu thành một
cơ cấu công-nông-dịch vụ có năng suất và chất lượng ngày càng cao, bám sát
mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh” .

12


Thứ hai : Tạo điều kiện và tập trung sức phát huy lợi thế của từng vùng,
từng địa bàn, từng sản phẩm và từng mặt hàng, tạo ra những bàn đạp có tác
động thúc đẩy sự phát triển chung của cả nước. Phân biệt những lợi thế tạm thời
với những lợi thế lâu dài để có chủ trương thích hợp. Với quan điểm đó, việc
quy hoạch kinh tế là rất quan trọng, tạo định hướng phát triển chung và cụ thể
cho từng lónh vực .
Thứ ba : Phát huy thế mạnh của cơ cấu nhiều thành phần. Phát huy khả năng
của từng thành phần kinh tế đối với nhiều loại quy mô , hoạt động trên nhiều
lónh vực khác nhau bằng nhiều hình thức phong phú. Gắn thị trường trong nước
với thị trường nước ngoài, chủ động hội nhập với kinh tế thế giới.
Thứ tư : Đa dạng hóa và đa phương hóa nhằm khai thác hết mọi tiềm năng,
tạo ra đối trọng nhiều chiều, sự cạnh tranh nhiều mặt trong quan hệ thương mại.
Đa dạng hóa, đa phương hóa với dung lượng ngày càng rộng, nhưng cần có sản
phẩm mũi nhọn, mặt hàng chủ lực, thị trường trọng điểm. Đồng thời phải lấy

hiệu quả (kinh tế – xã hội) làm chuẩn mực trong việc lựa chọn mặt hàng cũng
như đối tác. Chủ động xác định giải pháp, tính toán lợi ích; chủ động ứng phó
với mọi diễn biến phức tạp trên thị trường quốc tế.
Thứ năm : Giữ vững định hướng xã hội chủ nghóa, đảm bảo an ninh chính trị,
kinh tế, văn hóa xã hội.
1.3.

VAI TRÒ CỦA XUẤT KHẨU ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ
VIỆT NAM.

Xuất khẩu có vai trò rất to lớn đối với sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia,
ảnh hưởng đến hầu hết các lónh vực hoạt động trong nền kinh tế quốc dân. Kinh
nghiệm của các nước trên thế giới và quá trình tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam
trong những năm qua đã cho thấy vai trò của xuất khẩu thể hiện ở các mặt sau :
Thứ nhất, Xuất khẩu tạo điều kiện cho phép sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực kinh tế của quốc gia. Thông qua hoạt động xuất khẩu, Việt Nam khai
thác, sử dụng có hiệu quả hơn các nguồn lực : lao động, đất đai, bờ biển ,rừng, …
Nhờ đẩy mạnh xuất khẩu mà Việt Nam có thể chuyển từ một nước còn thiếu

13


lương thực thành một quốc gia xuất khẩu lớn nhất nhì thế giới về một số mặt
hàng nông sản (gạo, cà phê), năng suất, sản lượng, chất lượng các sản phẩm
cũng ngày càng được tăng lên. Nguồn lợi từ khai thác sản vật biển cũng ngày
càng gia tăng, nguồn lao động dồi dào được tận dụng và phát huy qua các sản
phẩm công nghiệp xuất khẩu sử dụng nhiều lao động : dệt may, giày dép, sản
xuất lắp ráp điện – điện tử…
Thứ hai, Xuất khẩu tạo vốn ngoại tệ cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp
hóa - hiện đại hóa đất nước. Vốn luôn là một yếu tố cực kỳ quan trọng trong tất

