Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

(Luận văn thạc sĩ) thuế giá trị gia tăng và một số biện pháp nhằm hoàn thiện thuế giá trị gia tăng ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.82 MB, 72 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM

NGUYỄN HỒNG DIỄM LỘC

LUẬNVĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2001


LỜI MỞ ĐẦU
Thuế là một công cụ điều tiết vó mô nền kinh tế hữu hiệu. Tùy
thuộc vào tình hình và định hướng phát triển kinh tế – xã hội vào từng thời
kỳ mà chính sách thuế của mỗi quốc gia cũng phải được cải cách cho thích
hợp.
Ở Việt Nam, công cụ thuế đã có những cải cách quan trọng và
mang lại những kết quả đáng khích lệ cả về yêu cầu thu ngân sách lẫn
quản lý, điều tiết vó mô nền kinh tế. Năm 1990, nhà nước đã kịp thời ban
hành hệ thống thuế tương đối thích hợp với yêu cầu chuyển đổi nhanh
sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng Xã hội Chủ nghóa. Hệ
thống thuế này đã góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế, đưa đất nước thoát dần ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội đã
kéo dài nhiều năm trước đó. Và cuộc cải cách thuế lần này được xem là
bước cải cách thuế toàn diện và sâu sắc.
Tuy nhiên, khi đất nước ta chuyển sang thời kỳ phát triển mới : thời
kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, và đứng trước xu thế của thời
đại : xu thế hòa nhập toàn cầu thì hệ thống thuế ban hành từ năm 1990 đã
bộc lộ nhiều nhược điểm, hạn chế cần phải tiếp tục đổi mới và hoàn thiện.
Nhận thức rõ vấn đề này, Đảng ta đã chỉ đạo : “ Tiếp tục cải cách sâu sắc


và toàn diện hệ thống tài chính tiền tệ” và “Cải cách hệ thống thuế”.
Chính vì vậy, hệ thống thuế nước ta lại tiếp tục cải cách bước II.
Việc áp dụng thuế giá trị gia tăng (GTGT) thay cho thuế doanh thu
từ ngày 01/01/1999 là một trong những nội dung quan trọng của bước cải
cách này và thể hiện bước đi đúng đắn của quá trình cải cách thuế giai
đoạn II ở Việt Nam.
Thuế GTGT là một loại thuế hoàn toàn mới, do vậy cho dù thuế
GTGT sẽ đem lại lợi ích cơ bản cho nền kinh tế, nhưng trước mắt, sau hơn
hai năm loại thuế này bước vào đời sống kinh tế của nước ta, bên cạnh
những kết quả đã đạt được, còn rất nhiều những khó khăn, vướng mắc
trong việc chấp hành của các doanh nghiệp cũng như việc hành thu của cơ
quan thuế. Đây là một luật thuế đạt mức kỷ lục về việc sửa đổi và bổ
sung, đồng thời cũng gây nhiều tranh cãi nhất trong quá trình thực hiện.
Từ cách đặt vấn đề này, mục tiêu và đối tượng nghiên cứu của đề
tài là nhằm vào việc đề xuất ý kiến để điều chỉnh một số nội dung của


chính sách thuế GTGT ở nước ta. Qua đó, hy vọng chính sách thuế GTGT
sẽ không ngừng phát huy hiệu năng của mình để tạo nguồn thu cho ngân
sách nhà nước cũng như để dẫn dắt các nổ lực phát triển của toàn xã hội,
tập trung cho tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hòa
nhập toàn cầu.
Nội dung luận văn, ngoài phần mở đầu và kết luận bao gồm 3
chương :
Chương 1 : Lý luận tổng quan về thuế và thuế GTGT.
Chương 2 : Tình hình thực hiện thuế GTGT ở nước ta trong thời
gian qua.
Chương 3 : Một số kiến nghị đề xuất nhằm hoàn thiện thuế GTGT
ở nước ta.
Toàn bộ luận văn có 54 trang, 5 bảng, 5 đồ thị, 8 phụ lục cùng một

danh mục tài liệu tham khảo.


CHƯƠNG 1:
LÝ LUẬN TỔNG QUAN VỀ THUẾ VÀ
THUẾ GTGT.
1.1. Lý luận tổng quan về thuế:
1.1.1 Khái niệm thuế:
Thuế là một phần thu nhập mà mỗi tổ chức, cá nhân có nghóa vụ
đóng góp cho nhà nước theo luật định để đáp ứng yêu cầu chi tiêu theo
chức năng của nhà nước, nó là công cụ thể hiện quyền lực của nhà nước,
có tính chất bắt buộc, không quan tâm đến yếu tố thuận tình của người
nộp thuế và không mang tính hoàn trả trực tiếp cho người nộp.
1.1.2. Bản chất thuế:
1.1.2.1. Bản chất kinh tế :
Bản chất kinh tế của thuế thể hiện trước hết thuế là một phần thu
nhập của xã hội được tập trung để phục vụ nhu cầu chi tiêu của nhà nước.
Kinh tế là cơ sở của thuế, thuế gắn liền với sản xuất kinh doanh và thu
nhập của mọi cá nhân, thuế động viên và điều tiết thu nhập, điều chỉnh
sản xuất và tiêu dùng. Nguồn thu cho ngân sách nhà nước từ thuế chỉ có
thể tăng nhiều và nhanh trên cơ sở nền kinh tế phát triển và đạt hiệu quả
cao. Ngược lại, qua thu thuế phải góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh
phát triển, thúc đẩy thực hành tiết kiệm về mọi mặt trong sản xuất và tiêu
dùng một cách hợp lý để tạo nguồn thu thuế ngày càng lớn. Do vậy, cứ
không phải tăng thuế suất và ban hành nhiều sắc thuế là đem lại kết quả
tăng thu cho ngân sách, để tăng thu cho ngân sách và kích thích sản xuất
kinh doanh phát triển thì mức động viên về thuế phải hợp lý.
Mức thuế hợp lý thường được nhân dân dễ chấp nhận và ủng hộ ;
nhờ đó thúc đẩy đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh và số thu thuế sẽ
ngày càng tăng lên. Trong trường hợp thuế suất đã qui định quá cao thì

giải pháp duy nhất là hạ thấp thuế suất đi đôi với tìm cách mở rộng diện
thu thuế, bao quát hết nguồn thu để gánh nặng thuế được san sẻ cho nhiều
người. Như vậy vừa bảo đảm tăng thu, vừa bảo đảm công bằng xã hội
trong nghóa vụ nộp thuế cho nhà nước.


1.1.2.2. Bản chất chính trị :
Bản chất chính trị của thuế thể hiện ở bản chất giai cấp của nó. Sự
xuất hiện của thuế gắn liền với sự phân chia xã hội thành các giai cấp đối
kháng và sự xuất hiện của nhà nước và nó được coi là khoản “đóng góp
nghóa vụ cần thiết để nuôi dưỡng nhà nước pháp quyền” (K. Marx F.
Engels toàn tập, tập 8). Nhà nước đại diện cho quyền lợi của giai cấp
thống trị xã hội, do đó bản chất của nhà nước quyết định bản chất của
thuế. Nhà nước mang bản chất giai cấp nên thuế cũng mang bản chất giai
cấp. Với những nhà nước khác nhau thì bản chất giai cấp của thuế cũng
khác nhau. Điều đó được ẩn chứa bên trong những nội dung chủ yếu là :
Thuế thu vào ai ? Thu như thế nào ? Và thu để làm gì ? Trong xã hội Xã
hội Chủ nghóa thuế tham gia vào quá trình phân phối lại một phần giá trị
mới được sáng tạo ra ở lónh vực sản xuất, kinh doanh, thể hiện mối quan
hệ kinh tế giữa nhà nước với các thể nhân và pháp nhân trong phân phối
thu nhập quốc dân. Các thể nhân khi nộp thuế cho nhà nước sẽ không
nhận lại từ nhà nước bất kỳ lợi ích đặc thù nào mà coi như là nghóa vụ
đóng góp chung và nhà nước sử dụng khoản đóng góp đó để đầu tư phát
triển kinh tế – xã hội. Chính vì vậy tính cưỡng bức của thuế thông qua hệ
thống luật pháp là điều kiện không thể thiếu để tăng sức mạnh, hiệu lực
của nhà nước, tạo môi trường pháp luật cần thiết để các thể nhân và pháp
nhân có điều kiện đóng góp theo sức mình .
Tóm lại, đặc trưng cơ bản thuộc về bản chất chính trị của thuế đó là
tính luật pháp đã qui định mức đóng góp theo nghóa vụ của các thể nhân
và pháp nhân. Nhà nước muốn có nguồn thu ổn định, vững chắc, và để