cả các hoạt động kinh tế. Để nhập khẩu được máy móc thiết bị, kỹ thuật công
nghệ tiên tiến , chuyên gia quản lý vận hành … đáp ứng yêu cầu chiến lược công
nghiệp hóa, hiện đại hóa thì cần có lượng ngoại tệ rất lớn, các nguồn ngoại tệ
như viện trợ hay vốn vay đến một lúc nào đó sẽ không còn hay phải trả, chỉ xuất
khẩu mới là nguồn thu ngoại tệ quan trọng duy nhất ổn định. Với tốc độ gia tăng
xuất khẩu cao trong những năm qua đã đem lại cho nền kinh tế một lượng ngoại
tệ khá lớn, cùng với chính sách quản lý nhập khẩu thích hợp đã góp phần cân
bằng cán cân thương mại, nền kinh tế ổn định và phát triển.
Thứ ba, Đẩy mạnh xuất khẩu là một yếu tố quan trọng kích thích tăng
trưởng kinh tế. Ngoài việc mang lại nguồn ngoại tệ lớn cho đất nước, tỷ trọng
đóng góp trong GDP ngày càng cao, hoạt động xuất khẩu còn khuyến khích các
doanh nghiệp cạnh tranh, mở rộng kinh doanh nhằm thu được tỷ suất lợi nhuận
cao. Bên cạnh đó, xuất khẩu là yếu tố được xem xét hàng đầu khi các chủ đầu
tư nước ngoài muốn bỏ vốn vào làm ăn kinh doanh ở Việt Nam. Xuất khẩu phát
triển sẽ thu hút đầu tư nước ngoài nhiều hơn, và đầu tư nước ngoài lại thúc đẩy
tăng trưởng xuất khẩu.
BẢNG 1.1 : TỐC ĐỘ TĂNG GDP VÀ XUẤT KHẨU 1990-1999
(Năm sau / năm trước * 100)
Đơn vị tính %
1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998
1999
105,1 105,8 108,7 108,1 108,8 109,5 109,3 108,2 105,8 104,8
GDP
123,5 86,8 123,7 115,7 135,8 134,4 133,2 126,6 101,9 123,3
XUẤT
KHẨU
Nguồn : Số liệu thống kê Kinh tế - Xã hội Việt Nam 1975-2000 (Tổng cục Thống Kê)

14



Thứ tư, Xuất khẩu đóng góp vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế , thúc đẩy
sản xuất phát triển. Hoạt động xuất khẩu không những thúc đẩy các ngành hàng
có sản phẩm xuất khẩu phát triển, mà còn có ảnh hưởng dây chuyền, kéo theo
sự phát triển của hàng loạt các ngành hàng bổ trợ khác: công nghiệp chế biến
hàng xuất khẩu, vận tải, bảo hiểm…. Ví dụ : xuất khẩu gạo phát triển mạnh kéo
theo sự ra đời và phát triển của các ngành cơ khí sản xuất máy móc chế biến
gạo xuất khẩu, các nhà máy sản xuất phân bón phát triển, bao bì cho gạo xuất
khẩu lại kéo theo ngành sản xuất đay, sợi, bao bì… Với chiến lược phát triển
xuất khẩu đúng đắn, cơ cấu sản phẩm xuất khẩu thay đổi, cơ cấu kinh tế thay
đổi theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Thứ năm, Xuất khẩu có tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn
việc làm và cải thiện đời sống của nhân dân. Hoạt động xuất khẩu được mở
rộng thu hút một lượng lao động lớn làm việc trong những doanh nghiệp sản
xuất kinh doanh hàng xuất khẩu, làm việc trong những cơ sở, xí nghiệp hỗ trợ
cho ngành hàng xuất khẩu, kể cả các loại doanh nghiệp dịch vụ khác : vận tải,
bảo hiểm, giám định hàng hóa xuất khẩu…
Thứ sáu, Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế
đối ngoại của nước ta, nhanh chóng hòa nhập vào nền kinh tế thế giới. Với
những nỗ lực từ phía Chính phủ lẫn các doanh nghiệp trong việc thúc đẩy xuất
khẩu, nền kinh tế Việt nam đã từng bước hội nhập với nền kinh tế khu vực và
thế giới. Việt nam hiện đã thiết lập quan hệ ngoại giao và thương mại với hơn
150 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, gia nhập ASEAN (1995), APEC
(1998), Ký kết các Hiệp định hợp tác về kinh tế – văn hóa xã hội – đầu tư –
thương mại với hầu hết các châu lục.
CHƯƠNG 2. HIỆN TRẠNG XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM THỜI GIAN QUA.

2.1.

ĐÁNH GIÁ XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM QUA THỜI GIAN :


Kết quả hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu của Việt Nam từ năm 1990 đến
năm 1999 được thể hiện qua bảng sau :

15


BẢNG 2.1 : KIM NGẠCH XUẤT KHẨU, N HẬP KHẨU 1990-1999
NĂM
1990
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999

ĐVT
Rúp-USD
Rúp-USD
Rúp-USD
Rúp-USD
USD
USD
USD
USD
USD

USD

XUẤT KHẨU
Kim ngạch Tốc độ tăng
(Triệu)
2.404,0
2.087,1
2.580,7
2.985,2
4.054,3
5.448,9
7.255,9
9.185,0
9.360,3
11.540,0

(%)
123,5
86,8
123,7
115,7
135,8
134,4
133,2
126,6
101,9
123,3

NHẬP KHẨU
Kim ngạch Tốc độ tăng NHẬP SIÊU

(Triệu)
2.752,4
2.338,1
2.540,7
3.924,0
5.825,8
8.155,4
11.143,6
11.592,3
11.499,6
11.622,0

(%)
107,3
84,9
108,7
154,4
148,5
140,0
136,6
104,0
99,2
101,1

(Triệu)
348,4
251,0
-40,0
938,8
1.771,5

2.706,5
3.887,7
2.407,3
2.139,3
82,0

Nguồn : Niên Giám Thống Kê 1999.
Trong thời gian từ năm 1991 đến năm 1995, kim ngạch xuất khẩu Việt
nam đã tăng với tốc độ khá cao, bình quân đạt trên 27%/năm, gấp ba lần tốc độ
tăng của GDP. Tổng kim ngạch xuất khẩu trong thời kỳ này là 17,16 tỷ Rúp và
USD, tăng 144% so với thời kỳ 1986-1990. Đây là một thành tích lớn bởi thời kỳ
này là thời kỳ chuyển đổi đầy khó khăn đối với hoạt động xuất khẩu của ta do
bị mất thị trường truyền thống là Liên Xô cũ và các nước XHCN Đông u.
Kim ngạch xuất khẩu năm 1991 giảm tới 13,2% so với năm 1990 trong
khi xuất khẩu năm 1990 tăng 23,5% so với năm 1989. Tuy nhiên , những năm
sau đó nhờ sự nỗ lực vượt bậc của các doanh nghiệp nên kim ngạch xuất khẩu
đã lấy lại được sức tăng cũ. Đến cuối kỳ thì tổng kim ngạch toàn kỳ vẫn tăng
144% so với kỳ 1986-1990 ( kỳ 1986-1990 tăng 143% so với kỳ 1981-1985).
Kim ngạch xuất khẩu tính theo đầu người , vì thế , cũng đã tăng từ 31USD năm
1991 lên xấp xỉ 70USD vào năm 1995.
Nhiều mặt hàng xuất khẩu quan trọng ra đời : dầu thô, gạo, cà phê, giày dép
và dệt may. Việt nam bắt đầu xuất khẩu dầu thô vào năm 1989 với số lượng
1,5triệu tấn, cả thời kỳ 1991-1995 đã xuất tới hơn 30 triệu tấn. Lượng gạo xuất
khẩu bình quân đạt trên 1,5 triệu tấn/năm cho toàn bộ thời kỳ 1991-1995. Caø

16


phê cũng có bước tiến vượt bậc, đến năm 1995 đã xuất được tới 186,9 ngàn tấn,
tăng hơn gấp đôi so với năm 1990. Kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc đạt 847