thực hiện các chính sách kinh tế – xã hội của mình đương nhiên phải tiến
hành bằng phương pháp cưỡng bức của luật pháp. Ngay từ khi nhà nước
đầu tiên của xã hội loài người ra đời, thuế đã được thu bằng sức mạnh
quyền lực và được thiết lập theo nguyên tắc luật định, bằng quyền lực của
mình nhà nước là chủ thể duy nhất ban hành và sửa đổi các luật thuế, đặt
ra các loại thuế để tạo lập nguồn thu cho ngân sách nhà nước nhằm đáp
ứng nhu cầu chi tiêu của mình. Điều này làm sáng tỏ vấn đề : bản chất
giai cấp của nhà nước đã quyết định tính giai cấp của thuế.
1.1.2.3. Bản chất xã hội :
Bản chất xã hội của thuế thể hiện ở chỗ thuế thu vào toàn dân, có
liên quan đến mọi tổ chức, cá nhân trong xã hội. Thuế được thu nhằm
giúp cho việc trang trải toàn bộ các phí công mà không chỉ nhằm tài trợ
cho một vài khoản chi tiêu đặc biệt. Một cách tổng quát đó là các khoản
chi tiêu nhằm duy trì việc cung ứng các dịch vụ công cộng miễn phí, tài


trợ các khoản đầu tư công cộng, hoặc để thực hiện một chính sách kinh tế
hay hỗ trợ cho một chính sách xã hội. Trong mọi trường hợp, thuế góp
phần đảm bảo cho việc tài trợ một hoạt động liên quan đến lợi ích chung.
Trong cơ chế quản lý đất nước ta hiện nay theo công thức “Đảng
lãnh đạo, nhân dân làm chủ, nhà nước quản lý” thì nhà nước là chủ thể
duy nhất có chức năng, nhiệm vụ quản lý xã hội mang tính toàn dân, toàn
diện mọi lónh vực của đời sống xã hội. Trong đó, nhà nước sử dụng thuế
thực hiện chức năng quản lý của mình bằng cách: thông qua thuế nhà
nước điều chỉnh các quan hệ phân phối, phân phối lại thu nhập xã hội giữa
các tổ chức kinh tế, giữa các tầng lớp dân cư – các quan hệ giữa con người
với con người. Do đó thuế mang tính xã hội rất rộng rãi.
Nói tóm lại, qua việc phân tích bản chất kinh tế – chính trị – xã
hội của thuế ta thấy rằng thuế là một khoản đóng góp bắt buộc được
nhà nước qui định thông qua hệ thống pháp luật mà người nộp thuế –

các thể nhân hay pháp nhân – sẽ không được đền bù một cách trực
tiếp, tương xứng với khoản đã đóng góp. Nguồn thu này nhà nước dùng
vào việc tài trợ cho các nhu cầu công cộng của xã hội.
1.1.3. Chức năng của thuế :
Nói đến chức năng của thuế là nói đến mục đích, ý nghóa và vai trò
của thuế đối với đời sống kinh tế – xã hội. Chức năng của thuế mang tính
tổng hợp và được biểu hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau. Có ý kiến cho
rằng thuế có 2 chức năng là phân phối và giám đốc; Có ý kiến cho rằng
thuế có 4 chức năng là thu cho ngân sách nhà nước, điều chỉnh nền kinh
tế, điều hòa thu nhập, bảo vệ sản xuất và hướng dẫn tiêu dùng trong nước;
Có ý kiến cho rằng thuế có 5 chức năng là tạo nguồn thu cho ngân sách
nhà nước, điều chỉnh nền kinh tế, điều hòa thu nhập, bảo vệ sản xuất và
hướng dẫn tiêu dùng trong nước, mở rộng giao lưu kinh tế và hợp tác quốc
tế…
Các ý kiến này tuy có khác nhau nhưng không hề mâu thuẫn nhau
mà chỉ là phân tích thuế ở các góc độ khác nhau. Chính vì vậy ở đây tôi
chỉ đề cập đến hai chức năng mang tính tổng hợp của thuế là: chức năng
thu cho ngân sách và chức năng điều tiết vó mô nền kinh tế, bởi vì bên
cạnh chức năng thu cho ngân sách nhà nước thì suy cho cùng, các chức
năng khác đều nhằm góp phần điều tiết vó mô nền kinh tế.
1.1.3.1. Chức năng đảm bảo nguồn thu cho ngân sách của thuế :
Để thực hiện các chức năng của mình nhà nước phải huy động một
bộ phận nguồn tài chính của xã hội tập trung vào ngân sách nhà nước. Bộ


phận nguồn tài chính này được tập trung vào quỹ tiền tệ của nhà nước
bằng những phương thức và hình thức khác nhau, trong đó nguồn thu
chiếm tỷ trọng cao nhất là nguồn thu từ thuế.
Thực tế lịch sử phát triển của các nước cũng đã khẳng định rõ rằng
hầu hết nhà nước nào cũng đều chú trọng đến việc khai thác nguồn thu từ

thuế. Qua khảo sát của The World Bank tại 85 nước trên thế giới vào năm
1990 có đến 60 quốc gia mà khoản thu thuế chiếm 80% tổng thu ngân
sách nhà nước, đặc biệt ở các nước công nghiệp phát triển tỷ trọng này rất
lớn :
BẢNG 1: TỶ TRỌNG THUẾ TRONG TỔNG THU NSNN (%)
(Tính bình quân từ 1980 đến 1990 )
Quốc gia
Tỷ trọng thuế trong tổng

Đức

Mỹ

Pháp

Nhật

92.7%

95%

95.3%

95.4%

thu ngân sách nhà nước(%)
Tại Mỹ, từ năm 1917, tỷ trọng thuế trong tổng thu ngân sách nhà
nước gia tăng đều đặn, từ 12.4% năm 1917 đạt tới 50.3% năm 1958, rồi
95% năm 1990.
BẢNG 2: TỶ TRỌNG THUẾ TRONG TỔNG THU NSNN MỸ (%)

1917

1925

1930

1940

1945

1950

1955

1958

1990

12.4

19.3

23.3

19.1

19.6

43.1


47.7

50.3

95

Tuy nhiên ở đây cần chú ý là để đạt được yêu cầu có được nguồn
thu dồi dào không nhất thiết bắt nguồn từ việc áp đặt những thuế suất cao.
Kinh nghiệm cho thấy khi vượt qua một giới hạn nào đó việc tăng thuế
suất sẽ dẫn đến hậu quả làm sụt giảm nguồn thu (Lý thuyết đường cong
Laffer).
1.1.3.2. Chức năng điều tiết vó mô nền kinh tế của thue á:
Nhà nước thực hiện quản lý điều tiết vó mô đối với nền kinh tế – xã
hội bằng nhiều biện pháp, nhiều công cụ và thông qua pháp luật là chủ
yếu. Trong ba biện pháp Giáo dục – Hành chính – Kinh tế thì biện pháp


kinh tế là gốc, trong đó thuế là một công cụ kinh tế sắc bén và hữu hiệu
nhất. Bằng việc ban hành hệ thống pháp luật về thuế , nhà nước qui định
đánh thuế nặng vào ngành nghề, mặt hàng, khu vực này; đánh thuế nhẹ
hoặc ưu tiên miễn, giảm, không đánh thuế vào ngành nghề, mặt hàng, khu
vực khác, thông qua đó mà tác dộng vào và làm thay đổi mối quan hệ
giữa cung – cầu trên thị trường góp phẩn thực hiện điều tiết vó mô đối với
nền kinh tế.
 Về mặt quản lý :
Trách nhiệm của nhà nước là phải bằng mọi biệp pháp kiểm soát
được từng người dân làm nghề gì, thu nhập bao nhiêu, sinh sống ra sao …
để phục vụ yêu cầu quản lý về nhiều mặt của nhà nước, trong đó có yêu
cầu về thu thuế. Đặc trưng của quản lý nhà nước là quản lý toàn diện mọi
đối tượng, mọi lónh vực của đời sống kinh tế – xã hội, về phương diện này

thì quản lý nhà nước nói chung và quản lý thu thuế là trùng hợp nhau.
Vì thuế được qui định dưới hình thức một đạo luật, cho nên quá
trình thực hiện một luật thuế cũng chính là quá trình quản lý của nhà
nước. Quản lý nhà nước trong lónh vực thuế bao gồm các khâu :
- Nhà nước ban hành các qui định pháp luật về thuế (hệ thống các
văn bản pháp luật về thuế như Luật, pháp lệnh, Nghị định, thông
tư…) gọi chung là lập pháp.
- Tổ chức thực hiện trong thực tế các qui định pháp luật về thuế đã
được ban hành (thiết lập tổ chức bộ máy, đào tạo cán bộ, tuyên
truyền giải thích chính sách, tổ chức thu nộp thuế… ) gọi chung là
hành pháp.
- Kiểm tra giám sát việc thi hành các qui định pháp luật về thuế đã
được ban hành (bao gồm cả việc giải quyết khiếu nại, khiếu tố, xét
xử…) gọi chung là tư pháp.
Thông qua các hoạt động quản lý đó, nhà nước nắm được cả về số
lượng và chất lượng các hoạt động kinh tế trong nước, giúp cho việc đề ra
các giải pháp điều chỉnh nền kinh tế phát triển theo định hướng đã đề ra.
 Về mặt điều tiết vó mô nền kinh tế :
Thuế được nhà nước sử dụng như một công cụ điều tiết vó mô nền
kinh tế. Thông qua việc thu và phân phối nguồn thu ngân sách nói chung
và thuế nói riêng, nhà nước tác động một cách có hiệu quả vào các hoạt
động kinh tế của từng tổ chức, cá nhân. Cụ thể :


- Bằng việc ban hành một hệ thống pháp luật về thuế áp dụng
chung cho các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh
tế, tạo sự bình đẳng trong cạnh tranh, góp phần thúc đẩy sản xuất
phát triển.
- Trong hệ thống pháp luật về thuế có nhiều loại thuế nhưng mỗi cá
nhân, mỗi tổ chức chỉ phải nộp một số loại thuế có liên quan đến

thu nhập và hoạt động của mình.
Như vậy, bằng việc qui định áp dụng số lượng các loại thuế khác
nhau đối với từng loại hoạt động sản xuất kinh doanh khác nhau
thể hiện mức độ khuyến khích hay không khuyến khích và bảo hộ
sản xuất trong nước đối với từng ngành nghề, mặt hàng, thông qua
đó nhà nước hướng dẫn các thành phần kinh tế bỏ vốn đầu tư vào
sản xuất kinh doanh những ngành nghề, mặt hàng theo định hướng
phát triển kinh tế của nhà nước.
- Việc xác định phạm vi thu và không thu trong một sắc thuế cụ thể,
hoặc các trường hợp miễn giảm thuế, hoàn trả lại thuế đã thu, việc
qui định thuế suất cao thấp trong từng loại thuế đối với từng ngành
nghề, mặt hàng thể hiện rõ sự ưu đãi của nhà nước đối với một số
đối tượng trong xã hội , đối với việc phát triển của một ngành nghề
hoặc vùng kinh tế, từ đó góp phần điều chỉnh sản xuất và tiêu
dùng.
- Việc vận dụng phối hợp thuế trực thu và thuế gián thu cùng với
việc áp dụng thuế suất phân biệt, trong đó ấn định thuế suất cao đối
với các sản phẩm, dịch vụ cao cấp xa xỉ nhằm điều tiết bớt thu nhập
của các cá nhân, tổ chức có thu nhập cao, đồng thời áp dụng thuế
suất vừa phải, thậm chí rất thấp đối với các sản phẩm dịch vụ phục
vụ cho sản xuất hàng tiêu dùng thiết yếu của nhân dân. Điều đó, đã
góp phần giảm bớt sự chênh lệch về thu nhập cho xã hội.
- Việc ký kết và thực hiện hiệp định tránh đánh thuế hai lần giữa
các nước nhằm đẩy mạnh hợp tác đầu tư, giao lưu kinh tế cũng góp
phần thực hiện điều tiết vó mô nền kinh tế.
- Mặt khác, tác dụng định hướng, điều chỉnh sự hoạt động của toàn
bộ nền kinh tế còn được thực hiện thông qua việc sử dụng số tiền
thuế thu được để xây dựng cơ sở kinh tế hạ tầng, các dịch vụ công
cộng, hoặc để tài trợ, trợ cấp cho một số doanh nghiệp sản xuất
kinh doanh những mặt hàng cần được phát triển, các ngành kinh tế

trọng điểm và mũi nhọn. Do đó, việc chi tiêu của nhà nước bằng


tiền thuế thu được cũng góp phần điều tiết vó mô đối với nền kinh
tế.
Như vậy, khác với các công cụ điều chỉnh khác, tác động của thuế bắt
đầu từ chổ điều tiết thu nhập, thông qua đó những người bị điều tiết
thu nhập tự điều chỉnh hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động đầu
tư và tiêu dùng của mình.
1.1.4. Một số nguyên tắc đặt ra cho một hệ thống thuế :
1.1.4.1. Thuế phải rõ ràng, đơn giản :
Nguyên tắc này đặt ra nhằm ngăn ngừa hiện tượng lạm thu thuế đối
với người nộp, hiện tượng tham ô, biển lận thuế ở nhân viên thuế. Mặt
khác, tính đơn giản, rõ ràng của thuế giúp các doanh nghiệp và dân chúng
nhận thức toàn diện và chính xác về thuế, từ đó ý thức được nghóa vụ nộp
thuế của mình.
1.1.4.2. Thuế phải ổn định :
Luật thuế cần phải ổn định theo thời gian, vì những thay đổi thường
xuyên về qui định hay thuế suất sẽ làm cho doanh nghiệp khó lập được kế
hoạch dài hạn và không yên tâm hoạt động, từ đó sẽ làm giảm nguồn thu
của ngân sách cũng như giảm tác dụng điều tiết vó mô kinh tế của thuế.
1.1.4.3. Thuế phải hiệu quả :
Một hệ thống thuế được xem là hiệu quả khi nó khai thác tối đa
mọi tác dụng của thuế, tác dụng này không chỉ giới hạn trong việc tạo
nguồn thu cho ngân sách nhà nước mà còn tăng cường quản lý các hoạt
động kinh tế – xã hội, điều chỉnh các hoạt động kinh tế vó mô theo hướng
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế toàn diện. Hiệu quả của hệ thống thuế còn
thể hiện ở việc chi phí hành thu thấp.
1.1.4.4. Thuế thu phải công bằng :
Nguyên tắc này đòi hỏi chính sách thuế phải đảm bảo được sự công

bằng, bình đẳng giữa các đối tượng chịu thuế cũng như các đối tượng nộp
thuế tạo mặt bằng pháp lý, môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các
doanh nghiệp, kích thích tăng trưởng kinh tế. Sự công bằng ở đây không
phải là cào bằng, không có nghóa là mọi người phải nộp số thuế giống
nhau, mà công bằng phải hợp lý, công bằng xã hội: người có thu nhập
nhiều phải nộp thuế nhiều hơn người có thu nhập ít và sau khi nộp thuế
người có thu nhập cao phải được được hưởng số thu nhập còn lại cao hơn
người có thu nhập thấp. Người không có thu nhập thì không phải nộp thuế.