triệu USD vào năm 1995, tăng gấp hơn 5 lần so với kim ngạch năm 1991. Đặc
biệt kim ngạch xuất khẩu giày dép và sản phẩm da đã tăng từ 10 triệu Rúp/USD
vào năm 1991 lên tới 293 triệu USD vào năm 1995 tức gấp hơn 29 lần.
Những năm đầu của thời kỳ 1996-2000, kim ngạch xuất khẩu tăng trưởng
một cách ổn định, vượt mức chỉ tiêu kế hoạch đặt ra( Đại hội Đảng lần VIII đặt
ra chỉ tiêu tăng trưởng xuất khẩu cho thời kỳ 1996-2000 là 28%), năm 1996 đạt
7,26 tỷ USD, tăng 33,2% so với 5,45 tỷ USD năm 1995. Khủng hoảng tài chính
vào giữa 1997 tại Thailand và lan rộng ra các nước khác trong khu vực đã ảnh
hưởng bất lợi đối với hoạt động xuất khẩu của chúng ta. Vì vậy kim ngạch xuất
khẩu năm 1997 chỉ tăng 26% với năm 1996, đạt 9,145 tỷ USD. Năm 1998 chịu
ảnh hưởng mạnh hơn, kim ngạch xuất khẩu chỉ đạt 9,361 tỷ USD bằng 91,8% kế
hoạch đề ra (kế hoạch đã dược UBTV Quốc hội điều chỉnh) và chỉ tăng 1,9% so
với năm 1997. Đến năm 1999 vừa qua, hoạt động xuất khẩu của ta đạt được tốc
độ tăng trưởng không ngờ tới mặc dù những tháng đầu năm có vẻ chững lại.
Kim ngạch xuất khẩu đạt 11,540 tỷ USD tăng 23,3% so với năm 1998. Đây là
kết quả rất đáng khích lệ trong bối cảnh vẫn còn ảnh hưởng của khủng hoảng tài
chính khu vực, tình trạng thiểu phát trong nền kinh tế.
Nhận xét : Xuất khẩu của Việt nam từ năm 1991 đến nay đã đạt được
những thành tựu rất đáng khen ngợi, liên tục tăng trưởng với tốc độ cao vào
những năm đầu. Tuy nhiên, những năm sau lại không đạt được chỉ tiêu kế
hoạch. Năm 1999 vượt chỉ tiêu kế hoạch chủ yếu là do tăng giá thế giới một số
mặt hàng, còn xét chung các mặt hàng không đạt hoặc tốc độ tăng thấp. Nguyên
nhân có nhiều, nhưng có thể quy về một số nguyên nhân chính đó là do ban đầu
điểm xuất phát của ta còn thấp, các tiềm năng còn chưa được khai thác. Về sau,
khủng hoảng kinh tế khu vực chỉ là một trong những nguyên nhân dẫn đến tốc
độ tăng của kim ngạch xuất khẩu chậm dần, ở đây còn một nguyên nhân rất
quan trọng nữa là việc thay đổi cơ cấu hàng xuất chưa có gì đột biến để mang

17



lại động lực mới cho tăng trưởng xuất khẩu. Đồng thời, việc xuất khẩu các sản
phẩm nông nghiệp với giá cả thế giới biến động nhiều cũng gây khó khăn
không ít cho nền kinh tế trong quá trình phát triển.
2.2. PHÂN TÍCH KẾT QUẢ XUẤT KHẨU THEO CƠ CẤU HÀNG HÓA :
Trên cơ sở các lợi thế và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, hàng
hóa xuất khẩu của Việt Nam tập trung vào những mặt hàng thể hiện ở bảng 2.2.
BẢNG 2.2 : MẶT HÀNG XUẤT KHẨU CHỦ YẾU CỦA VIỆT NAM 19951999
Đơn vị
CHỈ TIÊU

Lạc Nhân
Cao su
Cà Phê
Chè
Gạo
Hạt điều
Hạt tiêu
Dầu thô
Than đá
Rau quả
Thủy sản
Dệt may
Giày dép
Thủ công mỹ
nghệ
15 Điện tử, máy
tính, linh kiện

1996


1997

Tính

TỔNG SỐ
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14

1995

1998
Số
lượng

86,4
86,8
42,0

194,2
191,0 127,5
391,6
382,0 593,8
32,9
33,0
50,5
3.575,0 3.730,0 1.024,0
33,3
25,7 117,0
24,7
15,1
64,4
9.638,0 12.145,0 1.232,3
3.454,0 3.162,0 101,5
71,2
52,6
782,0
858,0
1.502,6
1.450,0
978,4
1.031,0
159,7
158,3

Số
Trị giá
lượng
11.540,

0
56,0
33,0
265,0 145,0
482,0 592,0
36,0
46,0
4.508 1.035,0
18,4
94,0
34,8 138,0
14.882 2.017,0
3.260
96,0
104,9
971,0
1.747,3
1.391,6
165,0

474,0

590,0

5.448,9 7.255,9 9.185,0
nghìn tấn
nghìn tấn
nghìn tấn
nghìn tấn
nghìn tấn

nghìn tấn
nghìn tấn
nghìn tấn
nghìn tấn
Triệu USD
Triệu USD
Triệu USD
Triệu USD
Triệu USD