1.2. Các vấn đề cơ bản về thuế GTGT :
1.2.1. Khái niệm về thuế GTGT :
Thuế GTGT là thuế tính trên khoản giá trị tăng thêm của hàng hóa,
dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng.
Khoản thuế này do đối tượng tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ chịu.
Giá trị gia tăng là phần giá trị mà người sản xuất kinh doanh tạo
thêm vào phần nguyên liệu hoặc hàng hóa đầu vào trước khi đem bán loại
hàng hóa, dịch vụ mới. Sự chênh lệch giữa giá trị đầu vào và giá trị của
sản phẩm bán ra là phần giá trị tăng thêm.
1.2.2. Khái quát tiến trình áp dụng thuế GTGT trên thế giới:
Ngày 10/04/1954, thuế GTGT được thiết lập tại Pháp và áp dụng
thí điểm vào ngành sản xuất và thương nghiệp buôn bán. Kể từ lúc này,
tiến trình áp dụng và triển khai thuế GTGT đã lan rộng ra các quốc gia
thuộc khối liên minh Châu u và một số cường quốc kinh tế phát triển tính đến năm 1996 – có hơn 100 quốc gia áp dụng thuế GTGT.
Tại các nước Châu Mỹ Latinh thuế GTGT bắt đầu xâm nhập vào
những năm 70. Số lượng các nước áp dụng thuế GTGT ở khu vực này
tăng từ 10 nước vào đầu những năm 80 đến nay lên hơn 20 nước. Ban đầu
hệ thống thuế GTGT ở các nước này rất sơ sài tập trung vào qui trình sản
xuất và nhập khẩu, sau đó dần dần cải tổ bằng việc giảm thuế suất, mở
rộng đối tượng chịu thuế, cải tiến công tác quản trị thuế… các nước này đã

tăng tỷ lệ thu của mình so với GDP nhờ vào thuế GTGT.
Tại các nước Châu Á, thuế GTGT ngày càng trở thành sắc thuế phổ
biến, khởi đầu tại Hàn Quốc (1977), Indonesia (1985), Đài Loan (1988),
Philippin (1988), Nhật (1988), Thái Lan (1992), Trung Quốc (1994),
Singapore (1994) và Việt Nam (1999).
1.2.3.Thuế GTGT ở một số nước và một số kinh nghiệm có thể áp
dụng vào Việt Nam:
1.2.3.1.Thuế GTGT ở Thái Lan:
Thuế doanh nghiệp Thái Lan đã bộc lộ nhiều nhược điểm sau một
thời gian dài áp dụng, trở thành vật cản trong quá trình thực thi chính sách
phát triển kinh tế, xã hội. Do đó tháng 1/1992, Thái Lan trở thành nước
thứ 40 trên thế giới áp dụng thuế GTGT.
Đối tượng nộp thuế là những doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh
thường xuyên trên lãnh thổ Thái Lan, có doanh thu cả năm trên 600.000
Bạt (khoảng 250 triệu VND). Các doanh nghiệp chỉ thực hiện một việc


kinh doanh cụ thể nào đó tại Thái Lan thì không được coi là hoạt động
thường xuyên và không áp dụng thuế GTGT. Các doanh nghiệp có doanh
thu từ trên 600.000 Bạt cho đến 1,2 triệu Bạt (khoảng từ 250 triệu đến 500
triệu VND) một năm được quyền lựa chọn một trong hai hình thức nộp
thuế: thuế GTGT hay thuế doanh nghiệp, nếu chọn thuế doanh nghiệp thì
thuế suất là 1,5% tính trên toàn bộ doanh thu và không được khấu trừ đầu
vào.
Đối tượng không nộp thuế GTGT là các ngân hàng thương mại,
công ty tài chính, công ty bảo hiểm, công ty buôn bán bất động sản, công
ty xuất nhập khẩu và doanh nghiệp sản xuất các mặt hàng chịu thuế tiêu
thụ đặc biệt.
Thuế suất 0% áp dụng cho hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu, không phải
nộp thuế đầu ra và cơ quan thuế sẽ hoàn lại thuế GTGT mà hàng hóa đó

đã nộp qua các giai đoạn sản xuất, kinh doanh trước đó.
Thuế suất chung là 7% trên trị giá gia tăng.
Các hàng hóa sau đây không phải chịu thuế GTGT : nông sản thực
phẩm, phân bón, bột cá và thức ăn gia súc, thuốc chữa bệnh và các sản
phẩm hóa chất dùng cho trồng trọt, cho chăn nuôi, báo chí sách giáo khoa.
Công thức tính thuế GTGT :
Thuế GTGT = thuế suất x (trị giá đầu ra – giá trị đầu vào)
Trường hợp thuế đầu ra nhỏ hơn thuế đầu vào thì doanh nghiệp
được hoàn thuế. Có hai phương pháp hoàn : Hoàn ngay cho người nộp
thuế hay trừ vào tháng sau.
Trị giá tính thuế GTGT đối với hàng sản xuất trong nước là giá bán
hàng thực tế cung ứng dịch vụ thể hiện bằng chứng từ hợp pháp. Đối với
hàng nhập khẩu là giá CIF cộng thuế nhập khẩu và các chi phí khác (ví dụ
phí hải quan, phí lưu kho lưu bãi). Trong trường hợp giá nhập khẩu thể
hiện trên chứng từ (từ nước ngoài quá thấp) hải quan có quyền ấn định lại
giá cho phù hợp thực tế trên nguyên tắc giá thông thường hay giá nhập
phổ biến của những mặt hàng tương tự.
Vụ Thu thuộc Bộ Tài Chính chịu trách nhiệm quản lý, chỉ đạo thực
hiện thuế GTGT.
Thái Lan cho đến nay, sau hơn 8 năm thực hiện thuế GTGT, vấn
đề quản lý vẫn đáng quan tâm. Tuy hệ thống máy tính được sử dụng rộng
rãi và hệ thống chứng từ khá nề nếp, nhưng vẫn khó tránh khỏi sơ hở dễ
bị lợi dụng trốn thuế bởi khả năng vi tính hóa cũng như trình độ quản lý
chưa phù hợp với tình hình phát triển kinh tế của đối tượng nộp thuế.


Đối tượng nộp thuế phải kê khai thuế trước ngày 15 của tháng sau.
Sau khi thông qua công tác kiểm toán, mức thuế GTGT sẽ được thông báo
đến đối tượng nộp thuế hạn từ 7 đến 10 ngày.
Hầu hết các đối tượng nộp thuế ở Thái Lan đều nhận thấy cách

đánh thuế GTGT là hợp lý và đảm bảo quyền lợi cho bản thân họ, đồng
thời cũng là động lực khiến họ tích cực đáp ứng các điều kiện để được nộp
thuế GTGT thay cho thuế doanh nghiệp.
Một số nhận xét rút ra qua áp dụng thuế GTGT ở Thái Lan :
- Sự mạnh dạn áp dụng thuế GTGT ở Thái Lan dù rằng kết quả
thu trong cơ cấu chung còn thấp, chỉ chiếm 14,8% trong tổng số thu ngân
sách, nhưng theo khẳng định của cơ quan thuế Thái Lan thì tỷ trọng này
chắc chắn sẽ tăng lên. Trước hết vì lợi ích kinh tế, đại đa số doanh nghiệp
đều ủng hộ và mong muốn đáp ứng các điều kiện để được áp dụng thuế
GTGT.
- Việc chuyển từ hệ thống thuế doanh nghiệp sang thuế GTGT
phải qua bước đơn giản hóa về thuế suất thuế GTGT.
- Tổ chức thực hiện cần có bước đi cụ thể, không làm tràn lan,
không bắt buộc, trong thời gian đầu cần duy trì hai hệ thống thuế doanh
nghiệp và thuế GTGT. Việc qui định qui mô doanh nghiệp không có nghóa
là mọi đối tượng đạt doanh số đó đều phải thực hiện thuế GTGT mà nhà
nước để cho họ lựa chọn. Vì lợi ích kinh tế họ sẽ đăng ký nộp thuế GTGT
và như vậy bắt buộc họ phải thực hiện đầy đủ các điều kiện qui định cho
việc nộp thuế GTGT.
1.2.3.2.Thuế GTGT ở Thụy Điển :
Thuế GTGT được áp dụng ở Thụy Điển từ 01/01/1960 với thuế suất
4% đánh vào một số hàng hóa, dịch vụ. Ngày 01/01/1969 thuế suất được
nâng lên 10%, trước năm 1991 thuế suất 23,46%, từ 01/01/1991 thuế suất
là 25%, đến 01/01/1992 có hai thuế suất 18% và 25% : thuế suất 18% áp
dụng cho các ngành hàng : khách sạn, nhà hàng, thực phẩm, vận tải, giao
thông công cộng ; Thuế suất 25% áp dụng cho các ngành hàng và dịch vụ.
Thụy Điển qui định miễn thuế cho 29 ngành hàng và dịch vụ như :
giáo dục, coi trẻ, dịch vụ ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, hội họa, mỹ
thuật, điêu khắc, lưu trữ bảo tàng, tem thư, sách báo, tạp chí, quà tặng,
dịch vụ, tang lễ, bác só nha khoa… Thuế suất 25% áp dụng cho các mặt

hàng còn lại.
Việc thực hiện thuế GTGT do Tổng Cục Thuế và Hải Quan đảm
nhiệm.


Hàng xuất khẩu không phải nộp thuế GTGT và được thoái trả số
thuế GTGT đã nộp ở khâu trước. Thuế nhập khẩu tính trên giá hàng nhập
và do chủ hàng nộp ngay khi hàng hóa nhập khẩu.
Hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng trong nội bộ các cơ sở sản xuất kinh
doanh cũng phải chịu thuế GTGT, giá tính thuế là giá thị trường của sản
phẩm cùng loại.
Năm 1991 số thu thuế GTGT là 131 SEK, chiếm khoảng 15% tổng
số thu ngân sách nhà nước.
Việc thoái trả thuế GTGT trong mọi trường hợp được thực hiện
nhanh chóng, chính xác và không bị phiền hà do có hệ thống máy tính rất
hoàn hảo và công tác tổ chức quản lý chặt chẽ, linh hoạt. Khi nhận được
tờ khai xin thoái trả thuế, cơ quan thuế tiến hành kiểm tra tờ khai, hóa đơn
mua hàng, hóa đơn bán hàng, đối chiếu với số thuế GTGT đã nộp kho
bạc, sau đó ra quyết định và làm thủ tục thoái trả thuế qua bưu điện.
Riêng đối với cá nhân mua hàng hóa mang ra nước ngoài tiêu dùng (xuất
khẩu phi mậu dịch) Thụy Điển sử dụng công ty Dịch Vụ Thoái Trả Thuế
GTGT. Người mua hàng có hóa đơn, khi mang qua cửa khẩu sẽ được thoái
trả lại số thuế GTGT đã nộp ở Thụy Điển.
Các tổ chức, cá nhân có sản xuất, kinh doanh các mặt hàng dịch vụ
chịu thuế GTGT đều có trách nhiệm kê khai với cơ quan thuế nơi kinh
doanh như sau : những cơ sở có doanh thu dưới 200.000 SEK năm thì kê
khai thuế GTGT trong cùng một tờ khai thuế thu nhập ; những cơ sở có
doanh thu từ 200.000 SEK năm trở lên thì sử dụng tờ khai riêng về thuế
GTGT. Việc kê khai thuế GTGT được thực hiện 2 tháng một lần. Những
cơ sở muốn hoàn thuế nhanh, có thể kê khai thuế hàng tháng. Thời gian

gởi tờ khai đến cơ quan thuế chậm nhất là ngày 5 của tháng sau. Quá ngày
qui định mà cơ sở không nộp tờ khai sẽ bị phạt : chậm trong 15 ngày bị
phạt 2% trên số thuế phải nộp, trên 15 ngày bị phạt 6% trên số thuế phải
nộp, mức phạt thấp nhất là 50 SEK cho 1 lần phạt. Nếu chậm nộp 3 tuần
trở lên, cơ quan thuế sẽ chuyển qua cơ quan cưỡng chế thuế.
Thuế GTGT hoàn toàn thu theo kê khai, không thu khoán.
Một số nhận xét rút ra qua áp dụng thuế GTGT ở Thụy Điển.
- Thuế GTGT áp dụng ở Thụy Điển trong một thời gian dài nên
bộ máy quản lý thuế đã tương đối hoàn chỉnh, thuế suất đơn giản, chỉ có
hai thuế suất 18% và 25%, ý thức chấp hành luật pháp của người dân
Thụy Điển cao, đối tượng áp dụng thuế GTGT toàn diện, hành thu thuận
lợi.


- Điều kiện để áp dụng thuế GTGT là phải có sổ sách kế toán,
hóa đơn đầy đủ, trung thực và chính xác.
1.2.3.3. Những kinh nghiệm có thể áp dụng vào Việt Nam:
Từ việc nghiên cứu thuế GTGT của một số nước ta có thể rút ra
một số kinh nghiệm áp dụng vào thực tiễn Việt Nam là :
- Đa số các trường hợp áp dụng, số thu từ thuế GTGT ngày càng
tăng cao hơn rất nhiều so với hệ thống thuế gián thu mà nó thay thế. Điều
này rất hấp dẫn đối với các quốc gia đang muốn cải thiện việc quản lý
thuế gián thu của mình. Trong giai đoạn đầu thuế suất tương đối thấp và
dần được nâng lên sau một thời gian áp dụng.
- Đơn giản hóa thuế suất và hạn chế miễn giảm là một xu hướng
mà các nước áp dụng thế GTGT đang thực hiện vì chi phí quản lý để điều
hành một hệ thống thuế GTGT lớn hơn nhiều so với chi phí quản lý hệ
thống thuế gián thu cũ. Chi phí này càng lớn khi có nhiều thuế suất và
nhiều trường hợp miễn, giảm thuế. Bởi vì miễn giảm thuế sẽ làm tăng số
thuế suất áp dụng và vì số thuế nộp ở một công đoạn sẽ được chuyển sang

công đoạn sau. Bản thân doanh nghiệp và cơ quan quản lý thuế buộc phải
tăng khối lượng công việc tính toán.
- Hệ thống thuế GTGT đòi hỏi phải thiết kế một hệ thống quản lý
hành chánh hoàn toàn mới. Những hiểu biết về hệ thống thuế doanh thu
sẽ rất hữu dụng khi điều hành thuế GTGT nhưng phải có sự đào tạo lại
các cán bộ thuế. Đồng thời phải tạo điều kiện để áp dụng vi tính hóa. Vi
tính, hóa đơn, chứng từ và phương pháp tính thuế GTGT khấu trừ là những
đặc điểm hỗ trợ nâng cao khả năng phát hiện những trường hợp trốn lậu
thuế , làm người thụ thuế nghiêm chỉnh chấp hành chính sách thuế.
- Phần lớn các nước đều miễn thuế cho hàng thực phẩm, đặc biệt
là các loại thực phẩm thiết yếu có tính chất quan trọng đối với các gia
đình có thu nhập thấp.
- Miễn thuế GTGT cho các dịch vụ tài chính vì khó có thể xác
định được GTGT được tạo ra cho mỗi dịch vụ của các tổ chức tài chính.
Thuế GTGT chỉ thu được của các dịch vụ tài chính khi bán lẻ cho các hộ
gia đình, mọi hình thức sử dụng dịch vụ tài chính của các doanh nghiệp sẽ
được khấu trừ. Do vậy việc mở rộng thuế GTGT cho các loại hình dịch vụ
tài chính không làm tăng đáng kể nguồn thu ngân sách. Bên cạnh đó các
dịch vụ tài chính sẽ làm tăng chi phí vay vốn đối với khu vực tư nhân, điều
này có ý nghóa kinh tế nhất định.


- Để đơn giản hóa việc quản lý thuế GTGT các nước thường áp
dụng biện pháp lựa chọn ngưỡng chịu thuế, nhưng mức đề ra ở các nước
khác biệt nhau khá lớn. Lợi ích của việc qui định ngưỡng thu thuế là loại
bỏ ngay những đối tượng khó thu thuế GTGT, phần lớn là các nông dân và
hộ buôn bán nhỏ. Việc qui định ngưỡng thu thuế cũng tạo ra một số vấn
đề nhất định. Có trường hợp khai man hay tách nhỏ doanh nghiệp để được
ở dưới ngưỡng. Ngược lại những doanh nghiệp nhỏ thường xuyên cung cấp
hàng cho những doanh nghiệp lớn nộp thuế GTGT là những doanh nghiệp

muốn ở trên ngưỡng. Để hạn chế tình trạng này, một số quốc áp dụng một
loại thuế doanh thu gộp cho các doanh nghiệp nhỏ, loại thuế được tính
toán để khuyến khích các doanh nghiệp nhỏ chuyển sang chế độ thuế
GTGT. Qua nghiên cứu, các chuyên gia thuế cho rằng nên qui định
ngưỡng cao hơn là ngưỡng thấp. Nguồn nhân lực về hành chính cần có để
quản lý các đối tượng nhỏ có thể được sử dụng hiệu quả hơn khi tập trung
vào các đối tượng nộp thuế vừa và lớn. Nhiều doanh nghiệp nhỏ được
miễn trừ khỏi hệ thống thuế GTGT thì sự phản đối việc áp dụng loại thuế
này cũng sẽ ít hơn.
1.2.4. Sự cần thiết áp dụng thuế GTGT ở Việt Nam :
1.2.4.1.p dụng thuế GTGT để phù hợp với yêu cầu mới trong quá
trình hội nhập khu vực và quốc tế:
Hòa chung với tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế, năm 1996,
Việt Nam đã bắt đầu thực hiện chương trình Ưu đãi thuế quan có hiệu lực
chung giữa các nước Đông Nam Á. Theo thỏøa thuận, từ năm 1996 đến
năm 2006 thuế xuất nhập khẩu phải giảm dần chỉ còn từ 0% đến 5% và
các hàng rào thuế quan khác tháo dỡ toàn bộ. Điều này ảnh hưởng lớn
khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước cũng như làm sụt
giảm nguồn thu ngân sách quốc qia. Vì vậy để duy trì sự phát triển kinh tế
và tăng thu ngân sách nhà nước sử dụng nhiều biện pháp trong đó không
thể không kể đến việc cải cách hệ thống thuế, đặc biệt là ban hành thuế
GTGT.
Khi áp dụng thuế GTGT thì hệ thống chính sách tài chính và chính
sách thuế nước ta hòa nhập được với chính sách tương ứng của các nước
trong khu vực, rất phù hợp với chính sách mở cửa của Đảng và nhà nước
ta
1.2.4.2.Thuế GTGT đảm bảo số thu kịp thời và ổn định cho ngân sách
nhà nước.
Kinh nghiệm của các nước cho thấy, khi thay thuế doanh thu (hoặc
loại thuế tương đương) bằng thuế GTGT, thu cho ngân sách không đổi và