111,0
131,8
248,1
18,8
1.988,0
19,8
17,9
7.652,0
2.821,0
56,1
621,4
850,0
296,4
91,8

127,0
194,5
283,7
20,8
3.003,0

16,5
25,3
8.075,0
3.647,0
90,2
696,5
1.150,0
530,0
124,1

1999

Triệu USD

Trị giá
9.360,3

Nguồn : Niên Giám Thống Kê 1999, Bộ Thương mại.
Việc phân tích cơ cấu hàng xuất khẩu trong những năm vừa qua, nhất là tỷ
trọng của hàng hóa chế biến sâu gặp khó khăn do ta chưa có một tiêu chuẩn
thống nhất về hàng đã qua chế biến và về cấp độ chế biến của hàng hóa. Tuy
nhiên dựa trên những tài liệu thu thập được có thể đưa ra một số nhận xét nhất
định về sự chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt nam :

18


Một là : Từ năm 1989, khi ta bắt đầu xuất khẩu dầu thô và gạo với khối
lượng ngày càng lớn, tỷ trọng của nhóm nông lâm hải sản, công nghiệp nặng và
khoáng sản tăng lên, chiếm 73,6% tổng kim ngạch xuất khẩu vào năm 1990,

năm 1992 chiếm tới 86,5%. Sau đó, sự tăng trưởng nhanh chóng của nhóm dệt
may, giày dép và hải sản chế biến đã làm cho tỷ trọng này giảm xuống.
Hai là : Năm 1996, tỷ trọng của nhóm công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công
nghiệp tiếp tục tăng lên thành 29%. Năm 1997, do giá dầu thô và giá gạo cùng
giảm, tỷ trọng của nhóm ngành công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp đã
tăng lên 36,5% và năm 1999, chiếm tới hơn 40% kim ngạch xuất khẩu (chỉ riêng
4 nhóm dệt may, giày dép, sản phẩm gỗ tinh chế và điện tử đã chiếm 31,5%).
Ba là : Nếu coi hàng công nghiệp nhẹ và hàng tiểu thủ công nghiệp là hàng
đã qua chế biến (trong đó có chế biến sâu) thì cơ cấu xuất khẩu của nước ta đã
có những thay đổi theo hướng tích cực trong thời kỳ 1991-1999. Tỷ trọng của
nhóm công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp, trong đó chủ yếu là công
nghiệp nhẹ đã tăng từ 14,4% vào năm 1991 lên hơn 40% vào năm 1999. Đạt
tốc độ tăng bình quân tới trên 40%/năm, cao hơn hẳn tốc độ tăng bình quân của
kim ngạch xuất khẩu.
Bốn là : Việc chuyển dịch cơ cấu chủ yếu nhờ tăng kim ngạch của 04 nhóm
hàng : Dệt may. Giày dép, sản phẩm Gỗ tinh chế và Điện tử (bao gồm cả linh
kiện máy tính). Mà trong số này chủ yếu dựa vào phương thức gia công, hàm
lượng nội địa thấp, vì vậy chuyển dịch cơ cấu chưa thay đổi được về căn bản
hiện trạng công nghiệp xuất khẩu của Việt nam, chưa tạo được những ngành
công nghiệp gắn kết với nhau để cùng hướng về xuất khẩu và tạo ra giá trị gia
tăng ngày càng lớn. Điều này giải thích lý do tăng trưởng chậm dần trong những
năm sau này.
2.3.

PHÂN TÍCH THEO THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU :

2.3.1. Phân tích theo khu vực địa lý :
Với những nỗ lực của Việt Nam nhằm mở rộng và khai thông thị trường,
cùng với sự tan rã khối SEV dẫn đến thay đổi lớn trong cơ cấu thị trường xuất


19


khẩu của Việt nam. Vào năm 1985 khu vực Liên Xô cũ và các nước XHCN
Đông u còn chiếm tới 57% kim ngạch xuất khẩu của ta nhưng đến năm 1990
tỷ lệ này xuống còn khoảng 42,4%, năm 1991 giảm mạnh xuống còn 11,1%
năm 1995 còn 2,5% và đến năm 1999 chỉ còn chiếm xấp xỉ 2% kim ngạch xuất
khẩu. Các nước châu Á nhanh chóng trở thành thị trường xuất khẩu chính của ta
(77% năm 1991). Những năm về sau, do nỗ lực khai thông các thị trường mới là
Tây âu và Bắc Mỹ đã làm tỷ trọng của Châu Á giảm xuống nhưng vẫn còn là
thị trường xuất khẩu chính của Việt nam (61% năm 1998), trong đó Nhật Bản và
ASEAN đóng vai trò lớn nhất.
Bảng 2.4 : Thị phần hàng xuất khẩu của Việt Nam
Đơn vị tính : %
THỊ TRƯỜNG
ASEAN
Nhật Bản
Đài loan
Hongkong
Hàn quốc
Trung quốc
Châu Á
Các nước khối
SEV
Các nước EU
Châu u
Mỹ
Toàn Bắc Mỹ
Nam Mỹ
Châu Phi

Châu Đại Dương

THỜI KỲ 19911995
22,1
30,2
5,5
6,2
3,3
5,3
73,4
4,5

NĂM
1996
24,5
21,3
7,4
4,3
7,7
4,7
70,9
2,3

9,6
14,8
1,6
1,7
0
0,5
1,1


11,0
15,4
2,8
3,3
0
0,2
1,0

NĂM 1997 NĂM 1998
21,2
17,7
8,5
5,2
3,9
5,7
63,8
2,3

25,1
15,8
7,1
3,4
2,5
5,1
61,2
2,0

16,8
22,7

3,0
3,7
0,1
0,1
2,2

22,5
27,7
5,0
5,9
0,6
0,2
5,3

Nguồn : Bộ Thương Mại,Niên giám thống kê 1999.
Trong thời gian qua xuất khẩu của Việt Nam tập trung vào một số thị
trường chính sau đây :
n THỊ TRƯỜNG CHÂU Á – THÁI BÌNH DƯƠNG :

20


Việt Nam từ 1991 đến 2000 đã có nhiều bước tiến quan trọng trong quan hệ
đối ngoại và thương mại với các nước trên thế giới và nhất là các nước trong
khu vực Châu Á-Thái Bình Dương : Việt Nam chính thức tham gia ASEAN
(1995), AFTA, APEC (1998), Ta đã ký các Hiệp định thương mại với các nước
c, Newzeland, Malaysia, Thailand, Brunei, Hàn Quốc… và mới đây là Hoa Kỳ.
Trong 10 bạn hàng lớn nhất chiếm tỷ trọng 75% tổng kim ngạch xuất khẩu của
Việt nam thì có 7 nước thuộc khu vực châu Á-Thái Bình Dương là Nhật Bản,
Hàn Quốc, Hongkong, Singapore, Đài Loan, Trung Quốc, Thailand…

Nhật Bản thường xuyên chiếm trên 30% tổng kim ngạch xuất khẩu của ta
trong thời kỳ 1991-1995, nhưng tỷ trọng thị trường Nhật Bản giảm đều qua các
năm sau, đến năm 1998 chỉ còn chiếm 15,8% kim ngạch xuất khẩu.
Tỷ trọng của thị trường các nước ASEAN ngược lại, không có sự thay đổi
lớn trong suốt thời kỳ 1991-1999 (năm 1991 chiếm 25,1% , năm 1998 cũng
chiếm 25,1%). Trong đó Singapore là bạn hàng có kim ngạch lớn nhất, chiếm tỷ
trọng 60-70% của cả khối ASEAN. Tuy nhiên điều đáng lưu ý là ta luôn luôn
nhập siêu đối với thị trường ASEAN , tổng mức nhập siêu từ các nước ASEAN
lên tới 1,34 tỷ USD trong năm 1998 bằng 60% tổng mức nhập siêu của cả nước.
o Thị trường Liên minh châu u – EU :
Tỷ trọng của thị trường EU nói riêng và Châu u nói chung tăng khá đều
trong 9 năm qua. Cụ thể, năm 1991 EU mới chiếm 5,7% kim ngạch xuất khẩu
của ta nhưng tới năm 1998 đã chiếm tới 22,5%, góp phần đưa tỷ trọng của Châu
u lên tới gần 28%. Bước đột biến trong quan hệ thương mại với EU đến vào
năm 1992, khi ta ký Hiệp định khung với EU về buôn bán hàng dệt may; EU đã
ghi nhận đề nghị của Việt Nam tăng 50% hạn ngạch kể từ năm 1999, Ký Biên
bản ghi nhớ chống gian lận trong buôn bán giày dép tránh được việc EU định
ngạch nhập khẩu giày dép Việt Nam. Hội đồng Thú y EU sẽ họp và xem xét
đưa Việt Nam lên nhóm 1 các nước xuất khẩu thủy sản vào EU. Kim ngạch xuất