tại mội vài nơi còn tăng đáp ứng nhu cầu chi tiêu của nhà nước. Các
trường hợp sụt giảm sau khi ban hành thuế GTGT dù có xảy ra ( Kenya và
Philippines) nhưng được lý giải là do khâu chuẩn bị và triển khai thiếu chu
đáo.
BẢNG 3: VỊ TRÍ CỦA THUẾ GTGT TRONG NGÂN SÁCH PHÁP
(1994)
(Tổng thu về thuế 1,465.5 tỷ FRF)
Thuế GTGT

645.5

44.0%

Thuế thu nhập

295.6

20.1%

Thu khác

196.5

13.4%

Thuế quan, SP dầu khí

152.3


10.4%

Thuế lợi tức công ty

134.4

9.1%

Thuốc lá và thuế gián thu

41.2

2.9%

1.2.4.3.Thuế GTGT khắc phục được nhược điểm của thuế doanh thu.
Ngày 08 tháng 08 năm 1990, Hội đồng nhà nước ban hành thuế
doanh thu . Thoạt đầu thuế doanh thu đã thống nhất được cách tính thuế,
tạo sự bình đẳng và mở ra một khả năng khai thác nguồn lực tại chổ của
các thành phần kinh tế trong nước. Tỷ lệ huy động thuế doanh thu so với
thu nhập quốc dân từ năm 1993 đến năm 1997 như sau:
BẢNG 4: TỶ LỆ HUY ĐỘNG THUẾ DOANH THU SO VỚI THU
NHẬP QUỐC DÂN.
Chỉ tiêu (%)

1993

Tốc độ tăng
thuế doanh thu
Tỷ lệ huy động

so với GDP

3.04

1994

1995

1996

1997

140

136.6

132.1

106.2

3.5

3.7

3.97

3.8


Tuy nhiên do tình hình đất nước và cơ chế kinh tế có nhiều thay

đổi, thuế doanh thu đã bộc lộ nhiều nhược điểm và khó có thể phát huy
hiệu quả một cách tích cực. Khi khảo sát những nhược điểm của thuế
doanh thu, người ta phát hiện ra thuế GTGT có khả năng khắc phục tốt
hơn, cụ thể ở những điểm sau:
+Về việc thu thuế trùng lắp :Thuế doanh thu được tính dựa vào thuế
suất nhân với tổng doanh số, hàng hoá dịch vụ bán ra. Do đó khi
đánh thuế doanh thu ở khâu sau, người ta lại tính trùng doanh số kết
chuyển của hàng hoá, nguyên liệu, bán thành phẩm ở đầu vào. Vì
vậy thuế đánh trùng lắp, thuế chồng thuế, làm cho giá cả sản phẩm
cao hơn, giảm khả năng cạnh tranh của hàng nội địa. Thuế GTGT
do được tính trên giá trị tăng thêm của mỗi khâu, mỗi công đoạn
nên việc tính trùng doanh thu không còn nữa. Điều này thúc đẩy
các doanh nghiệp chuyên môn hoá để nâng cao chất lượng hàng
hoá, dịch vụ vì thuế GTGT không phụ thuộc vào sự tổ chức và phân
chia quản lý các công đoạn của chu trình sản xuất kinh doanh.
+Về việc khuyến khích xuất khẩu hàng hóa và đầu tư : Hoạt động
xuất khẩu hàng hoá tuy đã được chú ý khuyến khích trong luật thuế
doanh thu thông qua việc qui định miễn thuế đối với hoạt động sản
xuất hàng xuất khẩu (hoạt động kinh doanh xuất khẩu không được
miễn). Ngày 20/06/1998 Bộ tài chính ban hành thông tư
83/1988/TT-BTC hướng dẫn hoàn thuế doanh thu cho nguyên vật
liệu và bán thành phẩm mua để sản xuất hàng xuất khẩu. Tuy
nhiên, qui trình xét duyệt và hoàn thuế phức tạp và dài ngày do đó
khó triển khai một chính sách hổ trợ xuất khẩu thỏa đáng. Trong
khi đó thuế GTGT với phương pháp khấu trừ và thuế suất 0%,
doanh nghiệp không phải nộp thuế mà còn được hoàn trả toàn bộ
thuế GTGT nằm trong nguyên vật liệu mà doanh nghiệp đã trả
trước đó. Điều này làm tăng khả năng đầu tư và khả năng cạnh
tranh cho các doanh nghiệp, và chế độ ưu đãi xuất khẩu được mở
rộng ra nhiều đối tượng hơn.

+Về việc thực hiện chế độ hạch toán kế toán và quản lý hóa đơn
chứng từ : Khi áp dụng thuế doanh thu, tình trạng doanh nghiệp
thực hiện chế độ hoá đơn chứng từ càng nghiêm chỉnh thì càng
không có khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp không thực
hiện đầy đủ trong cùng ngành hàng. Đó là nguyên nhân cơ bản gây
tình trạng kéo dài không chấp hành chế độ sổ sách của các doanh
nghiệp. Đối với thuế GTGT tự nó sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp
thực hiện chế độ hạch toán, kế toán và chế độ chứng từ hóa đơn tốt


hơn, do đó làm cho việc quản lý sản xuất kinh doanh có hiệu quả
hơn. Bởi vì khi thực hiện thuế GTGT, bản thân doanh nghiệp buộc
phải có đầy đủ hóa đơn chứng từ hợp lệ thì mới được khấu trừ
GTGT đầu vào, nên đây chính là lợi ích của bản thân doanh
nghiệp. Và vì thế, các doanh nghiệp phải yêu cầu nhau thực hiện
đầy đủ và trung thực chế độ hóa đơn chứng từ chứ không thể “đồng
tâm hiệp lực” để trốn thuế được.
+ Về việc khuyến khích tính tự giác kê khai và nộp thuế của doanh
nghiệp : do thuế doanh thu có nhiều thuế suất và qui định quá nhiều
trường hợp miễn giảm làm cho công tác quản lý thu phức tạp, lợi
dụng điều này, các hộ kinh doanh thường kê khai thiếu trung thực
nhằm trốn thuế. Điều này đã làm giảm nguồn thu ngân sách. Thuế
GTGT với 4 mức thuế suất và hạn chế các trường hợp miễn giảm
đã giúp nâng cao hiệu quả quản lý thuế. Mặt khác, để được hoàn
thuế thì các doanh nghiệp phải kê khai kịp thời do đó nâng cao tính
tự giác kê khai và nộp thuế của doanh nghiệp.
1.2.5. Thuế GTGT hiện hành của Việt Nam :
Luật thuế GTGT ở nước ta đã được Quốc hội Khóa IX, kỳ họp thứ
11 thông qua ngày 10/05/1997 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/1999.
Việc ban hành thuế GTGT thay cho thuế doanh thu là nhằm khắc phục

những nhược điểm của thuế doanh thu, kích thích sản xuất phát triển đồng
thời từng bước hoàn thiện hệ thống chính sách thuế của nước ta phù hợp
với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, đáp ứng nhu cầu hội nhập với
nền kinh tế các nước trong khu vực và thế giới, thu hút vốn đầu tư nước
ngoài cũng như của các nhà đầu tư trong nước, thúc đẩy tăng cường công
tác hạch toán kế toán, chứng từ hóa đơn của các doanh nghiệp, tạo điều
kiện nâng cao hiệu quả công tác quản lý thu thuế, hạn chế thất thu thuế,
đảm bảo nguồn thu ổn định, thường xuyên, lâu dài và ngày càng tăng cho
ngân sách nhà nước…
Thuế GTGT Việt Nam hiện có những nội dung cơ bản sau :
1.2.5.1. Những qui định chung :
1.2.5.1.1. Đối tượng chịu thuế :
Theo qui định tại Điều 2 luật thuế GTGT và Điều 2 Nghị định số
79/2000/NĐ – CP của chính phủ thì đối tượng nộp thuế GTGT là hàng
hóa, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng ở Việt Nam, trừ
các đối tượng không chịu thuế mà luật thuế qui định dưới đây.
1.2.5.1.2. Đối tượng không thuộc diện chịu thuế GTGT :


Theo qui định tại Điều 4 luật thuế GTGT và Điều 4 Nghị định số
79/2000/NĐ – CP có 26 nhóm hàng hóa, dịch vụ không thuộc diện chịu
thuế GTGT. Những hàng hóa, dịch vụ này có các tiêu thức đặc trưng sau :
- Khó xác định GTGT như dịch vụ tài chính, ngân hàng hay nếu xác định
được thì cũng không đáng kể như sản phẩm nông nghiệp, muối…
-

Nhóm hàng hóa, dịch vụ nhằm phục vụ cho nhu cầu công cộng.

- Nhóm hàng hóa, dịch vụ nhằm thực hiện chính sách ưu đãi hỗ trợ
người tiêu dùng như các dịch vụ y tế, văn hóa, hàng viện trợ…

-

Nhóm hàng hóa, dịch vụ là đối tượng chịu thuế của các loại thuế khác.

-

Nhóm các hoạt động công nghệ cần khuyến khích.

- Nhóm hàng hóa, dịch vụ của những cá nhân kinh doanh có mức thu
nhập bình quân tháng thấp hơn mức lương tối thiểu nhà nước qui định đối
với công chức.
1.2.5.1.3. Đối tượng nộp thuế :
Theo qui định Điều 3 luật thuế GTGT và Điều 3 Nghị định
79/2000/NĐ-CP tất cả các tổ chức, cá nhân có hoạt động sản xuất, kinh
doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế ở Việt Nam, không phân biệt ngành
nghề, hình thức, tổ chức kinh doanh và tổ chức, cá nhân khác có nhập
khẩu hàng hóa chịu thuế đều là đối tượng nộp thuế GTGT.
1.2.5.2. Căn cứ và phương pháp tính thuế :
1.2.5.2.1. Giá tính thuế GTGT :
Giá tính thuế GTGT của hàng hóa, dịch vụ được xác định như sau :
- Đối với hàng hóa, dịch vụ do cơ sở sản xuất, kinh doanh bán ra hoặc
cung ứng cho các đối tượng khác là giá chưa có thuế GTGT.
- Đối với hàng hóa nhập khẩu là giá tại cửa khẩu cộng (+) thuế nhập
khẩu.
- Tùy theo từng loại hình kinh doanh, từng loại hàng hóa, dịch vụ giá
tính thuế được xác định cụ thể theo hai nguyên tắc trên.
1.2.5.2.2. Thuế suất thuế GTGT :
Thuế suất thuế GTGT hiện có 4 mức :
- Thuế suất 0% áp dụng đối với hàng hóa xuất khẩu (bao gồm cả hàng
hoá chịu thuế tiêu thụ đặc biệt xuất khẩu)



Hàng hóa xuất khẩu không phân biệt hàng sản xuất hay hàng gia công ;
xuất ra nước ngoài hay xuất vào khu chế xuất.
- Thuế suất 5% đối với hàng hóa, dịch vụ áp dụng cho các trường hợp
sau:
• Những hàng hóa, dịch vụ phục vụ cho những nhu cầu thiết yếu của
nhân dân một cách trực tiếp trên các lónh vực nông nghiệp, y tế,
giáo dục, khoa học….
• Nhóm hàng hóa chưa qua chế biến là nguyên liệu thiết yếu phục vụ
cho sản xuất cần khuyến khích ; thực phẩm tươi sống.
- Mức thuế suất 20% áp dụng chủ yếu cho các hàng hóa, dịch vụ cao
cấp, xa xỉ hoặc có mức độ sinh lời cao như :kinh doanh vàng bạc, đá q;
xổ số kiến thiết, đại lý tàu biển, dịch vụ môi giới.
-

Mức thuế suất 10% áp dụng cho những hàng hóa, dịch vụ còn lại.

Tất cả các loại hàng hóa, dịch vụ khác không qui định ở các nhóm
thuế suất 0%, 5%, 20%, và các mặt hàng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt phải
nộp thuế ở khâu kinh doanh thương nghiệp đều chịu thuế suất 10%.
Mức thuế suất thuế GTGT qui định trên đây được áp dụng thống
nhất theo loại hàng hóa, dịch vụ ; không phân biệt hàng nhập khẩu hay
sản xuất trong nước; khâu sản xuất hay kinh doanh thương nghiệp.
1.2.5.2.3.Phương pháp tính thuế GTGT :
Theo luật thuế GTGT hiện hành đối với hàng hoá dịch vụ sản xuất
trong nước có 2 phương pháp tính thuế : phương pháp khấu trừ là phương
pháp cơ bản, phổ biến; phương pháp trực tiếp là phương pháp bổ sung,
dùng cho những đối tượng theo qui định chưa thực hiện đầy đủ chế độ sổ
sách kế toán và hóa đơn thuế.

+ Phương pháp khấu trừ thuế :
Là phương pháp phổ biến trên thế giới, được áp dụng cho hầu hết
các đơn vị, tổ chức kinh doanh, bao gồm các doanh nghiệp Nhà nước,
doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp tư nhân, các công ty cổ
phần, hợp tác xã và các đơn vị, tổ chức kinh doanh khác trừ các cá nhân
sản xuất, kinh doanh và tổ chức cá nhân nước ngoài ở Việt Nam không
theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam chưa thực hiện đầy đủ các điều
kiện về kế toán, hóa đơn, chứng từ để làm căn cứ tính thuế theo phương
pháp khấu trừ thuế và cơ sở kinh doanh mua bán vàng bạc, đá q, ngoại
tệ.


Số thuế GTGT phải nộp bằng (=) số thuế GTGT đầu ra trừ (-) thuế GTGT
đầu vào.
Trong đó:
Thuế GTGT đầu ra bằng (=) giá trị h.hóa d.vụ bán ra nhân (x) với thuế
suất.
Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng tính thuế theo phương pháp khấu
trừ thuế khi bán hàng hóa, dịch vụ phải tính và thu thuế GTGT của hàng
hóa, dịch vụ bán ra. Khi lập hóa đơn bán hàng hóa, dịch vụ cơ sở kinh
doanh phải ghi rõ giá bán chưa có thuế (kể cả phụ thu mà cơ sở được
hưởng), thuế GTGT, các loại phụ thu hộ cho nhà nước và tổng số tiền
người mua phải thanh toán.
Trường hợp hóa đơn chỉ ghi giá thanh toán, không ghi giá chưa có
thuế và thuế GTGT thì thuế GTGT đầu ra của hàng hóa, dịch vụ phải tính
trên giá thanh toán trên hóa đơn chứng từ. Doanh thu chưa có thuế được
xác định bằng giá bán trừ (-) thuế tính trên giá bán.
Thuế GTGT đầu vào bằng (=) tổng số thuế GTGT đã thanh toán
được ghi trên hóa đơn GTGT mua hàng hóa, dịch vụ (bao gồm tài sản cố
định dùng cho sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT)

hoặc chứng từ nộp thuế GTGT hàng hóa nhập khẩu. Thuế đầu vào được
khấu trừ phát sinh trong tháng nào được kê khai, khấu trừ khi xác định số
thuế phải nộp của tháng đó. Tỷ lệ khấu trừ là 2% hoặc 3% tùy vào từng
trường hợp .
+ Phương pháp trực tiếp :
Nếu như phương pháp khấu trừ là phương pháp phổ biến và chủ
yếu thì phương pháp trực tiếp là phương pháp tình thế do những khiếm
khuyết về việc thực hiện sổ sách kế toán và chứng từ, hóa đơn trong điều
kiện nước ta hiện nay.
Số thuế GTGT
Phải nộp
GTGT của
hàng hóa,
dịch vụ