21


khẩu sang EU tăng rất nhanh (năm 1990 xuất 147 triệu USD sang EU thì năm
1995 đã tăng lên 709 triệu USD và tới năm 1999 đã là 3,2 tỷ USD). Đặc biệt,
đây là thị trường mà ta thường xuyên xuất siêu.
Giai đoạn 2001-2010 , do quan hệ được mở rộng, buôn bán đi vào trật tự
và ổn định nên dự kiến xuất khẩu của Việt Nam vào EU tăng khoảng 15%/năm.
Các mặt hàng xuất khẩu như dệt may, hải sản, giày dép, sành sứ, điện gia dụng
đều có thể tăng từ 10%-20%.

p THỊ TRƯỜNG NGA
Năm 2000 vẫn là năm nước Nga có nhiều biến động : bầu cử tổng thống, chiến
tranh sắc tộc dai dẳng ảnh hưởng đáng kể tới mọi hoạt động kinh tế xã hội. Khả
năng phục hồi sớm nhất cũng phải từ năm 2002 trở đi thì nước Nga mới có thể đi
vào quỹ đạo phát triển. Quan hệ giữa hai nước có thể phát triển cả về hợp tác
khai thác dầu khí và năng lượng lẫn xuất nhập khẩu. Hiện nay vấn đề thiếu hụt
ngoại tệ là vấn đề đáng quan tâm đối với thị trường này.
q THỊ TRƯỜNG SNG :
Về kinh tế, các nước SNG (Belarus, Ucraina….) đang gặp nhiều khó khăn, quá
trình chuyển đổi cơ chế vẫn chưa ổn định, ít nhiều chịu sự tác động tiêu cực của
cuộc khủng hoảng kinh tế – tài chính Nga, thiếu hụt ngoại tệ… tuy nhiên vẫn có
thể duy trì thị trường , áp dụng cơ chế hàng đổi hàng.
r THỊ TRƯỜNG ĐÔNG ÂU :
Đây là thị trường quen thuộc của Việt Nam. Các mặt hàng xuất khẩu của
ta gồm : Cà phê, quế, gia vị, giày dép, hàng may mặc, cao su, sản phẩm cao su,
thực phẩm chế biến, đồ gỗ, thủ công mỹ nghệ, hải sản, chè, than đá. Ngay từ
khi chuyển đổi cơ chế, các nước như Hungari, Séc, Slovac đã dành cho hàng hóa
Việt Nam chế độ ưu đãi thuế quan (GSP) tạo điều kiện khá thuận lợi để khôi
phục và phát tiển quan hệ thương mại song phương. Một số nước nhö Balan,

22


Hungari, Séc.. đang nỗ lực để trở thành thành viên EU. Vì vậy khả năng tăng
trưởng xuất khẩu sang các nước này là rất triển vọng trong giai đoại tới.
s THỊ TRƯỜNG BẮC MỸ :
Quan hệ thương mại với Bắc Mỹ, trong đó chủ yếu là Mỹ , đã có bước
phát triển nhanh kể từ khi Việt nam và Mỹ bình thường hóa quan hệ vào năm
1995. Trước đó chúng ta hầu như không có kim ngạch xuất khẩu vào Mỹ. Tới
năm 1995, năm đầu tiên bình thường hóa quan hệ, kim ngạch xuất khẩu vào Mỹ