=

=

GTGT của hàng hóa
dịch vụ chịu thuế
Doanh số của
hàng hoá, dịch vụ
bán ra

×

Thuế suất GTGT
của hàng hóa, dịch vụ đó




Giá vốn của
hàng hóa, dịch vụ
bán ra


Doanh số của hàng hóa, dịch vụ bán ra bao gồm cả các khoản phụ
thu, phí thu thêm ngoài giá bán mà cơ sở kinh doanh được hưởng, không
phân biệt đã thu tiền hay chưa thu tiền.
Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế GTGT theo phương
pháp tính trực tiếp trên GTGT không được tính giá trị tài sản mua ngoài,
đầu tư xây dựng làm tài sản cố định vào doanh số hàng hoá dịch vụ mua
vào để tính giá trị gia tăng.
Việc xác định thuế GTGT làm căn cứ tính thuế tùy thuộc vào tình
hình sử dụng hoá đơn chứng từ của cơ sở kinh doanh mà GTGT được xác
định căn cứ vào giá mua, giá bán ghi trên chứng từ, hoặc bằng doanh thu
nhân với tỷ lệ phần trăm giá trị gia tăng tính trên doanh thu, hoặc bằng
doanh thu ấn định nhân với tỷ lệ phần trăm giá trị gia tăng tính trên doanh
thu.
1.2.5.2.4. Hóa đơn, chứng từ thuế GTGT :
Đặc thù của thuế GTGT là tác động mạnh đến việc triển khai thực
hiện sổ sách hóa đơn chứng từ. Thực hiện tốt chế độ hóa đơn, chứng từ thì
quản lý thuế GTGT có hiệu quả và ngược lại, triển khai tốt thuế GTGT thì
chế độ hóa đơn chứng từ sẽ được củng cố và ổn định.
Thuế GTGT có những yêu cầu về hoá đơn, chứng từ sau :
- Mọi hoạt động kinh doanh mua bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ phải có
hóa đơn, chứng từ.
- Mọi doanh nghiệp thuộc đối tượng nộp thuế đều phải được cấp hóa đơn
chứng từ, hoặc được phép tự in sau khi có ý kiến của Bộ tài chính.

- Có hai loại hóa đơn chính là :
• Hóa đơn GTGT dùng cho doanh nghiệp áp dụng phương pháp khấu
trừ.
• Hóa đơn thường (Hóa đơn bán hàng) cho các loại đối tượng còn lại.
- Tất cả các loại hóa đơn khi sử dụng phải được viết đầy đủ nội dung, phải
ghi cả mã số của người mua và người bán (đối tượng kinh doanh).
- Đối với hoá đơn chứng từ tự in phải đăng ký mẫu với Bộ Tài chính và chỉ
được sử dụng khi đã được thông báo cho sử dụng bằng văn bản.
1.2.5.3. Đăng ký, kê khai, nộp thuế, quyết toán thuế :
1.2.5.3.1. Đăng ký nộp thuế :


Cơ sở kinh doanh, kể cả các cơ sở kinh doanh trực thuộc đều phải
đăng ký nộp thuế GTGT và thực hiện theo hướng dẫn của cơ quan thuế
trực tiếp quản lý.
Cơ sở kinh doanh mới thành lập, đăng ký nộp thuế GTGT chậm
nhất là 10 ngày, kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh. Trong trường hợp sáp nhập, hợp nhất, chia tách, giải thể, phá sản
hoặc thay đổi nội dung kinh doanh, cơ sở kinh doanh phải khai báo với cơ
quan thuế chậm nhất là 5 ngày trước khi việc đó xảy ra.
Các cơ sở kinh doanh khi đăng ký nộp thuế GTGT cần xác định
phương pháp nộp thuế. Trường hợp cơ sở kinh doanh nộp thuế theo
phương pháp trực tiếp có đủ điều kiện tự nguyện chuyển sang nộp thuế
GTGT theo phương pháp khấu trừ thì cơ quan thuế xem xét để thực hiện.
1.2.5.3.2. Kê khai thuế :
Thuế GTGT được kê khai từng tháng, trong 10 ngày đầu của tháng
tiếp theo. Trường hợp không phát sinh thuế đầu vào và thuế đầu ra vẫn
phải kê khai, nộp tờ khai cho cơ quan thuế.
Cơ sở kinh doanh chịu trách nhiệm về những kê khai trên tờ khai
của doanh nghiệp mình.

Việc kê khai thuế GTGT hàng nhập khẩu được thực hiện cùng lúc
với việc kê khai thuế nhập khẩu với cơ quan thuế quan.
Cơ sở kinh doanh nhiều loại hàng hóa, dịch vụ có mức thuế suất
GTGT khác nhau phải hạch toán riêng cho từng loại. Trường hợp không
hạch toán riêng thì cơ sở phải chịu tính và nộp thuế theo mức thuế suất
cao nhất trong số các loại thuế suất mà hàng hóa, dịch vụ của cơ sở phải
chịu.
1.2.5.3.3. Nộp thuế :
Cơ sở kinh doanh nộp thuế GTGT đầy đủ, đúng hạn vào ngân sách
nhà nước theo thông báo nộp thuế của cơ quan thuế. Thời hạn nộp thuế
của tháng được ghi trong thông báo chậm nhất không quá 25 ngày của
tháng tiếp theo.
Thuế GTGT của hàng nhập khẩu có thời hạn thông báo và thời hạn
nộp thuế cùng với thời hạn thông báo, nộp thuế nhập khẩu.
Cơ sở nộp thuế theo phương pháp khấu trừ nếu có thuế đầu vào lớn
hơn thuế đầu ra thì được khấu trừ vào thuế kỳ sau.


Thuế GTGT được nộp vào ngân sách nhà nước bằng đồng Việt
Nam.
1.2.5.3.4. Quyết toán thuế :
Hàng năm cơ sở kinh doanh phải thực hiện việc quyết toán thuế với
cơ quan thuế. Năm quyết toán thuế được tính theo năm dương lịch. Trong
thời hạn 60 ngày, kể từ ngày kết thúc năm, cơ sở kinh doanh phải nộp báo
cáo quyết toán thuế cho cơ quan thuế và phải nộp đủ số thuế còn thiếu
vào ngân sách nhà nước trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nộp báo cáo
quyết toán, nếu đã nộp thừa thì được trừ vào số thuế phải nộp kỳ tiếp sau.
Trường hợp sáp nhập, hợp nhất, chia tách, giải thể, phá sản, cơ sở
kinh doanh phải thực hiện quyết toán thuế với cơ quan thuế và gởi báo
cáo quyết toán thuế cho cơ quan thuế trong thời hạn 45 ngày, kể từ ngày

có quyết định sáp nhập, hợp nhất, chia tách, giải thể, phá sản.
Cơ sở kinh doanh phải kê khai toàn bộ số thuế phải nộp, đã nộp, số
còn thiếu hay nộp thừa tính đến thời điểm qui định phải quyết toán thuế
một cách đầy đủ, đúng chỉ tiêu và số liệu theo mẫu quyết toán thuế.
1.2.5.3.5. Hoàn thuế :
Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu
trừ thuế được xét hoàn thuế nếu số thuế đầu vào lớn hơn số thuế đầu ra
trong thời gian 3 tháng liên tiếp trở lên. Nếu cơ sở đầu tư mới tài sản cố
định đã đăng ký nhưng chưa phát sinh thuế đầu ra, nếu thời gian đầu tư từ
1 năm trở lên được xét hoàn thuế đầu vào theo từng năm, trường hợp có
số thuế GTGT đầu vào của tài sản đầu tư được hoàn lớn thì được xét hoàn
thuế từng quý.
Cơ sở kinh doanh được hoàn thuế khi sáp nhập, hợp nhất, chia tách,
giải thể, phá sản co ùsố thuế quyết toán nộp thừa.
1.2.5.3.6. Ấn định thuế :
Việc ấn định thuế của cơ quan thuế được thực hiện trong các trường
hợp cơ sở kinh doanh :
-

Không, hoặc thực hiện không đúng chế độ kế toán, hóa đơn, chứng từ.

- Không kê khai, hoặc quá thời hạn qui định nộp tờ khai đã được thông
báo nhưng vẫn không thực hiện đúng, hoặc đã nộp tờ khai thuế nhưng kê
khai không đúng các căn cứ để xác định số thuế GTGT.
- Từ chối việc xuất trình sổ sách kế toán, hoá đơn chứng từ và các tài
liệu cần thiết liên quan đến việc tính thuế GTGT.


×