đạt 170 triệu USD, đưa tỷ trọng của Mỹ từ 0% lên 3,1%. Đến năm 1998, dù
chưa ký được Hiệp định thương mại và hàng xuất của ta trên thị trường Mỹ còn
gặp nhiều khó khăn do ta chưa được hưởng quy chế MFN, nhưng kim ngạch xuất
khẩu sang Mỹ vẫn đạt 469 triệu USD, chiếm 5% trong tổng kim ngạch xuất
khẩu. Đây cũng là thị trường mà ta thường xuyên xuất siêu và giá trị xuất siêu
chắc chắn sẽ tăng mạnh nếu khai thác tốt việc thực hiện hiệp định thương mại
giữa hai bên (ký ngày 14/07/2000) trong thời gian tới.
Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu vào Canada là giày dép (32%), sản
phẩm dệt may (25,8%), hải sản chế biến, rau quản chế biến, cao su và sản phẩm
cao su, hàng thủ công mỹ nghệ, cà phê, chè… Ngoài ra Canada còn có nhu cầu
nhập khẩu các mặt hàng như quạt điện các loại, xe đạp, săm lốp xe đạp, đèn
điện các loại. Đây là các mặt hàng mà ta có khả năng xuất khẩu sang Canada
trong thời gian tới. Kim ngạch xuất khẩu vào Canada năm 2000 dự kiến đạt 100
triệu USD, giai đoạn 2001-2010 khả năng tăng 20%/năm.
Về chính sách phi thuế, Canada áp dụng quota đối với 70 loại mặt hàng
ghi trong biểu thuế, chủ yếu đối với các sản phẩm dệt may. Những hạn chế về
số lượng này của Canada sẽ được loại bỏ dần nhưng chỉ áp dụng đối với các
nước là thành viên WTO.

23


Xuất khẩu sang thị trường Châu Đại Dương, (chủ yếu là Austraslia) cũng
đã có tiến bộ trong thời kỳ 1991-1999. Tỷ trọng của thị trường này trong xuất
khẩu đã tăng từ 0,2% vào năm 1991 lên 5,3% vào năm 1998.
t THỊ TRƯỜNG CHÂU PHI, NAM MỸ :
Thị trường Châu Phi và Nam Mỹ không có chuyển biến rõ rệt trong toàn kỳ và
cho tới nay vẫn chiếm chưa đầy 1% kim ngạch xuất khẩu của ta.
Châu Phi gồm 54 quốc gia với 757 triệu dân là khu vực thị trường đang
được chú ý. Đối với Việt Nam, do bối cảnh lịch sử, quan hệ hệ hữu nghị giữa

các nước châu Phi và Việt Nam vẫn đang được duy trì và chiều hướng ngày
càng được cải thiện hơn, nhất là sau Hội nghị thượng đỉnh của các quốc gia có
sử dụng tiếng Pháp tổ chức tại Hà Nội 11/1997. Ta có khả năng xuất khẩu gạo,
chè, hàng điện tử, may mặc, giày dép, hàng gia dụng, máy móc nông nghiệp
nhỏ… mà các nước này đang cần và nhập khẩu từ châu Phi hạt điều thô, sản
phẩm dầu, bông thô, thuốc lá.
Các nước Mỹ La tinh là thị trường mới đối với Việt Nam. Tuy vậy các
nước này rất quan tâm tới thị trường châu Á, trong đó có Việt Nam. Những năm
qua kim ngạch xuất khẩu không ngừng tăng dự kiến năm 2000 đạt 100 tiệu
USD. Trong giai đoạn 2001-2010 dự kiến kim ngạch xuất khẩu với thị trường
này hàng năm tăng khoảng 20%.
u THỊ TRƯỜNG TRUNG CẬN ĐÔNG:
Với 15 nước và vùng lãnh thổ, số dân 233 triệu người. Tiềmnăng kinh tế
chủ yếu dựa vào dầu hỏa. Nhu cầu nhập khẩu của các nước này là Gạo, chè cà
phê, cao su, hàng điện tử, may mặc, thủ công mỹ nghệ, đồ mây tre đan, sản
phẩm gỗ… Đây là thị trường phải cạnh tranh rất mạnh. Năm 1998 – 1999 kim
ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào khu vực này có bước tiến bộ đáng kể.
v THỊ TRƯỜNG NAM Á : Là khu vực có số dân rất lớn, xấp xỉ 1,3 tỷ
người nhưng mức sống ở đây khá thấp. Cơ cấu hàng xuất khẩu tương tự của Việt

24


×